← Quay lại trang sách

CHÚT ÂN TÌNH MONG MANH

CHIẾN tranh xô đẩy hàng trăm người bỏ nông thôn về thành thị. Vào những năm giữa thập niên 60, khi thời kỳ ổn định của Đệ nhất Cộng hoà đã tan biến, lúc đồng minh ào ạt đổ quân sang và những khu vực xôi đậu nhanh chóng mất hết “xôi” để chỉ còn toàn là “đậu”, bất đắc dĩ trở thành các vùng oanh kích tự do của không lực, thì bao nhiêu dân quê đã phải gạt nước mắt giã từ ruộng vườn.

Về thành, đối với họ là một quyết định hết sức bi thảm, bởi nhịp sống tranh đua làm họ choáng ngộp. Nhưng họ không có chọn lựa nào khác. Phần lớn đành theo bước chân cán bộ xã hội, chui vào những trại tiếp cư xây cất vội vã, mong manh hy vọng chiến cuộc một ngày sẽ chấm dứt để được trở lại với không khí thoáng mát của ruộng vườn. Nhưng cũng có người chịu không nổi sự tù túng của chúng cư, hoặc muốn nhân cơ hội đã đặt chân tới đô thì, khao khát một đổi thay lớn hơn, nhanh hơn, đã bung ra ngoài tự tìm sinh kế với niềm tin tạo dựng một cuộc đời mới khá hơn. Hường nằm trong trường hợp đó, mặc dầu năm ấy cô còn khá trẻ, chưa đến hai mươi.

Goá chồng lúc còn rất trẻ, mẹ Hường đi thêm bước nữa, cho Hường thêm hai đứa em rồi cũng nằm xuống. Người cha ghẻ mà nàng kêu bằng dượng xem chừng còn sung sức lắm, nhưng thay vì xông xáo kiếm thêm bà vợ nữa cho khuây khoả, thì ông có vẻ chỉ thích cây nhà lá vườn, cứ lẩn quẩn tìm cách gỡ gạc Hường. Căn nhà tôn bộ xã hội cấp phát cho nạn nhân chiến cuộc, dĩ nhiên diện tích rất khiêm tốn, đi ra đi vào Hường đều chạm mặt ông, không cách nào tránh cho thoát. Hường gọi riêng hai đứa em cùng mẹ khác cha ra chỗ vắng, dặn dò vài câu rồi quơ vội mấy bộ quần áo, nhét vào giỏ ni lông, rươm rướm nước mắt bỏ đi. Vốn liếng cô mang theo là con số không về mọi mặt. Tiền bạc, chữ nghĩa, nghề nghiệp và ngay cả cái nhan sắc ngoại ô của cô, không thứ nào có thể giúp cô làm hành trang đơn độc bước vào đời.

Hường ngồi tại bùng binh chợ Bến Thành hai ngày một đêm, ăn hết mấy ổ bánh mì và uống hàng lít nước phông tên, thì có bà khách bộ hành sang trọng dừng lại hỏi thăm rồi đón cô về nhà làm người giúp việc. Bước đầu như thế cũng là tốt rồi. Cái nghề ở đợ đang thịnh hành trong thành phố, tất nhiên chẳng vinh quang gì, nhưng nhất thời cho Hường chỗ ăn chỗ ngủ, khỏi giãi nắng giầm mưa, tháng tháng lại được trả lương ba ngàn đồng. Hường thấy tạm hài lòng và không toan tính gì xa hơn hiện tại.

Không khí thị thành làm Hường biến đổi bề ngoài rất nhanh. Nước da đen xạm vì gió nắng, vì nước phèn, chỉ vài tháng đã nhả hết, trả lại cho Hường cái vẻ tươi nhuận của một người ngồi trong bóng mát. Nhà rất ít người, mà bà chủ dường như có căn tu, suốt ngày thắp nhang khấn vái, nói năng cư xử với Hường như con em ruột thịt trong gia đình khiến Hường càng ra sức tận lực để đền đáp.

Nhưng chuyện đời vẫn thế, hễ được vợ thì hỏng chồng! Ông chủ từ ngày có Hường, mắt hau háu sáng rực trên khuôn mặt thịt tròn như cái đĩa. Những chiều buồn len lén tâm tư, khi bà vợ lên lầu tụng kinh gõ mõ, ông hay quấn quít bên Hường, gạ cái này, đòi cái kia, nhắc Hường hình ảnh người cha ghẻ mà giờ này chắc vẫn còn đang thao thức ở trại tạm cư, mong ngày Hường trở lại.

Đi ở gặp chủ dê là việc bình thường, trong thiên hạ chuyện này chẳng đáng gọi là ‘‘cổ lai hi”, nhưng Hường chịu không được. Nán lại đây cố chịu đấm ăn xôi thì sợ sẽ có ngày lớn chuyện. Mà tố giác với bà chủ thì tội nghiệp người đàn bà nhân đức. Hường đành một lần nữa ra đi, để lại nỗi luyến tiếc cho cả hai vợ chồng.

Cô chuyển sang một gia đình thanh bạch hơn, chồng làm công chức, vợ buôn vải ngoài chợ, ba đứa con đều chưa qua bậc tiểu học. Mỗi ngày nấu hai bữa cơm, giặt thau quần áo và quét dọn trong nhà ngoài sân, là kể như xong bổn phận. Chỉ có điều là lúc này Hường ngờ vực tất cả đàn ông trong thiên hạ, nên rất dè dặt mỗi khi ở một mình bên cạnh ông chủ mới. Nhưng lần này cô lầm. Không có dấu hiệu gì chứng tỏ ông này sẽ giở thói xàm xỡ. Mặt ông nghiêm và buồn kinh niên, hay đúng hơn là buồn ngủ, bởi ông hay thức khuya đánh bài. Mang trong người chất đam mê đỏ đen ấy, ông vắng nhà thường xuyên, ngày đi làm, đêm đi chơi. Chỉ khi nào thua nhiều quá, ông mới gây sòng tại nhà để lấy xâu gỡ lại. Nhất nuôi cá nhì gá bạc! Chứa bài nếu biết tính toán là cách làm giàu rất nhanh. Nhưng đối với ông chả ăn thua gì, bởi tiền xâu đặt đâu thua đấy! Thành ra lúc nào trông ông cũng lừ đừ mệt mỏi.

Một hôm Hường đi chợ về, ngạc nhiên thấy hai vợ chồng đang lục lọi quần áo, đồ đạc của Hường để trong hai cái túi xách nhỏ. Bà chủ lật tung cả chiếc chiếu trên giường Hường, tháo áo gối ra xem xét, và moi móc từng cạnh trong căn phòng riêng mà Hường vẫn nằm ngủ. Hai vợ chồng túm lấy Hường, tra hỏi về tội ăn cắp. Cái lắc bằng vàng y nặng một lượng, mới hôm qua còn nguyên trong tủ, nằm gọn ghẽ dưới xấp vải nhung, bây giờ ông chủ mở ra thì lắc vàng không cánh mà bay! Thủ phạm không thể là ai khác ngoài Hường. Ba đứa con còn nhỏ, không mở nổi cánh tủ và cũng chưa đứa nào biết tiêu tiền, chúng lấy trộm để làm gì! Hường tái mặt khoanh tay

đứng nép vào góc, nước mắt chảy quanh. Bà chủ vừa dỗ vừa dọa, lúc gay gắt lúc dịu ngọt, hy vọng nếu Hường chưa đem bán thì trả lại cho bà. Nhưng ông chồng thì không kiên nhẫn được như vậy. Người hiền thì lại hay cục! Ông túm lấy Hường, đưa ngay ra cảnh sát. Nét mặt dịu dàng và ngái ngủ thường nhật của ông đã hoàn toàn biến mất, để hiện nguyên hình là một kẻ nóng nảy gần như tàn ác.

Hường bị nhốt một đêm, rồi bà chủ ra lãnh về. Giam Hường không có lợi. Thà đưa về đem tình cảm ra mà thuyết, biết đâu Hường chẳng yếu lòng thú nhận. Nhưng bà nói hết lời, thậm chí hăm dọa bỏ tù, Hường cũng vẫn một mực không nhận. Hường van lạy thề thốt, rồi cuối cùng để cảm thông sự mất mát của gia chủ, cô xin ở lại giúp việc sáu tháng không lương. Bà chủ đã toan xiêu lòng. Nhưng ông chồng hầm hầm quăng trả thẻ căn cước và bảo cô khăn gói ra khỏi nhà ngay lập tức. Hường gạt nước mắt giã từ, chỉ hận là sẽ mãi mãi ôm theo nỗi oan ức không cách nào giãi bày được.

Nhưng thực sự Hường lầm! Ít ra trong hai người, có ông chủ biết rõ cô hoàn toàn vô tội, bởi chính ông lấy cái lắc vàng đem bán, trả món nợ ông đánh phé gặp vận đen. Lòng ông không muốn, nhưng không vùng vằng đổ tội cho Hường thì đời ông khó sống dưới bàn tay sắt bọc nhung của bà vợ. Ông đứng trên lầu nhìn theo bóng Hường thất thểu ra đi mà lòng quặn thắt. Thôi thì non nước còn dài. Nếu mai kia có tình cờ gặp lại, ông sẽ đền bù cho Hường cách khác. Ông thở dài tự an ủi rồi phóng xe đi đánh bài tiếp.

