← Quay lại trang sách

LẠ GIƯỜNG

LÚC đầu, theo như tôi đoán thì Tùng không phải là người tham lam. Cả Phượng, vợ anh cũng vậy. Chẳng qua vì ý thức pháp luật chưa thấu đáo, lại thêm những nhận định quá đơn giản về tổ chức xã hội bên này, cho nên hai vợ chồng mới quyết định giả vờ xin ly thân để Phương trở thành single mother, lãnh trợ cấp, ở nhà chính phủ, mặc dầu Tùng có việc làm lương cao và trên thực tế hai người vẫn đề huề chung sống. Quanh Phượng, trong các cộng đồng thuộc những sắc dân khác, không thiếu gì người trường kỳ thụ hưởng kiểu này và họ cảm thấy thua thiệt hay dại dột nếu bỏ lỡ cơ hội. Phượng thường nhún vai bảo Tùng: “Tiền chính phủ, tội gì không lấy!”

Mấy chữ “tiền chính phủ” nếu dùng ngày xưa ở trong nước thì còn có thể tạm coi là đúng, bởi phần lớn ngân sách quốc gia đều xuất phát từ các nguồn viện trợ. Nhưng tại các nước tư bản ngày nay như Hoa kỳ, Canada thì làm gì có tiền chính phủ! Tất cả đều là tiền của dân đóng thuế, chính phủ không có đồng bạc nào cả. Cho nên, xài tiền của chính phủ, thật ra là lấy tiền của người khác, của những công dân chăm chỉ tháng tháng lãnh lương, ngắt ra một phần nộp cho sở thuế. Vợ chồng Tùng, nhất là Phượng, không nghĩ ra điều ấy, nên cứ thản nhiên cho rằng chính phủ nhiều tiền lắm, không ăn cũng uổng!

Bây giờ thì Phượng và Tùng đã có một số vốn khá lớn. Tiền nhà quá rẻ, cuộc sống lại giản tiện, ít nhu cầu. Tùng chăm làm overtime, Phượng cũng lâu lâu làm kiếm thêm tiền mặt. Trên giấy tờ, hai người đã ly thân nhưng thực sự vẫn là vợ chồng, vẫn đầu gối tay ấp rất mặn nồng. Căn nhà ba phòng ngủ nhà nước cấp cho Phượng, nàng thấy thừa thãi quá bởi nàng chỉ có hai đứa con nhỏ. Giả như chính phủ chỉ cho có một phòng ngủ cũng chẳng sao. Vợ chồng con cái có thể lăn ra thảm mà nằm vẫn còn rộng chán!

- Lúc đã ngủ rồi thì nằm trên giường hay dưới đất, có khác gì nhau!

Phượng thường lý luận như vậy và sợ người ta chê mình kém văn minh. Nàng nhấn mạnh thêm:

- Chứ còn gì nữa! Trên đời này có ai đang ngủ mà biết mình nằm ở đâu không? Giường đẹp hay giường xấu, chỉ lúc thức mới phân biệt được, chứ khi đã ngủ rồi thì còn cần gì!

Và nàng dứt khoát cho mướn một phòng để cái người mướn ấy sẽ trả tiền nhà thay cho nàng. Như vậy là Tùng, Phượng và hai đứa con hoàn toàn miễn phí, kiếm được bao nhiêu, tóm gọn bấy nhiêu. Ở cái xứ Canada này, hay nói đúng hơn là tất cả những nước kỹ nghệ tân tiến, có thẻ tín dụng, thì mối lo âu đeo đẳng suốt kiếp người là tiền nhà, hoặc nhà thuê hoặc mortgage. Cho nên nếu tạm thời thoát được cái gánh nặng ngàn cân ấy, dù chỉ một quãng thời gian như Tùng và Phượng hiện nay, thì tiền trong trương mục tiết kiệm sẽ lên nhanh vùn vụt.

Tôi chính là người đầu tiên, và có thể cũng là người cuối cùng, mướn phòng của vợ chồng Tùng, tháng nộp bốn trăm vừa ăn vừa ở. Ngày ấy, tôi vừa bị mất việc vì hãng đóng cửa. Nền kinh tế cả nước đang gặp chu kỳ suy thoái. Nộp đơn hàng chục nơi, không chỗ nào thèm trả lời. Đường cùng, tôi đành xin đi học nghề. Đi học dĩ nhiên là nghèo. Một mình không thể chịu nổi cái apartment tôi đang ở từ mấy năm nay. Có người bạn rủ về sống chung, nhưng tôi sợ mình ham vui, trở ngại cho việc học nên nảy ra ý định ẩn cư tại một nơi không quen biết.

Một hôm tôi ra tiệm giặt công cộng, thấy dán mảnh giấy nhỏ “Phòng cho mướn” kèm theo số điện thoại, tôi liên lạc ngay và chạy lại xem nhà. Tùng và tôi chưa biết nhau, nhưng qua câu chuyện thăm hỏi vòng vo, cả hai đều cảm thấy gần gũi bởi cùng quen chung một số người khác. Dĩ nhiên Phượng không muốn để người lạ đến ở, bởi ngay cái việc cho thuê phòng của nàng đã bất hợp pháp rồi. Nàng cần một người thân, và nếu hiền lành đến độ ngờ nghệch như tôi thì lại càng quí. Về phần tôi, tôi cũng có nhiều thiện cảm với Tùng và Phượng. Tùng đứng đắn, chừng mực, từ lời nói đến hành động đều không có gì quá lố. Phượng thì nhanh nhẹn, xinh xắn. Nói chung, nhìn bề ngoài hai người rất đẹp đôi. Nếu cố tìm khuyết điểm thì cả hai chỉ có chung một tật nhỏ là ngại tiêu tiền! Nhưng điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến tôi, bởi tôi chỉ cần một căn phòng riêng để học và ngủ.