Lần này, Hường không đi ở cho người ta nữa. Nghề ấy có lẽ không hợp với cô, phải đổi con đường sinh nhai khác. Nhân có người bạn cũ rủ rê, Hường gia nhập đội ngũ gái giang hồ, bước đầu tập sự rước khách ở Gò Vấp. Cô ngạc nhiên và vui mừng vì ngay những ngày đầu nhập môn, đã thấy nghề này coi bộ không vất vả lắm như cô hình dung trước đây. Tiền chia tứ lục, ngồi mát ăn bát... mì, nhàn hơn cả đi ở đợ. Khi đã bắt đầu dày dạn, ra đường không còn phải cúi mặt nữa, Hường luân phiên di chuyển đến những cứ điểm mới như cầu Hàng, Tân Bình, Lê Văn Duyệt...v..v.. để lúc nào cô cũng là khuôn mặt mới đối với khách tìm hoa.

Quân đội đồng minh đổ vào càng ngày càng đông, làm nảy sinh những dịch vụ kinh tế phức tạp chỉ có trong xã hội thời chiến. Giống như giới xích lô và taxi, một số gái làng chơi quyết định chỉ kén khách ngoại quốc để nhận thù lao cao gấp bội người bản xứ. Hường cũng nằm trong số đó. Cô đổi vùng hoạt động, bỏ Xóm Mới xuống Biên Hoà, nhắm vào thị trường khổng lồ tại căn cứ Long Bình. Anh ở thành Sơn chạy giặc về. Em từ... Xóm mới cũng ra đi! Mọi việc xuôi chèo mát mái được khoảng hai năm thì Hường có bầu mà dĩ nhiên không biết ai là tác giả. Đồng nghiệp có người khuyên Hường phá thai. Tú bà lại càng hối thúc dữ dội, bởi dưới con mắt chuyên nghiệp, bà biết Hường chưa đến nỗi phế thải, ít lắm cũng còn mang lại lợi tức cho bà khoảng hai ba năm nữa. Nhưng Hường sợ lắm, không dám dứt khoát. Rồi cứ lần lữa mãi cho đến khi cái thai lớn quá, muốn đẩy ra cũng muộn mất rồi, đành nằm nhà chờ ngày sinh nở rồi tính sau.

Chín tháng mười ngày, Hường vào nhà hộ sanh tư ở Tam Hiệp, cho ra đời đứa bé trai hơn bốn ký, góp mặt với nhân loại đau khổ. Sinh nở lần đầu nhưng tương đối dễ dàng, mẹ tròn con vuông, không có gì trắc trở. Duy chỉ có điều đáng nói là lúc mang bầu, hình như Hường uống nhiều cà phê và coca quá, cho nên thằng nhỏ đen thui như cột nhà cháy! Con nào thì cũng yêu thương cả, dù Mỹ đen hay Mỹ trắng. Chỉ khổ một nỗi là ở vào hoàn cảnh Hường, vác đứa bé kè kè bên nách thì còn làm ăn gì được! Hường đành gạt nước mắt giao con cho cô nhi viện, ở đó có những nữ tu Công giáo ngày ngày chăm sóc đàn trẻ bơ vơ. Thằng bé khai sinh theo họ mẹ, được các bà sơ cho rửa tội, lấy tên một vị thánh da đen là Martin làm bổn mạng và các dì gọi nó là Thiện, Martin Huỳnh văn Thiện, hàm ý nhắc nhở nó mai này lớn lên phải sống theo con đường lành.

Hường nghỉ hộ sản mấy tháng rồi lại quay về nghề cũ. Cô nhìn đăm đăm những người lính da đen đến với cô, cố để ý xem có gã nào hao hao giống gương mặt thằng con mình chăng, nhưng đành chịu, bởi da đen người nào cũng tương tự như nhau, khó mà phân biệt nổi! Mà cũng chẳng cần. Bởi cô có nuôi nó nữa đâu! Cô trở lại thăm hai ba lần, hững hờ nhận tờ giấy khai sinh nhét vào bóp, rồi từ đó hai mẹ con không gặp nhau nữa.

Martin Huỳnh văn Thiện lớn nhanh hơn đám trẻ cùng tuổi, mặt mũi tuy đen đủi nhưng tính nết rất hiền lành, suốt ngày chỉ nhe hàm răng trắng nhởn, cười cười với bất cứ ai đến gần. Chưa biết đọc biết viết, nó đã thuộc lòng khá nhiều kinh bổn và thuần thục sống theo khuôn mẫu nề nếp của cô nhi viện, làm hài lòng những người bỏ công chăm sóc nó. Chỉ có là điều là chung quanh Thiện, những đứa trẻ thuần chủng đều nhìn nó bằng ánh mắt chế giễu, xúm nhau chọc ghẹo, gọi nó là “Tây đen rạch mặt” hoặc “anh Bảy Chà kem Hynos”. Dĩ nhiên nó cũng biết buồn, bởi thấy mình lạc loài không giống ai. Nhưng bản tính bẩm sinh rụt rè, thà chịu lép vế chứ không gây gổ với lũ trẻ trêu chọc, dù nó to xác hơn. Những khi bị bạn bè chọc ghẹo quá trớn, nó chỉ biết tủi thân bày tỏ sự lẻ loi của mình với các dì phước để mong nhận một lời bênh vực hay an ủi. Hạn hữu lắm, khi có đoàn xe lính Mỹ đi ngang, trong đó nổi bật vài quân nhân da đen, thể nào cũng có đứa hỏi nó:

- Mày coi kỹ xem, ông nào là ba mày?

Chính những lúc ấy là giây phút mà thằng Thiện nôn nao hơn cả. Dù chưa hiểu rõ cuộc đời, nhưng chỉ căn cứ trên những chọc ghẹo của bạn bè, nó cũng mơ hồ biết mình không thuộc về mảnh đất Việt Nam này. Mẹ nó là ai, nó không hình dung được, dù chỉ mờ nhạt. Cha nó lại càng bí mật. Một người lính nào đó có thể đã về Mỹ, hoặc đã chết trận từ lâu, để lại mình nó mang nỗi buồn sắc tộc lạ hoắc trong xã hội này.

Chiếm miền Nam được hai tháng, chính quyền địa phương giải tán cô nhi viện, lấy cơ sở làm hợp tác xã. Thằng Thiện mới hơn bảy tuổi, lao ra đời tự lưc cánh sinh. Chính sách hộ khẩu rất khắt khe, lại thêm đời sống kinh tế đang xáo trộn, chẳng ai dám chứa nó trong nhà, nhất là hình hài nó có thể gợi thêm mối căm thù đế quốc Mỹ mà Đảng và nhà nước còn đang chất chứa trong lòng. Cùng với mấy đứa nữa, nó nhảy lên chiếc xe lam chở than, về tới Sài gòn và bản năng sinh tồn bắt nó phải biến chất nhanh chóng để đương đầu với những va chạm thường nhật trên hè phố, dưới gầm cầu, ngoài xa cảng. Nó làm đủ mọi nghề, kể cả ăn cắp vặt, nhưng rất khó thành công bởi vác mặt tới đâu người ta cũng nhận ra ngay. Những đứa trẻ sống vất vưởng đồng cảnh ngộ, kết thành nhiều phe nhóm ở đầu đường xó chợ, nhưng không băng nào chứa chấp nó, bởi nó là thằng “Tây đen”. Đi đến đâu nó cũng bị xua đuổi, thậm chí đoàn Thiếu Nhi Bác Hồ cũng không muốn nó quàng khăn đỏ bởi khi sinh thời, bác không hề thương con nít Mỹ lai! Không có người bên cạnh nhắc nhở, Thiện quên luôn việc đọc kinh hằng ngày và thậm chí lờ luôn cả lễ chúa nhật.

Ba năm sau, Thiện vừa mười tuổi nhưng vóc dáng lớn như đứa mười ba mười bốn. Cuộc sống bụi đời tạm chấm dứt vì nó được vợ chồng ông Chuẩn, chủ lò rèn tại ngã tư Bảy Hiền, đem về chung sống để ngày ngày học việc và cho ông sai bảo. Nó mau chóng làm quen với những sinh hoạt thường nhật của một gia đình Bắc kỳ Công giáo di cư, sớm tối đọc kinh lần hạt và sáng chúa nhật, dù bận đến đâu cũng phải đi lễ nhà thờ. Bao nhiêu kinh bổn học thuộc lòng từ thuở lên bốn lên năm ở cô nhi viện, tưởng rằng suốt đời không dùng tới nữa, bây giờ lại phải moi trí nhớ ra để cùng với cả nhà, khoanh tay ngồi đọc trước khi đi ngủ.