Một tuần lễ sau, hai người vui vẻ phụ tôi dọn đồ đạc vào. Căn nhà của Tùng và Phượng tương đối còn khá mới, lại ít tầng, cho nên vệ sinh trong ngoài rất chu đáo, khác hẳn không khí hỗn tạp tôi thường bắt gặp ở những cao ốc khác mà chính phủ cung cấp cho các gia đình có lợi tức thấp. Thiết kế bên trong giản dị nhưng gọn ghẽ. Ngày ngày đi học về, tôi mở cửa chính leo thẳng lên lầu, chủ đích tránh tối đa việc tham dự vào cuộc sống riêng tư của Tùng và Phượng. Tôi cố gắng sắp xếp để mọi sinh hoạt của mình đều thu gọn trong căn buồng nhỏ trên lầu, bên cạnh hai phòng ngủ nữa mà chỉ buổi tối gia đình Tùng mới kéo lên, hò hét trong giây lát rồi lăn ra ngủ. Phượng biết tôi cần yên tĩnh để học bài nên lúc nào cũng giữ con chơi ở tầng dưới. Nghĩa là, một ngày tôi chỉ gặp gia đình Tùng trong bữa cơm chiều, còn ngoài ra, sự hiện diện của tôi trong căn nhà này hoàn toàn không làm phiền đến ai kể cả hai đứa con nít.

Thời gian trôi rất nhanh. Cuộc sống phẳng lặng kéo dài được gần một năm thì có những tin đồn làm Tùng và Phượng bắt đầu bối rối. Nền kinh tế Canada thật sự chưa bao giờ đáng gọi là huy hoàng nhưng ít ra cũng được liệt vào hàng cường quốc kỹ nghệ. Mấy năm nay bỗng dưng xuống dốc thê thảm. Khi đất nước thịnh vượng, chính phủ ít bới móc những lạm dụng của dân chúng. Nhưng khi ngân sách thiếu hụt, mọi thứ chi tiêu phải xiết lại, thì các cơ quan nhà nước, đặc biệt là sở thuế, tung ra hàng loạt biện pháp để giảm chi tối đa và vơ tiền về cho công quĩ.

Cộng đồng Jamaïca trong thành phố, không biết có phải là sắc dân đạt kỷ lục về trò giả vờ ly hôn nhưng vẫn sống chung để lãnh trợ cấp hay chăng, mà sở Xã Hội ào ạt thăm viếng trước nhất. Nhân viên chính phủ theo dõi, rình rập, thẩm vấn và khám phá ra khá đông người gian lận. số tiền phạt, hồi tố lại bao nhiêu năm qua, làm nhiều bà single mother tán gia bại sản tính ra còn nặng nề hơn cả vụ AMWAY mấy năm trước.

Những người bạn của Tùng gia nhập hệ thống AMWAY hoàn toàn vì ngay tình, tưởng có thể tránh thuế được. Không ngờ sự thật là họ bị hướng dẫn sai lạc, cuối cùng lâm vào cảnh dở khóc dở cười khi chính phủ truy xét. Còn Tùng và Phượng, giả vờ ly dị để lãnh trợ cấp mà vẫn sống chung, trò chơi này nguy hiểm hơn vì cố tình phạm pháp. Tôi nghe loáng thoáng hai vợ chồng có lần bàn tính và tỏ ra hết sức đăm chiêu. Một là họ phải tái hợp, trở thành vợ chồng chính thức trên giấy tờ. Điều này có nghĩa rằng quyền lợi hiện tại sẽ mất hết bởi luơng của Tùng khá cao. Hai là Tùng phải dọn ra, mướn chỗ khác và như thế thì chẳng những không có lợi gì về tài chánh mà còn tự làm phiền toái mình bởi Ngưu lang Chức nữ tình nguyện chia ly!

Một hôm Phượng đi chợ về, chắc nghe thiên hạ bàn tán và hù dọa, chạy vội lên lầu gõ cửa phòng tôi và nhớn nhác dặn:

- Nếu có ai hỏi, anh đừng nói là anh mướn phòng của tôi nhé. Anh cứ bảo anh là bà con, đến thăm ở vài hôm thôi...

Tôi đang bận học bài nên chỉ gật đầu cho qua chuyện, không tò mò hỏi han thêm. Buổi chiều, Tùng đi làm về lại chạy lên lầu và cười cười dặn tôi một câu tương tự, chỉ khác một điều là nét mặt Tùng điềm tĩnh lắm, còn Phượng thì lo âu thấy rõ. Mà nàng lo là phải. Chính phủ cấp nhà cho ba mẹ con nàng theo nhu cầu, nàng dùng để đầu tư, dĩ nhiên là trái luật rồi. Xã hội này rất thương những bà mẹ độc thân, với điều kiện phải độc thân thật!

Năm ngoái, có người đề nghị cắt giảm trợ cấp của single mother vì ngân sách thâm thủng quá nặng, lập tức hàng ngàn người nhao nhao phản đối trên báo chí. Họ giải thích rõ ràng rằng, khoản trợ cấp ấy không thể bỏ được bởi nó không chỉ nhắm vào các bà mẹ, mà vì tội nghiệp những đứa trẻ không cha. Ly dị là một thảm cảnh của những xã hội văn minh và thống kê đã cho thấy, con cái của những cặp vợ chồng ly dị thường dễ bị khủng hoảng tinh thần, tỉ lệ thành công sút kém hơn những trẻ em trong một gia đình mà cha mẹ hạnh phúc. Chính vì vậy, những bà mẹ độc thân đáng được hưởng sự quan tâm đặc biệt của xã hội để chăm sóc con cái chu đáo hơn, miễn là đừng vì sự dễ dãi của chính phủ mà lạm dụng.

Một hôm Phượng đang nấu bếp thì có người gõ cửa. Nàng chạy ra và tái mặt vì nhân viên sở Xã Hội đến thăm cùng với một cô thông dịch viên người Việt. Rất may cho Phượng là Tùng đi làm chưa về, bởi nếu Tùng có nhà thì coi như bị bắt quả tang, không cách nào chối cãi được. Nàng đón khách vào, lật đật pha nước, lấm lét nhìn quanh, bứt rứt khổ sở vì những đồ dùng của Tùng bày la liệt khắp nhà. Từ cái gạt tàn thuốc lá, giày dép, quần áo đàn ông... đều làm Phượng lo sợ vì nó chứng tỏ nàng không sống một mình. Cô thông ngôn trấn an Phượng:

- Nhân viên welfare bữa nay đến thăm chị để xin chị trả lời một số câu hỏi trong tờ tham khảo, nhằm mục đích tìm hiểu và cải tiến chương trình giúp đỡ những bà mẹ độc thân. Nói tóm lại, đây là một cuộc survey, chị trả lời bốn mươi hai câu hỏi trong tờ questionaire, tốn chừng mười lăm phút là xong. Ngoài ra không có mục đích gì khác!

Sở dĩ cô thông dịch viên nói rõ như vậy là bởi cô rất cảm thông những trường hợp như Phượng. Hễ cứ nghe sở Xã Hội đến gõ cửa là hoảng hốt, chỉ sợ họ cúp welfare. Ngay lúc này, dù đã nghe cô thông ngôn cắt nghĩa, Phượng vẫn cho rằng bề ngoài họ làm bộ tham khảo hay thăm viếng, nhưng âm mưu thực sự của họ là muốn kiểm tra xem Tùng, chồng nàng, có sống chung trong căn nhà này hay không. Và vì tin như vậy, nàng mất hết cả thoải mái, vừa trả lời câu hỏi vừa loay hoay suy nghĩ phương cách xử trí trong tương lai. Tính Phượng vốn đa nghi, cho nên nàng kết luận ngay là ‘‘chắc có đứa nào tố”, chứ không thì nhân viên sở Xã Hội đến đây làm gì! Cô thông dịch viên đầy kinh nghiệm, nhìn thấu tâm trạng Phượng, hai ba lần minh xác:

- Tôi nhắc lại với chị, là sở Xã Hội làm giám định thông thường thôi. Hàng năm họ vẫn làm, đặc biệt là trong các cộng đồng Á châu và da đen. Họ làm chơi thôi, không có gì quan trọng đâu!

Rồi người đàn bà Canada bắt đầu hỏi Phượng:

- Bà ở đây mấy người?

Phượng nhìn cô thông dịch viên, lúng túng vì có tật giật mình:

- Dạ thưa ba người. Chỉ có ba người thôi. Tôi và hai cháu bé!

Giữa lúc đó, thật không may cho Phượng, tôi từ trên lầu lò mò xuống lấy ly nước, cả ba cùng ngẩng lên nhìn tôi. Tôi thấy mặt Phượng tái xanh, không nói được lời nào, chỉ trố mắt nhìn tôi oán trách. Nhân viên sở Xã Hội hỏi Phượng:

- Ai đấy?

Phượng giật mình ấp úng đáp:

- Bạn tôi ở Montreal mới qua chơi!

Bà Canada giơ tay chào tôi theo thói quen: “Hi! How are you?” rồi bỗng tươi hẳn nét mặt, ra vẻ thông cảm với Phượng:

- Bà đã có bạn mới? He must be the right man!

Bà buông cây bút xuống bàn và bắt tay Phượng:

- Congratulation!

Phượng đang ngơ ngác thì cô thông ngôn giải thích thêm:

- Chị có quyền có người yêu mới. Xứ này đâu có bắt buộc ai ly dị thì phải sống mãi một mình đâu! Chính phủ còn mong chị lập gia đình lại để tự lo liệu, khỏi lãnh trợ cấp nữa!

Và cô thân mật bảo Phượng:

- Chị quen anh ấy lâu chưa? Tôi cũng đã ly dị một lần. Hai năm sau, tôi lấy chồng khác, cho nên tôi rất hiểu hoàn cảnh của những người như chị!

Phượng cười ngượng ngập, chưa biết nói gì thì cô lại nói thêm:

- Không biết chị có đồng ý với tôi không, nhưng tôi thấy thế này: Thà mình cứ độc thân thì không sao, đã lấy chồng một lần rồi, khi ly dị lại muốn lấy chồng khác ngay! Ở một mình nó thế nào ấy, làm như thiếu cái gì, phải không chị?

Dứt lời, cô cười lớn như để chia sẻ niềm vui với người đồng hội đồng thuyền. Phượng cũng cười theo nhưng gượng gạo lắm. Tôi chắc nàng đang quá bận tâm, vui thế nào được trong hoàn cảnh này! Cô thông ngôn lắm mồm lại ghé tai Phượng nói thêm:

- Chị có người yêu mới là phải! Phải như thế để ông chồng cũ của chị đừng có bén mảng lại làm phiền chị nữa! Cái hồi tôi mới ly thân cũng vậy. Chỉ mới separate thôi đấy nhé, tôi vác ngay một ông kép trẻ về. Ông chồng cũ tôi hết dám lè nhè. Không biết chồng cũ của chị thế nào, chứ ông chồng tôi... mất dạy lắm. Nói chung, đàn ông họ đều thế cả. Đã bỏ nhau rồi mà vẫn cứ ghen! Mỗi lần điện thoại đến, tôi cho ông bồ tôi nhấc phone. Thế là hết nói!

Rồi cô lại nghếch mắt cuời khanh khách, y như vừa đạt được một thành tích lớn trong cuộc đời.

Tôi đứng ở tủ lạnh rót coca vào ly, theo dõi câu chuyện của ba người, phân vân không biết phải xử trí thế nào. sở Xã Hội tưởng lầm tôi là người tình mới của Phượng, thay thế Tùng đi nốt quãng đường đời còn lại. Tôi không thể chạy ra cải chính, bởi như vậy sẽ lộ ngay cái tội Phượng lấy nhà chính phủ cho tôi mướn. Tôi khẽ kéo ghế, nhẹ nhàng ngồi xuống bàn ăn và lần đầu tiên có ý định dọn ra để tránh phiền toái cho Tùng và Phượng nếu mai sau bị sở Xã Hội điều tra về tình trạng ly dị đích thực của hai người.

Ngoài phòng khách, một loạt câu hỏi đang đặt ra cho Phượng: Bà ly dị từ hồi nào? Ly dị êm đẹp hay cay đắng? Sau khi ly dị và sống một mình với hai con, cuộc sống có những khó khăn gì và bà có nhận thấy con cái bà thay đổi tính nết do cuộc ly dị của bà gây nên không? Chính phủ cần làm gì thêm cho những đứa con của bà?

Đại khái một loạt câu hỏi rất bình thường, nhưng câu nào cũng làm Phượng nghi ngại vì sợ người ta gài bẫy. Nàng nhớn nhác nhìn đồng hồ trên tường, chỉ sợ Tùng tan sở về bất tử thì hỏng hết mọi việc. Tôi thấy một điều mâu thuẫn ở Phượng là nàng rất mong buổi tiếp xúc kết thúc thật mau, nhưng khi trả lời bất cứ câu hỏi nào, nàng cũng cứ vòng vo phân trần dù là những câu “yes or no "khiến tôi ngồi uống nước trong bếp, vừa sốt ruột vừa bực bội, dù câu chuyện chẳng dính dáng gì đến mình.