Ông bà Chuẩn thuộc loại đạo gốc, sốt sắng hết mức, giữ đạo khắt khe theo lối cổ truyền trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ông đem thằng Thiện về ở, xin giấy tạm trú cho nó nhập chung hộ khẩu, không phải vì thương đứa trẻ bơ vơ mà ông thường thấy nằm ngủ trước cửa lò rèn vào mỗi buổi sáng. Lý do chính khiến ông mở lượng hải hà đón đứa con lai vào nhà là vì ông cần người giúp ông những việc vặt vãnh. Ba đứa con ông, một trai hai gái, không đứa nào muốn nối nghiệp ông, dù nhà nước vẫn đang hết lời ca ngợi lao động. Đốt lò, thụt ống bễ, nung sắt, rèn dụng cụ, tra cán cuốc cán dao và thậm chí đẩy xe ba gác đi mua than, nói chung toàn là việc nặng nhưng Thiện đều vui vẻ chấp nhận bởi ít ra cũng có một mái nhà nương thân trong những ngày mưa, và cái không khí gia đình mà nó từ lâu thiếu vắng.

Phong trào thủy lợi, chiến dịch đẩy dân đi kinh tế mới hoặc hồi hương, nền kinh tế kỹ nghệ thụt lùi xuống thủ công nghiệp... tất cả những thứ ấy giúp cho lò rèn của ông Chuẩn bận rộn suốt ngày. Nhưng dù bận hay không bận thì cũng chả ảnh hưởng gì đến lợi tức của thằng Thiện, bởi thực sự nó lao động không lương, chỉ được ông Chuẩn nuôi ăn ngày hai bữa mà thôi. Không sao! Thế cũng tốt lắm rồi. Thiếu gì gia đình lúc này phải ăn độn quanh năm hoặc thậm chí cả nhà chỉ có dăm củ khoai hay nồi cháo loãng. Vợ chồng ông Chuẩn có cơm trắng thường xuyên. Lâu lâu gặp ngày trúng mối, thêm dĩa đồ nhậu với chai bia quốc doanh ông cho Thiện ăn ké, nhìn quanh vẫn thấy hạnh phúc hơn người. Thảng hoặc có ai dại mồm xúi thằng Thiện đòi ông Chuẩn phải trả lương, thì ông sẽ lớn tiếng nạt ngay:

- Ăn cơm hay ăn cám mà dốt thế? Tao xem mày như con cái trong nhà, chứ có phải kẻ ăn người làm đâu mà mày đòi giả lương!

Bà Chuẩn mạnh miệng hơn, chỉ ngay vào mặt nó mà quát:

- Không muốn ở đây nữa thì xéo ngay! Bà không cần! Rõ thật là nuôi ong tay áo! Cơm ăn một ngày bằng hai ba đứa khác, tao đã không tính, còn dám mở mồm nói càn! Cút ngay, cho tao khỏi ngứa mắt! Cái thứ bạc như mày, rồi không ngóc đầu lên nổi đâu con ạ!

Thiện ngồi im lặng, cúi đầu tỏ vẻ nhận lỗi và dần dần coi như cuộc đời mình sẽ vĩnh cửu gắn liền với cái lò rèn này. Nó ăn khoẻ, lớn nhanh, ba năm sau đã cao lêu nghêu như cây sào. Nước da bẩm sinh vốn đen kịt, ngày ngày ngồi bên lò lửa càng bóng loáng vì mồ hôi và lấm tấm bụi than từ đầu đến chân. Mỗi khi phải thay ông Chuẩn đi thủy lợi, Thiện vô cùng khổ sở, không phải vì công tác nặng nhọc mà vì đám thanh niên thay nhau chọc ghẹo. Càng lớn lên, nó càng nhận rõ sự lạc lõng của mình và tủi thân vì chung quanh dường như không hề có một ai thân thiết. Ngay cái gia đình ông Chuẩn mà nó tự coi là người trong nhà, cũng chẳng có người nào bày tỏ mối thiện cảm gắn bó với nó. Rõ ràng trước sau nó chỉ là một thằng ở không hơn không kém.

Ba đứa con ông Chuẩn, thằng Tiêu mười sáu tuổi, đã đành là không coi Thiện ra gì rồi, mà đến con Hồng, con Lĩnh, thua nó mấy tuổi mà cũng vẫn gọi nó bằng mày và sẵn sàng quát nạt nó bất cứ lúc nào. Tiền kiếp nó là nô lệ chăng, mà sao ai cũng hất hủi! Đến con Hoa ngồi bán khoai luộc xéo xéo bên kia đường mà Thiện vẫn lấm lét ngó sang, vừa nghèo vừa xấu, thế mà cũng chẳng coi Thiện ra gì. Buổi trưa, Thiện thường tạt qua, mua khoai vừa ăn vừa ngắm, mặc dù ai cũng thấy con Hoa ngó Thiện bằng ánh mắt khinh bỉ, có thể nhổ nước miếng mỗi khi Thiện tán tỉnh. Dưới cái nhìn của con bé bán khoai, Thiện chỉ như con giun tương tư một vì sao trên trời mà thôi, ngàn đời không thể với tới được!

Thiệu thụt ống bễ thêm mấy năm nữa thì lò rèn của ông Chuẩn càng ngày càng vắng khách. Nhà nước thay đổi chính sách, buông lỏng nền thương nghiệp tư doanh, khiến dân thành thị nhanh chóng bung ra lề đường buôn bán. Vùng kinh tế mới Lê Minh Xuân toàn nước phèn, sau hàng triệu công lao động đổ vào để cải tạo đất, tham vọng biến thành nông trường trồng lúa, rốt cuộc chỉ có cây bình bát và vài luống dứa sống được. Thủy lợi trở thành lỗi thời. Tăng gia trồng tỉa không còn là trò hấp dẫn nữa. Những công viên quanh thành phố mới hôm nào lên luống trồng khoai trồng bắp, nay để trơ lại tàn tích làm trò cười cho thiên hạ bàn tán. Những cái cuốc, cái xẻng, con dao, cái búa... cứ vắng dần trên thị trường vì ít ai ngó tới. Ông Chuẩn thấy sự hiện diện kềnh càng của Thiện trong nhà là một phí phạm to lớn khiến cả nhà ngứa mắt vì nó làm ít ăn nhiều. Làm ít không phải vì Thiện lười mà vì lò rèn thiếu việc. Bà Chuẩn lại càng sốt ruột đi ra đi vào, muốn tống cổ Thiện khỏi gia đình bà càng sớm càng tốt vừa vì lý do kinh tế mà nhất là vì hai cô con gái bà vừa lớn vụt lên ở tuổi 16 và 18, để Thiện trong nhà nguy hiểm.

Thiện buồn lắm, muốn mang dòng máu đế quốc gia nhập bộ đội hay thanh niên xung phong nhưng ngại cách mạng không nhận! Ở tuổi nó, nhiều thằng đang phấn đấu để vào Đoàn, vào Đảng. Nó tự hỏi, nó có thể phấn đấu để trở thành một đảng viên da đen đầu tiên của đảng Cộng sản Việt Nam hay không? Trước mắt, khi ông bà Chuẩn, mà đã từ lâu nó kêu bằng bố mẹ, không muốn nhìn thấy nó ngồi không ăn bám, thì nó phải tìm cách lánh mặt càng nhiều càng tốt. Nó thủ thì với ông Chuẩn, năn nỉ ông cấp cho chút tiền, mua ít đồ nghề ra lề đường ngồi vá bánh xe đạp, tối mịt mới trở về, lăn ra ngủ. Biện pháp ấy giúp bà Chuẩn và ba đứa con, Tiêu, Hồng, Lĩnh, khỏi ngứa mắt vì rất ít khi còn thấy mặt Thiện. Với chính Thiện, thoát ra ngoài như thế cũng làm nó thoải mái hơn, được gặp thêm người nọ người kia, ngắm những khu phố sầm uất mới mọc lên mà từ lâu vì thời khoá biểu khắt khe của ông Chuẩn tại lò rèn, nó chưa hề biết đến. Nghèo thì đã đành là nó chấp nhận, nhưng cái buồn sâu kín làm khổ tâm nó hơn hết là những khát khao tình cảm. Tuổi đã trên hai mươi, không hy vọng gì sẽ gặp được một người con gái rộng lượng đến độ sẵn sàng ôm ấp tấm thân đen đủi của nó. Những lúc vắng khách ngồi không, Thiện thường tựa đầu vào gốc me, não nuột hát nho nhỏ những bản nhạc tình ray rứt và đôi khi cảm động đến chảy nước mắt. Nhiều hôm chán chường vì mưa gió ủ ê suốt buổi chiều, Thiện dẹp đồ nghề, nép vào hàng hiên bên cạnh trú ẩn. Thời giờ trôi quá chậm như ngừng hẳn lại, Thiện muốn về nhà nằm nghỉ mà không dám, bởi biết gia đình ông Chuẩn, nhất là hai cô con gái, không bằng lòng. Thiện thấy rõ cuộc đời mình hoàn toàn bế tắc giữa xã hội bao la mà không có một chỗ nào dành cho nó.

Một hôm Thiện bị cảm, bất đắc dĩ phải thu đồ về sớm. Nhà chỉ có mình Hồng đang giặt quần áo, hầm hầm hỏi Thiện:

- Thằng kia! Làm ăn ra thế nào mà vác mặt về sớm thế?

Thiện đi thẳng vào bếp, cất đồ nghề và ngồi xuống bàn ăn, mệt mỏi đáp:

- Nhức đầu quá! Nghỉ một buổi rồi mai đi làm lại.

Hồng bĩu môi:

- Lười thì nói toạc ra là lười cho yên chuyện, bày đặt nhức đầu nhức óc! Thứ mày trời đánh không chết, dễ gì nhức đầu! Ra đây tao nhờ một tí. Kéo cho tao mấy thùng nước, nhanh lên!

Thiện ngồi yên, buồn rầu đáp:

- Bình thường chị sai gì tôi cũng làm. Hôm nay tôi ốm thật, không ngồi vá xe được. Chị cho tôi nằm nghỉ một lúc, lát nữa khoẻ tôi lại đi!

Hồng đứng bật dậy, xăm xăm bước tới, chỉ tay vào mặt Thiện:

- Bố mẹ tao nuôi mày từ bé đến bây giờ, để mày ngồi chơi à? Liệu không ở nổi đây thì cuốn gói mà đi cho khuất mắt. Đừng để tao phải đuổi!

Thiện thở dài đi kiếm thuốc uống. Nó đã quen với thái độ hống hách của Hồng từ lâu, nên những lời nặng nề ấy không làm nó nhức nhối lắm. Nó nằm lăn ra giường, xoay mặt vào vách, mặc cho Hồng tiếp tục vừa giặt vừa chửi. Nó nhắm mắt lại, cố ngủ một giấc cho khoẻ. Thà ra lề đường ngồi nhìn thiên hạ qua lại còn hơn nằm đây nghe Hồng xỉa xói. Trong nhà này, Thiện thấy rõ không ai có cảm tình với mình cả. Riêng Hồng thì chẳng những căm thù Thiện mà còn oán cả cha mẹ nàng vì đã làm một việc vô lý là đón Thiện về ở chung.

Hồng oán cha mẹ cũng phải, bởi từ lâu rồi, bạn bè nàng có đứa đã đi quá trớn, hỏi đùa một câu ngoài sức tưởng tượng của Hồng: “Bà già mày ngủ với Mỹ đen hồi nào mà đẻ ra thằng Thiện vậy?” Đứa khác còn phịa ra cả một chuyện tình đầy uẩn khúc giữa mẹ Hồng và anh lính Mỹ đen, sanh con rồi gửi chỗ khác, mười tuổi mới dám đem về. Hồng ngứa gan lắm, chỉ muốn tống Thiện đi để đừng ai nhắc đến nữa.

Mấy hôm sau, Thiện tình cờ ghé vào tiệm sửa xe Vĩnh Hiến ở đầu chợ để mua thêm ít ruột và vỏ xe hơi, làm vật liệu vá bánh xe đạp. Thấy chủ nhân đã lớn tuổi mà chỉ có một mình, Thiện tò mò hỏi chuyện và khám phá ra ông đang cần người thay thế anh công nhân vừa bỏ ông, đi mở tiệm riêng. Thiện ngỏ lời xin việc. Ông Vĩnh Hiến hỏi qua kinh nghiệm rồi cho Thiện làm thử. Xe gắn máy thì Thiện chưa biết gì. Nhưng các thứ bệnh của xe đạp thì Thiện gần như thông thạo cả. Thiện nhanh nhẹn, chăm chỉ và nhất là có sức khoẻ, đỡ đần chủ được rất nhiều việc nặng. Ông Vĩnh Hiến hài lòng lắm, tự đảm trách phần xe gắn máy, giao đứt xe đạp cho Thiện, cửa tiệm chiếm nửa căn phía trước, ăn ở ngay phía sau. Nhà rất vắng vẻ, bởi các con ông đều đã ở riêng và không đứa nào chứa ông vì giận ông có vợ nhỏ. Với Thiện, mới vài ngày ông đã thấy hợp ý nên thường rủ nó ở lại nhậu lai rai, tán dóc đủ mọi chuyện đời y như thân thiết từ lâu lắm.

Làm với ông Vĩnh Hiến được một tháng, Thiện lân la xin ông cho ngủ lại luôn tại tiệm vì đi về quá bất tiện. Buổi tối khi đóng cửa, Thiện chỉ việc thu dọn đồ nghề, mở cái ghế bố ra là yên ổn, không làm phiền gì đến chủ nhân bên trong. Việc kiểm tra hộ khẩu lúc này không còn khắt khe như trước nữa, nên ông dễ dàng chấp nhận lời khẩn khoản của Thiện để chính ông cũng đỡ cảm thấy cô độc. Thiện mừng khôn tả. Giả như ông không cho ở đây, chắc Thiện cũng phải tìm cách dọn ra khỏi nhà ông Chuẩn, kiếm chỗ khác, bởi gã đã chịu hết nổi thái độ thù nghịch của Hồng và Lĩnh.

Thiện ghé lò rèn từ giã ông bà Chuẩn rối khăn gói ra đi, thề độc trong lòng là không bao giờ còn quay trở lại nhìn mặt hai đứa con gái mất dạy đó nữa. Ông Chuẩn chiều con gái, không hề bày tỏ một lời níu kéo dù là giả tạo vì sợ Thiện đổi ý ở lại thì chỉ càng nhức đầu thêm. Ông cũng không hỏi Thiện sẽ đi đâu, làm gì và mời gã lâu lâu có dịp về thăm. Thái độ thản nhiên của ông làm Thiện tủi thân muốn oà lên khóc. Chả gì gã cũng đã sống với ông tói mười năm, chia sẻ những nhọc nhằn ở cái lò rèn vất vả này từ tuổi mới bước vào đời. Hoá ra ông cũng như đàn con, chẳng có chút tình nghĩa nào cả! Thiệu rươm rướm nước mắt:

- Thưa bố, con đi. Thưa mẹ, con đi.

Ông Chuẩn gật đầu đáp gọn:

- Ừ.

Thiện lững thững đi mấy bước, bà Chuẩn mới lên tiếng:

- Ở nhà ai thì cũng phải làm ăn cho tử tế!

Lời dặn dò không phải vì lo lắng cho Thiện mà vì sợ chủ mới không chứa chấp, Thiện lại quay về làm phiền bà lần nữa. Muốn chắc ăn hơn, bà bảo Thiện:

- Tao đã nói với công an khu vực cắt hộ khẩu mày rồi! Đừng có léo hoánh về đây nữa, người ta bắt nhốt thì khổ thân!

Ông Chuẩn thấy vợ mình nhẫn tâm quá, nhưng không dám có ý kiến.

Cuộc chia tay đơn giản và nhanh chóng. Thiên sang ngang về nhà mới, vui với công việc, lâu lâu nhớ đến hai cô con gái nhà ông Chuẩn, lòng vừa bực bội vừa buồn cười. Giữ lời hứa, gã không trở lại nhà cũ. Mà gia đình ông Chuẩn, vài tháng sau vô tình khám phá ra chỗ ở mới của Thiện, cũng không hề ghé thăm. Hai bên đều làm như đã quên hẳn nhau. Có hôm chính mắt Thiện thấy Hồng dắt chiếc xe đạp xẹp bánh đi ngang qua cửa tiệm của Thiện mà nhất định không tạt vào nhờ sửa. Nàng phải đẩy thêm một khúc đường khá xa mới tìm ra chỗ vá. Thiện lắc đầu mỉm cười, chạy hẳn ra ngoài hè ngó theo, cho đến khi bóng Hồng mất hút, mới quay vào làm việc tiếp.

Một buổi tối, bà vợ bé ông Vĩnh Hiến đến tiệm. Rất ít khi bà tới đây vì một lần đã bị con gái ông Vĩnh Hiến chửi bà là người đào mỏ, mặc dầu ông Vĩnh Hiến không hề có mỏ cho bà đào! Vốn liếng một đời của ông chỉ là căn nhà tầm thường này mà thôi. Của chìm của nổi ông đều không có. Thường thì mỗi buổi tối, sau khi cơm nước, chính ông Vĩnh Hiến hay tìm sang với bà, ngồi tâm sự cho tới khuya rồi về ngủ.

Lần đầu tiên nhìn thấy một thằng lạ mặt, đen thui, đang kéo chiếc ghế bố ra giữa nhà, bà giật mình nhìn gã ngơ ngác rồi đi nhanh vào trong, trợn mắt hỏi ông Vĩnh Hiến:

- Thằng quỷ nào nằm ngoài kia thế?

Ông Vĩnh Hiến giải thích với bà về Thiện, không quên ca ngợi tính tình hiền lành của Thiện để bà an lòng. Nhưng bà gắt lên:

- Người với ngợm như thế mà dám rước vào nhà! Nó cắt cổ lúc nào không biết! Thời buổi này biết tin ai! Nom cái mặt nó tợn như thế mà dám cho nó ngủ bên cạnh! Sao mà ông dễ tin người đến vậy!