Buổi chiều, Tùng đi làm về. Hai vợ chồng ngồi bàn tán to nhỏ rất lâu trong bếp, quên cả hai đứa con đói bụng léo nhéo đòi hamburger. Tôi nằm đọc sách trên phòng, chờ mãi cũng không nghe tiếng Tùng gọi xuống ăn cơm như thường lệ. Lâu lắm, tôi nghe tiếng Tùng nạt hai đứa nhỏ:

- Lên lầu chơi cho bố mẹ nói chuyện! Lát nữa ăn!

Tôi gấp sách lại, chạy vội xuống nhà, lấy bánh mì, peanut butter và nước táo, rồi rủ cả hai đứa lên phòng tôi ngồi. Nhìn xuống chân thang, tôi thấy Tùng vẫn đứng trầm ngâm bên cạnh quầy bếp, bàn tay phải đặt trên rổ bát, mắt nhìn ưu tư qua cửa sổ hướng về sân sau. Phượng thì lấm lét nhìn ra đường xem có ai rình rập, theo dõi Tùng vào căn nhà này hay không! Tôi quay vào phòng, tắt máy computer, bảo hai đứa nhỏ ngồi ăn rồi xuống nhà trấn an Tùng:

- Có gì đâu mà ông lo! Họ làm survey thôi. Xứ này ông còn lạ gì! Đủ các thứ thăm dò.

Phượng bước lại, thành thật kể lể:

- Lo chứ anh! Thể nào họ cũng theo dõi! Anh cũng như người trong nhà, tôi mới nói. Trên giấy tờ, anh Tùng và tôi đã ly dị rồi. Anh ấy đâu có quyền ở đây. Mỗi tháng tôi lãnh hơn một ngàn tiền single mother. Nếu họ khám phá ra tụi tôi vẫn sống chung với nhau, họ bắt trả lại, rồi còn phạt nữa. Ba năm là hơn ba chục ngàn, cộng với tiền lời và tiền phạt... Chưa kể tôi còn cho anh mướn phòng nữa!

Im lặng một lát, Phượng tiếp:

- Chắc có đứa nào tố!

Tôi phì cười:

- Chị lúc nào cũng hay nghi ngờ. Chẳng có ai tố cả! Ngân sách thiếu hụt quá nặng, chính phủ nợ mấy chục tỉ, cho nên họ phải tìm đủ mọi cách để kiếm tiền. Thuế GST chẳng hạn. Biết là dân chúng oán trách, biết là việc thương mại sẽ bị ảnh hưởng, nhưng chính phủ vẫn phải ban hành chỉ vì nhà nước quá nghèo!

Phượng bảo Tùng:

- Cẩn thận vẫn hơn. Từ nay anh đừng đậu xe trước cửa nữa. Đậu xa xa bên con đường nhỏ, rồi đi bộ vào lối sau. Rủi có người theo dõi...

Tùng lắc đầu:

- Ăn thua gì! Nếu họ đã cố tình chộp mình thì thể nào cũng dính. Biết đâu chính hàng xóm tố cáo, mình chối làm sao được!

Tôi cắt ngang:

- Nhưng hiện nay họ chưa điều tra thì tại sao ông bà không giải quyết dứt khoát đi. Đợi đến khi họ xông vào rồi thì chạy làm sao khỏi!

Phượng hỏi một câu hết sức ngây ngô:

- Giải quyết cách nào bây giờ?

- Thì tôi dọn ra. Ông bà làm giấy đoàn tụ lại với nhau, đừng lãnh trợ cấp nữa.

Câu trả lời của tôi mới thật là ngớ ngẩn. Đừng lãnh trợ cấp nữa thì còn gì để nói! Mấu chốt của vấn đề chỉ là mỗi tháng Phượng nhận tấm chèque một ngàn mấy trăm đồng tiền trên trời rớt xuống, chưa kể mọi thứ quyền lợi khác về thuốc men, bảo hiểm. Nếu tự dưng khước từ số tiền ấy thì quả là một hy sinh quá lớn lao, Phượng không thể làm nổi. Chẳng phải Phượng tham, vì rõ ràng tôi nghe có lần hai người bàn nhau rằng, hễ để dành đủ tiền mua căn nhà trả cash thì sẽ không thèm lãnh welfare nữa!

Phượng nhìn tôi bằng cặp mắt kinh ngạc, vì không ngờ tôi có thể đưa ra một đề nghị quá tàn nhẫn như vậy! Nàng thà chấp nhận cho Tùng đi nơi khác, chứ đời nào chịu bỏ trợ cấp và căn nhà quen thuộc này! Nhưng nếu Tùng dọn ra, đi mướn phòng, sắm đồ đạc thì cũng như không! Có khi còn lỗ nữa, so với tiền welfare hiện tại của vợ.

Tôi thấy sự hiện diện của mình chẳng giúp gì được Tùng nên lặng lẽ bỏ lên lầu. Tôi dự định cuối tháng sẽ trả phòng ra đi, để tránh những phiền toái cho chính mình mai sau, vì biết đâu sở Xã Hội chẳng kêu tôi ra làm chứng.

Mấy hôm sau, Tùng đi làm về, rầu rầu bảo vợ:

- Có người bị rồi, em ạ. Đám da đen dính gần hết!

- Da đen thì bị lâu rồi! Em nghe nói từ năm ngoái.

- Có lẽ bây giờ đến lượt dân Á châu. Tàu, Phi, Ấn Độ, Việt Nam... Anh nghe thằng Trúc nó bảo rằng sở Welfare đang mở chiến dịch hỏi thăm các sắc dân châu Á!

Tôi ngồi ăn cơm, lặng lẽ không góp ý bởi tôi thấy vợ chồng nhà này vô lý quá. Ngày nào cũng nhắc đi nhắc lại nỗi lo âu của mình, nhưng hoàn toàn không có ý định giải quyết cho dứt khoát nỗi lo âu đó! Y như người có bệnh mà cương quyết không đi bác sĩ! Thà rằng, Tùng và Phượng đã bị điều tra, đã bị sở Xã Hội bắt gặp quả tang Tùng ở thường trực trong nhà thì kể như chuyện đã rồi, chỉ còn cách nộp phạt và ngồi thở than với nhau. Đằng này, họ chưa hề bị thẩm vấn, nghĩa là họ vẫn có lối thoát rất dễ dàng, nhưng họ không muốn thoát, cứ hồi hộp chờ chính phủ đến làm phiền! Tôi biết giờ này Phượng đã có số tiền mặt khá lớn giao cho Tùng bỏ ngân hàng và mua Canada Saving Bond bởi nàng không thể đứng tên. Số tiền đó càng lớn thì Phượng lại càng muốn nó tăng thêm. Chính vì cái tâm lý ấy mà trong xã hội, người giàu thường hà tiện hơn người nghèo. Người nghèo có ít, tiêu bừa đi không tiếc, bởi để dành cũng chả đáng bao nhiêu. Người giàu, có quá nhiều, ngắt đi một phần nhỏ cũng thấy đau.

Ông anh họ của Tùng là một bác sĩ thuộc hàng cự phú, chán ngấy bà vợ từ mấy năm nay, nhưng cắn răng không dám ly dị vì sợ bị chia tiền! Cái ấy đúng là bỏ người chạy lấy của. Một cô bạn của Phượng chắt chiu được gần một trăm ngàn đô-la. Tuổi cô đã trên ba mươi mà thời gian cứ trôi đi vùn vụt, nhưng cô cảm thấy khó lấy chồng quá, bởi cô nhất định tìm cho bằng được thằng đàn ông nào phải có số vốn tương đương như cô thì cô mới chấp nhận. Cưới thằng nghèo thì vốn bị cưa hai, thà ở vậy làm gái già sướng hơn! Đây cũng chính là trường hợp bỏ người chạy lấy của! Mà buồn cười nhất là chính Tùng và Phượng kể cho tôi nghe về hai nhân vật ấy với một giọng giễu cợt hàm ý chê bai. Thế mà hóa ra Phượng cũng có cái thú đếm tiền y như họ.

Hôm sau Tùng đi làm, tôi đi học rồi vào thư viện như thường lệ. Buổi chiều tôi về sớm, nghe Phượng tâm sự:

- Anh cứ ở đây với chúng tôi, việc gì phải dọn ra? Welfare đâu có cấm cản tôi có bạn hay người nhà đến ở. Miễn là họ không bắt được quả tang ông xã tôi vẫn chung sống với tôi là chẳng sao cả! Hôm qua, anh Tùng bàn với tôi là anh ấy nên lánh mặt đi một thời gian vì sợ nhân viên sở Xã Hội theo dõi. Chờ xong chiến dịch rồi lại quay về.

Tôi ngạc nhiên ngắt lời:

- Anh ấy định mướn nhà ở riêng hay ở với ai?

- Không, anh ấy về Việt Nam.

Tôi à một tiếng rồi bỏ lên lầu. Tôi biết từ lâu Tùng vẫn có ý định về thăm cha mẹ nhưng phần vì tiếc tiền, phần vì Phượng cản, nên chưa đi. Phượng cản không phải vì lý do chính trị mà vì nàng còn tiếc tiền hơn cả Tùng nữa. Nay thì nhân cơ hội một công đôi chuyện, Phượng bằng lòng cho chồng xin nghỉ một tháng và chuẩn bị lên đường. Hôm tôi đưa ra phi trường, Tùng hết sức hoan hỉ, bàn chuyện mua sẵn căn nhà ở Sài gòn để mai kia về sinh sống. Tùng bảo:

- Không tính trước, vài năm nữa người ở hải ngoại đổ về, giá nhà tăng gấp ba gấp bốn, muốn mua cũng khó khăn!

Rồi Tùng dặn dò:

- Tôi biết ông bận học, không có thì giờ. Nhưng ở nhà, thỉnh thoảng ông xem bà xã tôi với hai đứa nhỏ có cần gì thì nhờ ông giúp một tay! Tháng sau tôi về.

Tôi gật đầu cười:

- Ông về thì có thể tôi đã dọn đi rồi. Nhưng dù đi đâu, nếu bà xã ông cần, tôi vẫn phải đến. Nhất là hai đứa con ông. Tôi thương tụi nó lắm.

Tùng ngạc nhiên:

- Ông cứ ở đó, tại sao phải dọn đi? Dù welfare có hỏi cũng đâu có sao? Ông cứ xưng là bạn hay bà con đến chơi!

Tôi không nói gì, Tùng lại tiếp:

- Còn nếu ông nhất định đi thì ông chờ tôi một tháng nữa rồi hãy đi. Tôi về lại, ông đi đâu, tôi phụ với ông dọn nhà.

Tôi đáp hững hờ:

- Vậy cũng được!

Tùng tỉ tê tâm sự:

- Tôi tính lại rồi. Xong chuyến này trở về, tụi tôi làm hôn thú lại để bà xã tôi khỏi lãnh trợ cấp nữa. Ăn của chính phủ mấy năm như thế cũng đủ rồi. Rủi họ phanh phui ra, mất cả chì lẫn chài mà lại mang tiếng. Thiên hạ lúc này thất nghiệp nhiều, tôi may mắn vẫn còn job mà lương khá cao. Ăn của nhà nước nhiều quá cũng thấy kỳ! Chính vì thế mà tôi rủ ông ở lại. Vợ tôi không lãnh welfare nữa thì đâu còn ai thắc mắc, tôi muốn cho mướn mấy phòng cũng mặc kệ tôi chớ!

Tôi gật đầu rồi đổi đề tài:

- Ngày nào ông về, ông cho tôi biết để tôi ra đón.

- Tôi có dặn bà xã tôi rồi. Mười bốn tôi về, vì mười lăm là sinh nhật thằng Bi, phải dẫn tụi nó đi MacDonald’s. Mười bốn, nhờ ông đón tôi.

- Tôi sẽ chở bà xã ông với hai đứa nhỏ ra đón. Ông yên trí!

Tùng cảm động, ngỏ ý cám ơn bằng cách đưa đẩy:

- Ông có muốn mua gì ở bên ấy không, tôi mang qua cho. Địa chỉ ông bà già ông, tôi có rồi. Tôi sẽ ghé thăm.