Rồi bà ra nghiêm lệnh bắt ông ngay ngày mai phải đuổi Thiện đi. Ban ngày đến làm, tối ngủ đâu thì ngủ, không được ở lại. Lúc sắp ra về, bà còn nhắc ông một lần nữa:

- Từ mai trở đi, ông mà còn chứa thằng này thì đừng có gặp mặt tôi nữa! Ông không nghe tôi, có ngày mang vạ vào thân cho mà xem!

Ông Vĩnh Hiến vốn có thói quen nghe lời vợ bé - mà thường thì đàn ông ai chả nghe lời vợ bé hơn vợ lớn - huống chi chỉ vì thương ông, lo cho ông, bà mới đưa ra lời cảnh cáo ấy. Ông nhìn lại khuôn mặt đen đủi của Thiện và chợt nhận ra nó đáng sợ thật. Quanh ông, biết bao nhiêu án mạng vì cướp bóc, trấn lột, xảy ra hằng ngày như cơm bữa. Sao ông lại dại dột rước một thằng lạ hoắc vào nhà để ôm mối lo hằng đêm? Ông nằm suy nghĩ, tìm một câu nói dối cho hợp lý và hôm sau, ông bảo Thiện kiếm nơi khác vì đứa cháu ông bán dừa xiêm, ban đêm cần mướn chổ để đẩy xe ba gác vào gửi ở đây.

Thiện ngồi thừ người, không biết sẽ đi đâu. Gã ngạc nhiên chẳng hiểu tại sao ông Vĩnh Hiến lại không muốn chứa gã, mặc dầu gã rất tử tế, phụ giúp ông cả những việc trong nhà như rửa bát, bổ củi, xách nước cho ông tắm... Dù sao, ông đã nói thế thì gã phải ra đi. Gã khẩn khoản câu giờ:

- Ông cho cháu thêm mấy bữa, cháu kiếm nhà. Mướn được chỗ khác, cháu đi liền.

Từ hôm ấy, mặt Thiện buồn so, ngồi sửa xe mất hết hứng thú. Không bà con thân thích, cũng chẳng có bạn bè, gã biết nương thân chốn nào? về với ông bà Chuẩn thì dứt khoát là không thể được. Thiện hình dung ra mấy tháng nay, chắc chị em Hồng Lĩnh đã nhiều phen ăn mừng vì tống được Thiện ra khỏi nhà. Thái độ lạnh nhạt của ông bà Chuẩn hôm chia tay ở lò rèn càng làm Thiện hận hơn nữa! Có vác mặt về năn nỉ cũng chỉ mang thêm nhục mà thôi. Ông Vĩnh Hiến thì ngày nào cũng nóng ruột hỏi Thiện tìm được nhà chưa, làm gã càng thêm rối trí. Bản thân ông không muốn đuổi Thiện, bởi có gã bên cạnh, ông cũng đỡ cô độc khi tối lửa tắt đèn. Huống chi gã đỡ đần ông đủ mọi việc, chỉ đổi lấy một chỗ ngủ, dại gì ông từ chối. Nhưng vợ bé ông đã ban chỉ thị, ông không thể cưỡng lại được. Tạm thời, cơm tối xong, ông bảo Thiện đi lang thang đâu đó, chắc ăn là sau mười một giờ hãy về, tránh cái khoảng thời gian mà bà vợ bé hay lui tới, gỡ gạc trước khi về ngủ. Kể ra thì cũng bất tiện lắm, bởi Thiện chẳng biết đi đâu. Nhưng không đi không được, nó đành lang thang thả bộ dọc theo những con đường tương đối sầm uất, nhìn ngắm những hàng quán mọc lên san sát mấy năm gần đây. Có khi đứng ngắm những sập hàng bán máy móc hiện đại, cho đến lúc người ta chuẩn bị thu dọn thì gã cũng uể oải ra về.

Tính kỹ như thế mà vẫn không thoát nạn. Một tuần sau, đêm đã khuya, bà vợ bé ông Vĩnh Hiến trở lại, giật mình thấy Thiện còn nằm lù lù tại chỗ cũ. Bà không nói gì, hầm hầm bỏ về ngay khiến ông tái mặt chạy theo năn nỉ. Thà rằng bà quát tháo ồn ào, ông không sợ bằng cách trừng phạt im lặng. Ông thề với bà, bảo ngay ngày mai thằng Thiện sẽ không còn hiện diện tại nhà ông nữa. Và lần này dĩ nhiên ông giữ lời, ngậm ngùi bảo Thiện ra đi. Bữa cơm tối hôm ấy, ông mua về một gói thịt chó khá lớn. Mắm tôm, húng, riềng, ớt, chanh… đầy đủ cả. Gọi là chút quà để đưa tiễn thằng nhỏ ra ngủ ngoài lề đường. Ông ngượng ngùng bảo nó:

- Không phải tao muốn đuổi mày. Nhưng mà bà đã báo công an khu vực là mày không có hộ khẩu ở nhà tao. Mày rán kiếm chỗ nào nằm bậy bạ một thời gian. Lâu lâu rồi bà quên đi, thì lại về đây với tao. Tao không muốn làm khó mày đâu, nhưng mà rủi công an xét hộ khẩu, bắt mày về phường, khổ cả mày lẫn tao!

Thằng nhỏ im lặng không biết nói gì hơn. Nó thông cảm hoàn cảnh khó xử của ông Vĩnh Hiến. Chính mắt nó đã chứng kiến cái đêm bà vợ bé vùng vằng bỏ đi và ông Vĩnh Hiến khổ sở rượt theo, hết lời nài nỉ. Nó không nỡ để ông Vĩnh Hiến gặp thêm rắc rối. Dù sao, ông đối với nó cũng có tình nghĩa hơn cả nhà ông bà Chuẩn. Câu chuyện hộ khẩu mà ông đem ra để biện minh cho cách xử sự của mình, thật ra chính nó cũng hiểu là gượng ép. Một hai năm nay, vấn đề kiểm tra hộ khẩu không còn khắt khe như trước nữa. Những người đi kinh tế mới phần lớn đã trở về, sống bửa bãi ở bất cứ chỗ nào có thể sống được. Gia đình thương binh liệt sĩ cắm dùi đầy thành phố, chính quyền bất đắc dĩ phải làm ngơ vì không còn khả năng kiểm soát như mấy năm đầu mới thống nhất đất nước. Nó thản nhiên bảo ông Vĩnh Hiến:

- Ông đừng lo. Cháu có chỗ ngủ rồi!

Ông Vĩnh Hiến nói như reo:

- Ủa, vậy sao? Mày nói vậy tao cũng mừng! Bộ mày về lại nhà thằng cha lò rèn hả?

- Đâu có. Cháu ngủ ngoài chợ. Ngoài ấy thiếu gì chỗ nằm.

Ông Vĩnh Hiến cúi đầu thương cảm nhưng không đủ khả năng giải quyết. Bữa ăn trở nên nặng nề hơn. Cả hai cùng trở nên ít nói, lặng lẽ thanh toán hết phần thịt chó còn lại. Thằng Thiện ở lại rửa chén, quét nhà như thường lệ. Xong hết mọi chuyện mới dắt xe ra, đạp về hướng ngã ba Ông Tạ, tìm một cái sạp trống trong nhà lồng chợ, trải chiếu nằm ngủ.

Ngày tháng trôi nhanh, Thiện làm quen rất mau với thời khoá biểu lao động hàng ngày. Sáng sớm, mới khoảng bốn năm giờ, bạn hàng đi chợ đã ồn ào khua nó dậy, mặc dầu nó đã rút kinh nghiệm từ buổi đầu, nằm ngủ ở góc vắng nhất, xa hẳn con đường lưu thông xe cộ. Mắt nhắm mắt mở, nó gấp chiếu và tấm đắp, cuốn hết lại, chất lên sau xe đạp, rồi phóng đi tìm một quán cóc ngồi uống cà phê hay ăn cháo. Bảy giờ, nó trở về tiệm sửa xe, đập cửa đánh thức ông Vĩnh Hiến và bắt đầu làm việc. Thôi thế cũng xong, cứ tạm thời coi như đã ổn định. Ban ngày ngửi hơi dầu mỡ, đêm đêm làm quen với mùi rác rến còn sót lại sau một ngày họp chợ. Một thứ định mệnh thấp hèn bám lấy đời nó từ lúc sơ sinh và chẳng có một tia hy vọng nào rọi vào tương lai của đứa trẻ lạc loài nạn nhân chiến cuộc.

Nhưng một hôm, Thiện đang uốn lại cái vành xe cho khách thì ông bà Chuẩn đích thân tìm đến. Nó ngơ ngác trố mắt nhìn nửa mừng nửa sợ. Ông Chuẩn ngồi xuống bên cạnh, âu yếm trách:

- Bố tưởng con đi làm ăn đâu xa! Hoá ra vẫn quanh quẩn ngay ở đây mà không chịu tạt về thăm nhà! Thằng này thật là tệ!