Tôi lắc đầu ngăn lại:

- Ông đừng ghé nhà tôi. Nói thật với ông, tôi đang đi học, nhận được thư nhà, nhiều khi tôi còn không muốn bóc ra xem. Đọc thư chịu không nổi, chỉ muốn bỏ học đi làm lại để kiếm tiền gửi về. Tôi ráng hai năm nữa rồi sẽ giải thích với gia đình sau. Bữa trước thằng bạn tôi về Sài gòn ghé thăm ông bà già tôi. Nó nói phét nói lác làm ai cũng tưởng bên này tôi có tiền mà bạc nghĩa với gia đình, ông thương tôi thì đừng đến!

Tùng nhìn tôi thông cảm và khẽ thở dài. Tôi bỏ anh xuống trước cửa nhà kiếng phòng đợi phi cảng, bắt tay từ giã rồi phóng thẳng đến trường.

Một tháng vắng Tùng, dĩ nhiên Phượng nhớ lắm bởi từ ngày lấy chồng chưa xa nhau một đêm. Tuy vậy, bù lại, tinh thần Phượng thanh thản hơn vì không lo nhân viên sở Xã Hội bất thần gõ cửa và phát hiện Tùng có mặt ở đây.

Hai tuần lễ đầu, Tùng điện thoại về mỗi sáng thứ bảy và lần nào cũng đòi nói vài câu với tôi. Tuần thứ ba hoàn toàn im lặng. Tuần cuối cùng, Tùng phone sang, run run báo cho Phượng biết mẹ anh đau nặng phải vào bệnh viện Thống Nhất, sợ không sống nổi. Anh bảo Phượng ra phố, chuyển thêm cho anh hai ngàn mỹ kim, đồng thời nhờ tôi phone vào hãng, xin phép cho anh nghỉ thêm một tháng nữa.

Phượng buồn lắm. Không phải nàng buồn vì Tùng kéo dài thời gian du lịch. Tùng ở thêm một hai tháng nữa cũng không sao vì chính nàng muốn Tùng xa căn nhà này ít lâu để tránh sự theo dõi của chính phủ. Phượng buồn chỉ vì chồng nàng hôm đi đã bọc theo khá nhiều tiền, nàng đã đứt ruột lắm rồi, thế mà nay còn đòi gửi thêm. Tôi chở mẹ con nàng ra phố chuyển tiền và an ủi:

- Anh ấy có nói với tôi là chuyến này sẽ mua nhà ở Sài gòn. Chắc vì vậy mà cần thêm tiền.

Phượng gắt nhẹ:

- Ông ấy nói thế chứ tôi đâu có bằng lòng! Đồng tiền cầm trong tay vẫn chắc hơn. Mua nhà ở Sài gòn để làm gì? Biết mình có về được không!

Tôi lại phải trấn an Phượng:

- Có mấy ngàn đô thôi! Chị cứ coi như đánh bạc, biết đâu mai kia chị bán kiếm lời!

Nhưng rồi hết hai tháng, Tùng vẫn không quay về. Anh cũng chẳng điện thoại hay thư từ thăm hỏi Phượng và hai đứa con thỉnh thoảng vẫn nhắc đến bố mỗi buổi tối trước khi đi ngủ. Phượng bắt đầu mất bình tĩnh, mà chính tôi cũng cảm thấy hoang mang. Phượng hối hận đã cho chồng về Việt Nam một mình chỉ vì sở Xã Hội thanh tra. Bạn bè của nàng, dăm ba người single mother giả mà nàng thường liên lạc, ai cũng bảo Phượng chỉ lo vớ vẩn, chính phủ có theo dõi gì đâu! Nàng viết thư về Việt Nam cho gia đình chồng mà thật sự cả nhà chỉ mới biết mặt nàng qua hình chụp, thì chẳng thấy ai trả lời. Nàng nóng lòng bàn với tôi, đặt ra hàng chục giả thuyết, nhưng tôi có biết gì nhiều về Tùng đâu mà quyết đoán. Người như Tùng không phải loại ham vui quên bổn phận và vợ con. Hay anh bị tai nạn? Tôi thoáng nghĩ nhưng không dám nói ra. Cuối cùng, Phượng viết thư nhờ người bà con bên nàng đến tận nhà bố mẹ Tùng thăm dò xem có chuyện gì không may xảy ra chăng. Biện pháp này nếu không xong thì chính nàng sẽ phải dẫn hai đứa nhỏ về một chuyến cho rõ hư thực.

Bước sang tháng thứ tư, Phượng mới nhận được một lá thư của người nhà cho hay bản tin bất ngờ về Tùng qua đoạn viết sau đây: “Theo lời chị dặn, em đã đến nhà anh Tùng, nhưng không gặp. Người nhà anh ấy bảo: anh Tùng trước đây có lập gia đình ở Canada, nhưng đã ly dị hơn ba năm rồi. Bây giờ anh ấy sắp cưới một cô gái làm giáo viên ở Sài gòn”...

Phượng mếu máo đưa cho tôi coi lá thư, uất quá không nói được lời nào, chỉ luôn tay rút Kleenex thấm nước mắt. Đúng là lộng giả thành chân! Không hiểu vì những nguyên cớ gì, chính tôi đã chứng kiến một số cặp vợ chồng lúc đầu chỉ làm bộ ly dị, rồi rốt cuộc một thời gian sau thì bỏ nhau thật, hoặc cách này hay cách khác. Tôi có ngờ đâu cái “tiền lệ” kỳ quái ấy lại xảy đến với Tùng và Phượng.

Trước khi lên đường, chẳng có dấu hiệu gì là Tùng sẽ thực hiện một... bước ngoặt lịch sử đột xuất như vậy. Gần một năm ở chung với họ, tôi biết chắc là Tùng và Phượng là cặp vợ chồng nhiều hạnh phúc, ít ra là không cãi vã thường xuyên như nhiều người bạn khác của tôi. Nhân loại đã đồng ý với nhau rằng: Một cặp vợ chồng êm ấm thường có nghĩa là, trong hai người phải có một người hèn, mà cái người hèn ấy thường là thằng chồng! Từ đó mới có câu “ở hèn gặp lành”, rồi sợ con cháu chê cười, các cụ mới đọc chệch đi thành “ở hiền gặp lành” cho đỡ ngượng!