Bà Chuẩn thiết tha hơn:

- Cả nhà tìm con mãi! Cái Hồng với cái Lĩnh nó nhắc con luôn miệng. Nghe bảo con dọn sang bên Khánh Hội, hai đứa đạp xe sang tận bên ấy, hỏi thăm khắp nơi, chả thấy tăm hơi gì cả!

Thằng Thiện há mồm nhìn ông bà Chuẩn, không hiểu nổi sự đổi thay lạ lùng trong lòng người. Ông Chuẩn thì nó còn tạm tin được là có chút tình nghĩa với nó. Chứ bà Chuẩn và nhất là hai cô con gái mà bỏ công lặn lội đi tìm nó thì thật là chuyện hoang đường. Ông Vĩnh Hiến ngồi hút thuốc lào sau cái tủ để đồ phụ tùng, lại càng ngạc nhiên hơn về thái độ của ông bà Chuẩn đối với thằng Thiện. Bởi chính ông đã nghe nó nhắc đi nhắc lại nhiều lần về những năm chung sống trong gia đình ông Chuẩn, trước khi bị tống cổ ra đường, tìm đến với ông. Ông hết nhìn Thiện lại ngó ông bà Chuẩn, chẳng hiểu giữa cặp vợ chồng già kia và thằng con lai, ai là người nói dối!

Bà Chuẩn nhắc Thiện ngày mai nhà có đám giỗ, đồng thời xin phép ông Vĩnh Hiến cho Thiện được nghỉ một hôm để gia đình tề tựu. Thiện nhíu mày ngẫm nghĩ. Ở với ông bà Chuẩn suốt mười năm, dĩ nhiên Thiện biết hết những ngày giỗ kỵ trong gia

đình. Tín đồ Công giáo không ăn giỗ rềnh rang, nhưng những ngày đó bao giờ cũng xin lễ đọc kinh tại nhà thờ để cầu nguyện cho linh hồn người đã khuất. Thiện nhớ rõ ngày mai không phải là một trong những ngày ấy. Tuy vậy nó không dám hỏi lại, chỉ thầm hả hê trong bụng vì không ngờ ông bà Chuẩn hạ mình đến mời nó về. Nó cảm động ướm thử:

- Bố mẹ có lòng thương con, chả nói làm gì. Nhưng về gặp chị Hồng, chị Lĩnh, con không dám!

Ông Chuẩn gạt đi:

- Dạo con còn ở nhà, hai con ranh ấy mới lớn, tính nết ngang ngạnh, chả biết trên biết dưới gì cả! Nhưng bây giờ thì khác rồi. Ngày mai con về mà xem!

Bà Chuẩn chép miệng nói thêm:

- Con đi rồi, mẹ cứ mắng chúng nó mãi đấy! Hai đứa cùng có ý hối, cho nên mới đổ đi tìm con mãi! Gặp lại con, chắc chúng nó mừng lắm! Thôi con ạ, chúng nó trẻ người non dạ, con cũng đừng chấp!

Ông Vĩnh Hiến đang tội nghiệp Thiện đêm đêm phải ngủ ngoài chợ, cho nên dù chưa hiểu rõ câu chuyện, ông cũng đốc thêm vài câu xúi thằng nhỏ trở về và quả nhiên làm Thiện xiêu lòng, quên hết mọi giận hờn cũ.

Ông Chuẩn khoan khoái tạm biệt, dọc đường ân cần dặn vợ chuẩn bị đại tiệc để ngày mai long trọng rước Thiện trở lại mái nhà xưa. Không phải ông chỉ đón Thiện có một ngày mai. Ông sẽ giữ Thiện ở luôn bên ông, chẳng cần đi làm gì nữa cả. Ông sẽ đem hết vốn liếng dành dụm từ trước đến nay để cung phụng Thiện, nắm lấy Thiện trong tay cho thật chắc, đừng để ai cướp mất. Ông họp các con lại và bảo:

- Bố đã đến tận cơ quan, hỏi rõ đầu đuôi ngọn ngành rồi. Hộ nào có nuôi con lai, thì cả hộ đều được xuất cảnh sang Mỹ!

Hồng hăm hở ngắt lời:

- Thì hôm nọ anh Tiêu cũng bảo thế, bố không tin!

Ông Chuẩn gật gù:

- Anh mày có cái tật ăn nói lung tung, làm sao tao tin được... Thật là Chúa ban ơn cách riêng cho nhà ta, nên mới có ngày hôm nay. Bố sẽ đưa nó đi đăng ký, rồi chờ phái đoàn gọi phỏng vấn là xong.

Riêng Thiện thì chưa biết chuyện ấy, chưa biết giá trị của mình đã hoàn toàn thay đổi trên thương trường! Chính phủ Mỹ thoả thuận với Việt cộng sẽ đón hết con lai. Tin đồn lúc ban đầu, bây giờ đang trở thành văn bản chính thức. Thiện không đọc báo, không nghe đài nên hoàn toàn mũ tịt. Không biết rằng cục đất đen đang biến thành vàng rồng! Từ một kẻ mồ côi lớn lên trong sự lạnh nhạt và rẻ rúng của xã hội, chỉ nhờ chính sách nhân đạo của Mỹ mà những đứa như Thiện bỗng chốc được “nâng cấp”, lột xác thành chiếc cầu vững chắc bắc qua đại dương, thành tấm vé máy bay đưa thân nhân về chân trời mới.

Thiện rón rén trở lại nhà ông Chuẩn, mang theo cái ấn tượng ngờ vực trong lòng. Nhưng gã không ngờ mình chỉ lo hão! Cả nhà từ trên xuống dưới đều vây lấy gã, cho gã cái không khí gia đình đích thực mà mười năm nay chưa từng thấy trong căn nhà này. Tiêu ra tận cửa bắt tay, âu yếm gọi Thiện bằng em. Hồng và Lĩnh xa có mấy tháng, lớn vọt hẳn lên, nhan sắc đang kỳ bộc phát như hoa mai trong ánh nắng xuân, nhìn Thiện cười thân mật, thậm chí can đảm rủ Thiện đi ăn kem để đái công chuộc tội. Bữa cơm cực kỳ thịnh soạn, toàn những món mà bình thường Thiện vốn khát khao, nhưng hôm nay gã không chú ý lắm dù gã vốn háu ăn. Thiện cứ bận tâm nghĩ ngợi mãi, không hiểu tại sao ông bà Chuẩn lại biệt đãi gã và ngạc nhiên hơn nữa là chị em Hồng Lĩnh không còn khinh rẻ gã, kêu gã bằng mày như thường lệ! Chuyện đời bể dâu không biết thế nào mà lường!

Vừa ăn, ông bà Chuẩn vừa kể lể những nhớ nhung ray rứt từ ngày Thiện vắng nhà và dứt khoát bảo Thiện từ nay không đi sửa xe nữa. Thiện tưởng ông Chuẩn muốn gã quay về lò rèn, nhưng ông nói ngay là chỉ nay mai ông cũng dẹp luôn cả lò rèn, nghỉ cho khoẻ! Ăn xong, ông giục thằng con lớn theo Thiện ra tiệm Vĩnh Hiến, phụ gã đem hết đồ đạc về và vĩnh viễn giã từ ông chủ tiệm. Thiện cứ đực mặt ngồi nghe, chẳng hiểu phép lạ nào đã xảy ra trong gia đình này. Tuy vậy gã chưa muốn nghỉ. Gã vẫn sẽ ra tiệm Vĩnh Hiến sửa xe cho đến khi nào chủ tiệm tìm được người khác thay thế, Thiện mới thôi hẳn. Với Thiện, dù sao ông Vĩnh Hiến cũng là người cứu vớt gã lúc gã bị ông bà Chuẩn đuổi đi, cho nên gã không thể quên ơn. Chỉ có điều làm ông bà Chuẩn tạm an tâm là Thiện hứa chắc từ đêm nay, Thiện sẽ ăn cơm và ngủ tại nhà, trên chiếc giường cũ vừa được Hồng trải cho chiếc chiếu mới thay thế cái cũ nhiều rệp quá!

Nhưng rồi chỉ một thời gian rất ngắn, Thiện cũng biết hết ngọn ngành. Thành phố Sài gòn hơn bốn triệu dân, sinh hoạt ngoài đường lúc nào cũng sầm uất hơn trong nhà, là môi trường truyền lan rất nhanh mọi thứ tin đồn dù đúng hay sai. “Đi Mỹ theo diện con lai” mau chóng trở thành câu chuyện thời sự nóng bỏng để từ đó nảy sinh một dịch vụ mới hết sức sôi động trên thương trường. Khắp các hang cùng ngõ hẻm, đâu đâu cũng thấy xuất hiện những tay trung gian dắt mối - ngày nay ngôn ngữ mới gọi là “cò lái” như lái trâu, lái lợn, lái sách và lái người - có nhiệm vụ phát hiện con lai, điều đình trả giá, mua đi bán lại kiếm lời. Con lai nghiễm nhiên là những món hàng thẩy lên ném xuống, giống như chợ người vẫn diễn ra ở các vùng quê Thái Lan.