Riêng vợ chồng Tùng không nằm trong trường hợp tôi vừa kể. Cả hai hoà thuận thật bởi cả hai cùng cư xử vừa phải, không ai lấn át ai. Cũng chính vì vậy tôi càng kinh ngạc khi nghe tin Tùng sang ngang một cách bình thản như vậy. Chuyện tiếng sét ái tình hoá ra có thật ngoài đời chứ không phải chỉ nằm trong tiểu thuvết. Và một người dù quá khứ nghiêm chỉnh đến đâu thì cũng chẳng thể căn cứ vào đó để đảm bảo không có lúc sa ngã. Hạnh phúc lúc nào, cứ biết lúc ấy, mọi tiên đoán cho tình yêu đều có thể lầm lạc cả. Biết bao nhiêu cặp vợ chồng khắng khít tưởng ngàn đời không dứt được, thế mà đùng một cái chia tay. Hoá ra họ vẫn “sleeping with the enemy”mà không hề biết! Điều ngạc nhiên nhất đối với tôi là Tùng vốn yêu tiền đến thế mà nay dám bỏ việc làm giữa lúc nền kinh tế đang suy thoái trầm trọng, tỉ lệ thất nghiệp mỗi ngày một tăng, quả thật Tùng đã chọn tình thay tiền rồi!

Từ hôm nhận bản tin Tùng sắp cưới vợ, căn nhà tôi ở bao trùm một không khí hoang lạnh, dù rằng Tùng vắng mặt đã cả mấy tháng trước đó. Gió đưa cây cải về trời, rau răm ở lại chịu lời đắng cay!Tùng rong chơi với người tình mới, bỏ tôi đương đầu với nỗi thảm thương của Phượng. Cuộc sống thường nhật hoàn toàn bị xáo trộn, việc học hành của tôi thành ra cũng thăng trầm theo. Có lúc đang im lặng, Phượng bỗng oà lên khóc. Hai đứa con nhìn mẹ một lúc rồi cũng mủi lòng, méo xệch mồm, nấc lên theo. Tôi còn tâm trí nào mà ngồi bên đèn sách! Hết dỗ con rồi lại dỗ mẹ, tôi muốn dọn đi nhưng không đành lòng khi tang gia bối rối.

Suốt ngày Phượng ủ rũ, buông xuôi từ áo quần đến mái tóc, tự biến mình thành một con người khác. Nàng nằm vật vã trên giường, không ngó ngàng gì đến nhà cửa nữa. Tôi đi học về, bếp nước cứ lạnh tanh, phải tự động nấu mì gói mà ăn tạm cho qua ngày. Hai đứa con Phượng lê la ở phòng khách, đòi cái này, hỏi cái kia, ít khi tôi thấy Phượng nhếch mép trả lời. Những hôm trái gió trở trời, tôi nghe chúng léo nhéo ở phòng bên, khóc đêm, đái đêm, tôi cũng phải ngồi dậy chạy sang bởi Phượng dường như biết có tôi, nên cứ nằm vạ trên giường, không thèm ra!

Nuốt mì gói mãi đã chán ngấy, mà lại thấy Phượng không ăn uống gì, sợ nàng kiệt sức chết, tôi phải chạy đi chợ, thay đổi bữa cơm bữa cháo, bưng lên phòng cho nàng. Chao ôi, tôi đóng tiền để nàng nấu cơm tháng, không ngờ chính tôi phải nấu ngược lại! Tôi cần một nơi yên tĩnh để học bài, không ngờ lại lạc vào giữa thế giới điêu tàn, bao trùm một màu tang ngút trời như thế này!

Cứ như tôi đoán thì sự đau xót của Phượng đã lên tới cực điểm không phải chỉ vì tiếc nhớ Tùng mà hơn thế nữa, vì bao nhiêu tiền bạc dành dụm của nàng đã giao cả cho Tùng đứng tên. Vengeance aux deux visagel Hận thù gồm cả hai mặt: Hận kẻ bạc tình khoảng 49% và thù kẻ lấy tiền chiếm 51% trong lòng nàng. Đưa hết tiền cho Tùng khi Tùng đã ký tên ly dị thì cũng chẳng khác nào gửi trọn tài sản trong tay một kẻ hoàn toàn xa lạ, trước mặt luật pháp không còn cách nào để đòi lại được!

Phượng nhìn lại quanh mình và càng nghẹn ngào tự trách. Đồ đạc trong nhà toàn những thứ second hand. Áo quần cũng chỉ dám mặc loại rẻ tiền. Mấy lần định sắm cái nhẫn hột xoàn làm của riêng, nhưng lại tiếc tiền tự nhủ “mình có tiệc tùng đình đám gì đâu mà phải đeo hột xoàn!” Giờ thì trắng tay như người mới vượt biển. Có hơn hai ngàn tiền mặt nhét dưới nệm giường thì hôm rồi Tùng bảo gửi về hai ngàn, Phượng đã làm theo, coi như cú đá bồi cạn tàu ráo máng mà Tùng xử với người vợ hiền sáu năm chung sống.

Thấy Phượng vật vã quá, tôi đề nghị một điều mà lẽ ra tôi không nên nói:

- Có cái trương mục nào chị đứng tên chung với anh Tùng không? Nếu có, chị chạy ngay ra ngân hàng, xem có tiền thì rút hết ra đi!

Phượng gắt lên:

- Làm gì có! Lãnh welfare, ai dám để cả mấy chục ngàn trong nhà băng!

Tôi cũng nhận ra mình ngớ ngẩn, vội nói thêm:

- Nhưng mà chị lo gì. Sớm muộn anh ấy cũng phải về đây chứ đi đâu! Chừng đó chị nói chuyện với anh ấy. Dù có bỏ chị lấy vợ khác thì cũng phải trả lại tiền cho chị chứ! Đồ đạc, quần áo bao nhiêu thứ. Nhất là còn cái xe của anh ấy nữa!

Phượng rưng rưng nước mắt, lắc đầu tuyệt vọng:

- Đồ đạc thì toàn thứ đem cho không ai thèm lấy! Cái xe thổ tả, bán một ngàn chưa chắc đã có người mua! Ông ấy quay lại làm gì nữa!