Nhờ hệ thống tham nhũng khổng lồ phổ biến trên phạm vi cả nước, giấy tờ gì cũng mua được, lý lịch nào cũng đổi được trong nháy mắt, đưa đến hệ quả là có nhiều con lai giả lại xong thủ tục xuất cảnh và lên máy bay trước cả con lai thật! Một số thanh niên nam nữ bẩm sinh có mắt to, mũi cao, da trắng, tuy mang giòng màu Việt Nam thuần nhất, cũng vội vàng lợi dùng thời cơ, ngụy tạo một bản lý lịch, vỗ ngực tự nhận là con lai để được kẻ đón người đưa, kiếm chút tiền tiêu qua ngày. Một số khác sửa mắt sửa mũi, nhuộm tóc vàng hoe, nghênh ngang đi phố để chờ cò lái đến gạ gẫm. Thống kê cả miền Nam ước định chỉ có khoảng 39 ngàn con lai, nhưng giờ đây nhan nhản chỗ nào cũng thấy.

Những đứa trẻ đích thực mang hai giòng máu, suốt tuổi thơ đã phải ôm cái mặc cảm lạc lõng giữa xã hội Việt Nam bảo thủ, bây giờ thời thế đổi thay, hiên ngang xuất hiện để ngước mặt nhìn đời. Trước 75, những cô gái nhà lành làm sở Mỹ, đôi khi bị gia đình oán ghét và thậm chí từ bỏ, nhưng đến lúc sắp mất nước, chính những cô gái ấy lại có phương tiện để đưa cả nhà đi di tản. Những đứa con lai bây giờ cũng tương tự như vậy. Sự hiện diện của chúng đôi khi làm người mẹ xấu hổ vì cái quá khứ ăn ở với người ngoại quốc, nhưng khi chính phủ Hoa kỳ mở cửa đón nhận, thì một đứa con lai lại là cái chìa khoá cho cả gia đình thoát cảnh lầm than. Tái ông thất mã không phải chỉ là mấy chữ để an ủi người gặp bước không may, mà thực tế lắm lúc vẫn đúng trong cuộc đời. Gần 40 ngàn con lai, cứ tính trung bình mỗi đứa kéo theo được một hộ ba người nữa, thì cuối năm 92 sẽ có thêm trên một trăm ngàn người miền Nam đặt chân đến Hoa kỳ. Một trăm ngàn người ấy lại sẽ bảo lãnh tiếp, góp phần nâng dân số Việt nam trên đất Mỹ càng ngày càng lớn hơn.

Thiện ngồi ở tiệm Vĩnh Hiến chỉ thêm mấy hôm, đã có hai người đến tiếp xúc. Họ mời Thiện đi ăn uống phủ phê, rồi điều đình trả giá nguyên một lượng vàng để Thiện gật đầu nhập chung hộ khẩu với họ. Mọi thứ giấy tờ họ lo hết, Thiện chỉ ừ một tiếng là xong. Thiện chưa trả lời dứt khoát thì lại có tay cò lái khác xông đến, lái xe hơi hẳn hoi, mời Thiện đi nói chuyện. Lần này Thiện được nâng lên một cây nữa là hai lượng. Một lượng hay hai lượng đều là những con số quá lớn đối với một đứa nghèo khổ kinh niên như Thiện, cho nên Thiện chưa nhận lời ai, không phải vì gã còn muốn neo giá, mà chỉ vì giờ đây gã hiểu rằng cả nhà ông Chuẩn đang trông mong ở gã, đặt hết kỳ vọng vào gã, ngày ngày nhắc nhở gã công ơn dưỡng dục suốt mười năm bên lò rèn nóng bỏng!

Ông Chuẩn chưa hề ngỏ lời với Thiệun về việc đi Mỹ. Có lẽ vì ông muốn Thiện hiểu rằng, ông đón gã trở lại là do lòng thương chứ không phải vì muốn lợi dụng. Nhưng tất nhiên Thiện biết chủ đích của ông. Mỹ không nhận con lai thì giờ này Thiện vẫn là kẻ xa lạ đối với cả gia đình ông Chuẩn.

Con Hoa bán khoai bên cạnh lò rèn, giờ đây vẫn chưa chồng, ngày trước thường nhìn Thiện khinh bỉ, lúc này cũng đổi thái độ và khuyên Thiện nên chọn gia đình nào trả giá cao nhất thì đăng ký, đừng ngu dại làm đầy tớ không công cho ông bà Chuẩn. Cô bảo:

- Anh coi ổng như cha, mà ổng có coi anh là con đâu! Con Hồng nó nói anh không đáng xách dép cho nó, ở đó mà đòi nhận làm anh! Đời mà anh! Hồi đó nó đuổi anh như đuổi con chó! Giờ rước về đặng xuất cảnh đi Mỹ!

Một tháng sau, có người thợ mới đến xin việc. Giữ đúng lời hứa, chủ nhân làm bữa cơm đãi Thiện vào ngày cuối. Thiện nghỉ rồi, vẫn có người tìm đến hỏi thăm ông Vĩnh Hiến. Ông chẳng có ý định xuất ngoại vì vướng bà vợ nhỏ không hôn thú, nhưng nhân có người đến thăm dò, ông cũng nhận đại Thiện là cháu và bảo họ:

- Tôi thì tôi không đi. Mà thằng cháu tôi cũng chưa quyết định nhập vào hộ nào. Bữa trước có người trả tôi hai cây nhưng tôi chưa chịu!

Ông tính làm một áp-phe chớp nhoáng, nhưng người kia tỏ ra kinh nghiệm hơn:

- Tôi bằng lòng trả ông hai cây rưỡi, với điều kiện ngay ngày mai cháu ông phải đi đăng ký hộ khẩu và làm thủ tục xuất cảnh với tôi. Đăng ký xong, tôi chồng liền hai cây. Khi nào được kêu phỏng vấn, tôi đưa nốt nửa cây nữa!

Ông Vĩnh Hiến thấy khó nuốt nên ậm ừ cho qua rồi lặng lẽ bỏ cuộc. Thỉnh thoảng Thiện vẫn ghé thăm ông, mua cho ông tô cháo lòng hoặc dĩa gỏi gà để ông uống rượu. Trong câu chuyện hàn huyên với Thiện về đời sống mai sau ở Mỹ, ông háo hức vẽ ra cho Thiện một viễn ảnh cực kỳ rực rỡ và nhắc nhở Thiện đừng quên ông nơi quê nhà. Cả hai đều là những người mù xem voi, hình dung Hoa kỳ như một mảnh đất thần tiên, chỉ việc cúi xuống lượm bạc mà ăn chơi, không cần làm gì cả! Và chính vì tin tưởng như thế, ông thấy cái ân sủng của Thiện ban cho gia đình ông Chuẩn quá lớn làm ông ghen tức. Ông dèm một câu dù vấn đề chẳng can dự gì đến ông:

- Ông bà ấy thì có tử tế gì! Đem mày về làm kẻ ăn người ở trong nhà chứ có nuôi nấng gì đâu!

Thấy Thiện không đáp, ông thêm:

- Tao hỏi mày, mày gặp ông bà ấy lúc mày mới mười tuổi đầu! Lẽ ra phải cho mày đi học đi hành như con người ta mới phải chứ! Tại sao bắt mày ngồi thụt lò rèn suốt ngày là thế nào? Ăn ở như thế thì tình nghĩa gì?

Nhận xét của ông làm bừng lên chút buồn hận trong lòng Thiện. Rồi ngay lúc ấy, Thiện nhớ đến câu nói của con bé bán khoai, cũng cùng một cái nhìn về gia đình ông Chuẩn như thế, khiến nỗi ấm ức trong lòng gã càng lớn nhanh hơn. Những thái độ hỗn xược, những lời nói kênh kiệu của Hồng và Lĩnh, phút chốc sống dậy, hiện rõ mồn một trong trí Thiện. Mặt gã đanh lại, môi mím chặt ngó trừng trừng ra đường. Ông Vĩnh Hiến nói đúng! Tại sao Thiện không vào làm con nhà khác, vừa có tiền mà vừa đỡ bị thiên hạ chê cười là ngu ngốc.

Những tay cò lái vẫn tiếp tục tìm đến với Thiện, thậm chí vào thẳng nhà ông Chuẩn để điều đình. Lẽ tất nhiên cũng có nhiều gia đình thực sự nuôi con lai, nhưng vì lý do này hay lý do khác, không muốn xuất cảnh. Họ đem bán kiếm một số vốn cụ thể trước mắt cho chắc ăn. Nhà ông Chuẩn không nằm trong trường hợp hiếm hoi ấy. Ba đứa con khao khát xuất ngoại đã đành, mà ngay cả hai vợ chồng già cũng háo hức không kém. Họ không hình dung được khi sang Mỹ họ sẽ ra sao, nhưng thấy lối xóm cứ vài tuần vài tháng lại có gia đình mở tiệc từ giã, làm họ nôn nao chịu không nổi! Nhà không có người thân ở nước ngoài để bảo lãnh, ông chỉ còn bám víu vào

đứa con lai là con đường ngắn nhất, dễ nhất và an toàn nhất để bay qua đại dương. Ông nghe kể chuyện những người vượt biển, trải qua bao nhiêu gian khổ đắng cay, bây giờ bị đuổi về dù có người đã mổ bụng để phản đối. Trong khi đó, chỉ cần vồ một đứa con lai, cả nhà lên phi cơ thong dong về nơi đất hứa. Chắc là cái hồi nhà nước phá hủy nghĩa địa Đô thành, ông bốc mộ cụ thân sinh mang đi chôn lại tại Bà Quẹo, tình cờ táng đúng “hàm ếch” nên gia đình mới có cái lộc thiên mã sắp tới. Nghĩ thế, ông rất lo sợ mỗi khi có người đến hỏi thăm Thiện. Ông thường xuyên nhắc nhở Tiên dẫn Thiện đi chơi, bám sát bên Thiện, đừng để kẻ lạ lung lạc. Hồng và Lĩnh cũng có nhiệm vụ săn sóc Thiện, coi chừng gã lọt vào tay đứa khác. Hai chị em lúc này đi bên Thiện không còn cảm thấy mắc cỡ nữa, bởi thiên hạ nhìn vào, ai cũng biết hai cô sắp xuất ngoại.

Sự ân cần của hai cô lộ liễu quá đến độ có lúc Thiện đã dám lãng mạn mơ tưởng một ngày nào đó Hồng sẽ trở thành người yêu của gã! Và bà Chuẩn thì lo âu ra mặt, cứ lâu lâu lại nhắc chồng:

- Qua đến bên ấy, phải tống ngay nó ra đường, cho nó muốn đi đâu thì đi! Mình có con gái lớn, chứa nó trong nhà thế nào được!

Ông Chuẩn gật đầu nhấn mạnh:

- Thì nhất định là như thế rồi chứ còn gì nữa! Nhưng mà trước mặt, bà đừng có để lộ ra cho nó biết. Cả nhà mình đi được là nhờ bám vào nó. Nói dại, nhỡ bây giờ nó lăn quay ra chết thì xôi hỏng bỏng không. Mình đành chết già ở bên này chứ làm thế nào mà xuất ngoại được. Thành thử tôi vẫn dặn mãi thằng Tiêu với con Hồng là đi đứng phải cho nó cẩn thận. Xe cộ rồi cướp bóc, ngày nào cũng xảy ra nhan nhản. Không được đi chơi khuya, chẳng may mà thằng Thiện có mệnh hệ nào thì hối cũng muộn rồi!

Bà Chuẩn nhìn chồng cảm phục. Nói gì thì nói, đàn ông bao giờ cũng biết lo xa hơn đàn bà. Sang đến bên ấy, thằng Thiện có lăn ra chết ngay cũng không sao. Nhưng hiện tại cả nhà bà cần nó phải sống cho tới ngày lên máy bay mới an lòng được. Mọi thủ tục đã xong hết. Căn nhà này bà cũng đã dạm bán, sắp sửa sang tên. Cả năm nay từ khi đăng kỳ xuất ngoại, toàn gia đình từ trên xuống dưới đều không làm ăn gì nữa cả. Suốt ngày dốc tiền ra rong chơi, tiệc tùng, hân hoan còn hơn đón Tết. Vạn nhất nếu có chuyện trắc trở phải ở lại, thì chỉ có nước ăn cám cầm hơi mà thôi! Để xóa bớt nỗi lo âu ấy, bà đi nhà thờ thường xuyên hơn, dâng tiền xin lễ, cầu nguyện cho thằng Thiện đừng chết bất tử trước khi lên đường!

Một buổi chiều, Thiện thả bộ lang thang ra lò rèn cũ. Cái chòi lợp tôn tiêu điều ấy, ông bà Chuẩn đã bán đi từ lâu, bây giờ chủ nhân quét dọn sửa sang lại, mở cửa hàng ăn uống. Thiện đứng dưới tàn cây vú sữa bên kia đường ngó sang, nao nao nhớ lại trọn vẹn những tháng ngày gian khổ trong căn nhà quanh năm ám khói vào bất giác thở dài. Giữa đám thực khách, có người nhận ra Thiện, lên tiếng gọi và vẫy gã vào hỏi thăm. Thiện gật đầu chào lại và cáo từ bỏ đi. Dĩ nhiên lúc này Thiện đã khác trước nhiều lắm. Cái hình ảnh thằng con trai đen thui mặc xà lỏn cởi trần, dạng chân thụt ống bễ, mồ hôi ướt đẫm từ đầu xuống lưng, đã phai nhoà hẳn trong trí nhớ mọi người hàng xóm. Hôm nay Thiện có quần jean, sơ- mi sọc hàng ngoại và giày thể thao Adidas. Gã bước hiên ngang, ánh mắt tự tin nhìn hai bên đường, sẵn sàng chào hỏi bất cứ ai quen. Mọi thủ tục giấy tờ và sức khoẻ đã xong xuôi, chỉ nay mai khung cảnh quen thuộc này sẽ trở thành ký ức xa xôi trong lòng Thiện.

Ngang qua ngôi giáo đường, Thiện dừng lại đứng nhìn ngọn tháp chuông một lúc rồi rón rén bước vào cửa chính, quì xuống hàng ghế cuối cùng. Nhà thờ không đông lắm, phần lớn chỉ có ông già bà cả. Tiếng kinh chiều cất lên đều đều như từng đợt sóng biển êm ả dội vào bờ. Khung cảnh này chẳng xa lạ gì đối với Thiện, nhưng không hiểu tại sao hôm nay Thiện lại thấy hồi hộp khác thường. Cái quá khứ xa xăm tưởng đã xoá hẳn trong trí Thiện, bỗng dưng lại bừng bừng sống dậy, mỗi lúc một rõ hơn làm Thiện bồi hồi xúc động. Hình ảnh những nữ tu đã nuôi dạy Thiện từ thuở lọt lòng, những đứa bạn mồ côi cùng trang lứa ở cô nhi viện ngày trước, đang cấu thành một mớ hỗn độn trong ký ức gã, cố gắng lắm cũng không thể mường tường nổi từng khuôn mặt. Gã thấy nghèn nghẹn trong cổ, cất tiếng đọc kinh theo mọi người chung quanh và đặt hết tâm hồn vào lời cầu nguyện khẩn thiết dâng lên Thiên Chúa. Thiện nhớ man mán có người bảo lúc Thiện vừa chào đời thì bị mẹ bỏ lại để theo chồng về Mỹ. Nếu đúng thế thì chỉ nay mai gã sẽ có cơ may tìm gặp lại. Gã xin Chúa cho chuyến đi an lành, cho gã tìm được song thân để tương lai đỡ vất vả hơn quãng đời niên thiếu khốn khổ vừa qua. Gã quì thêm một lúc rồi đứng dậy làm dấu Thánh Giá ra về.

Tới trước cửa nhà, Thiện thấy Tiêu và Hồng đang đứng nói chuyện với một người đàn bà trước sân. Khách trạc khoảng ngoài bốn mươi, dáng vẻ đầy đặn, ăn mặc lịch sự, rõ ràng là một người có tiền. Nhìn thấy Thiện từ xa, Hồng bỏ khách, lao vội tới, hớt hải ghé tai Thiện dặn dò vài câu quan trọng. Lẽ ra Hồng không muốn Thiện có mặt lúc này, nhưng muộn mất rồi, người đàn bà cũng đã nom thấy Thiện, lặng người nhìn gã và buột miệng kêu lên:

- Con!

Thiện giật mình thụt lùi lại và đoán ngay lại thêm một đầu nậu mua bán con lai đến tìm gã để điều đình. Gã trả lời thẳng:

- Tôi đã dứt khoát đăng ký đi chung với bố mẹ nuôi tôi rồi, bà khỏi nói nữa, mất công!

Nghe câu ấy, Hồng hài lòng níu tay Thiện, kéo vào nhà. Những gặp gỡ như thế này làm Hồng sợ lắm. Ngày nào chưa hoàn tất thủ tục, chưa đăng ký chuyến bay, ngày ấy cả nhà còn lo vì những bất trắc ở xã hội này là điều không ai lường trước được.

Người đàn bà chạy theo Thiện, nhưng Tiêu cản lại:

- Bà không được vào nhà tôi! Bà thấy không? Bà nói bà là má nó mà nó đâu có nhìn bà!

Hồng bắt Thiện ngồi yên trong nhà rồi nàng trở ra phụ với anh để đuổi khách. Nàng nhấn mạnh:

- Mà dù bà có là má nó thật, bà cũng không có quyền nhìn nó nữa. Bà sinh con, ném cho người ta nuôi, bà đi mất tiêu. Giờ nghe tin xuất cảnh, bà tới nhận con! Thứ người gì m?