Những ngày đen tối cứ kéo dài triền miên, càng thê lương hơn khi mùa đông vừa đến, mới bốn năm giờ trời chiều đã xám ngắt. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ! Huống chi người đã tan nát cõi lòng mà bên ngoài gió tuyết còn vù vù phụ hoạ! Ban ngày, hai đứa nhỏ đến lớp mẫu giáo, tôi cũng vội vã ra đi vì không muốn ở nhà để nghe tiếng thở dài bất tận của Phượng. Buổi chiều, tôi ngồi nán lại thư viện, tránh những bữa cơm chung nhạt nhẽo mà Phượng nuốt không trôi. Ban đêm, nhiều khi đã khuya lắm, tôi vẫn nghe tiếng bước chân Phượng đi ra đi vào ở phòng bên cạnh, tiếng ti-vi mở nho nhỏ lúc hai ba giờ sáng, hoặc đôi khi là tiếng trăn trở của người thao thức khó ngủ. Phượng gầy đi nhiều. Đôi mắt quầng thâm và hai má hốp lại. Tôi biết chắc Tùng đã trở lại thành phố nhưng tránh hẳn mọi liên lạc với Phượng. Có người đã gặp Tùng trong một siêu thị xa tít ngoài ngoại ô, nói cho tôi biết, nhưng tôi không kể lại với Phượng, bởi tôi thấy không có lợi gì cho nàng. Đau khổ nào thì thời gian cũng xóa được. Phượng còn trẻ, nhan sắc ở mức khá, thừa sức để chỉ nay mai sẽ có người yêu khác. Chưa gì trong thành phố đã có dăm ba ông hỏi thăm nàng, nhưng có lẽ còn ngại vì sự hiện diện của tôi trong căn nhà này. Tôi là chứng nhân một biến cố lớn trong đời nàng. Mai kia, khi Phượng vui duyên mới, chính tôi sẽ nhìn được những đổi thay ở nàng và sẽ nhắc lại cho nàng nghe những quằn quại của ngày hôm nay mà nàng tưởng không bao giờ có thể vượt qua được.

Ngày tháng nặng nề rồi cũng trôi qua. Tùng bỏ nhà đã hơn bảy tháng. Phượng bắt đầu phục hồi đôi chút, mang sinh khí trở lại với những sinh hoạt thường nhật trong gia đình để nấu cho tôi những bữa ăn đều đặn.

Từ lúc nào tôi không để ý, Phượng đã chăm sóc lại dung nhan và y phục, dám mua những bộ quần áo đề giá trên... một trăm đồng, tô môi full lips màu đỏ thẫm thời trang, uốn tóc spiral perm và vẽ lông mày thật đậm. Tôi ngẩn ngơ nhận ra Phượng còn trẻ và đẹp lắm. Tôi nhớ có lần trong bữa ăn, Phượng đã tỏ ý chê bai những cô gái trẻ bắt chước người mẫu, tô môi full lips nhoè nhoẹt “trông như hề vẽ mặt trên sân khấu!”. Bây giờ thì chính nàng lại thấy cái nét thẩm mỹ mới mẻ ấy có sức lôi cuốn mọi

người. Đàn bà khi yêu bao giờ cũng đẹp rạng rỡ và trở nên dễ tính khác thường. Phượng thu dọn lại căn nhà đã bỏ bê gần một năm nay, tưới nước cho những chậu cây đang chết héo gần cửa sổ. Cả buồng ngủ của tôi vốn hết sức bừa bãi, một hôm đi học về, tôi cũng thấy đồ đạc lau chùi sạch bóng và thu xếp thứ nào ra thứ nấy. Tôi ngờ rằng Phượng đã nhen nhúm trong lòng một hình bóng nào khác chăng! Ngày ngày tôi đi học, hai đứa bé cũng đến trường, biết đâu trong căn nhà này đã chẳng diễn ra những gặp gỡ ân tình mới, làm đổi thay tâm trạng trống vắng của Phượng? Tôi đã thấy có người lạ đến tìm Phượng một đôi lần. Tôi đã nghe lại tiếng cười rộn rã của nàng mỗi lần nói chuyện với người nào đó trong điện thoại. Nàng quên hẳn Tùng rồi chăng? Thoáng đặt câu hỏi như vậy thôi, chứ tôi không bận tâm thắc mắc bởi chuyện đó chẳng dính gì đến tôi. Mà nếu đúng như thế thì cũng là điều đáng mừng, chẳng những cho Phượng mà cho cả tôi nữa, bởi tôi đã chán ngấy cái cảnh tai bay vạ gió, lọt vào căn nhà này để hứng lấy những phiền toái vốn chẳng liên hệ gì đến mình.

Mỗi lần nhận tấm chèque welfare ít ỏi, Phượng ngồi thừ người ở phòng khách rất lâu, chớp mắt nuối tiếc số vốn dành dụm đã tiêu tán. Rồi, dường như để bù đắp lại quãng thời gian khờ dại ngày trước, Phượng không chắt chiu nữa, rủ tôi đi ăn tiệm, dẫn tụi nhỏ đi xi-nê và sắm thêm đồ chơi cho chúng. Thậm chí còn một chân hụi sống, tuy chẳng đáng bao nhiêu, nàng cũng hốt luôn, ôm về được hơn một ngàn, mua áo quần và mỹ phẩm. Phượng cười giải thích:

- Lúc này thiên hạ hay giật hụi trốn về Việt Nam. Tôi hốt non cho chắc ăn!

Mấy chữ “trốn về Việt Nam” chính nàng vô tình nhắc đến gợi nhớ đến Tùng khiến nàng thở dài. Tôi gạt đi:

- Hụi lớn mới sợ bị giật. Hụi của chị, tháng đóng có một trăm, hốt chót được ngàn hai, giật làm gì?

Giọng Phượng đầy ân hận:

- Hồi đó bà Nam Trân cứ rủ mãi tôi vào một chân hụi, tháng góp năm trăm. Nói là năm trăm chứ thực ra thì chỉ độ ba trăm rưởi, bốn trăm thôi. Người ta bỏ tiền lời cao lắm. Giá tôi nghe bà ấy, thì bây giờ cũng còn được vài ngàn!

Tôi không nói gì vì trò chơi này tôi không rành. Thấy nàng cứ lâu lâu lại buốt nhói về tiền bạc, tôi dè dặt hỏi:

- Cái ngày chị với anh Tùng ra toà ly dị, chị nuôi hai đứa con, toà có bắt anh Tùng phải cấp dưỡng hàng tháng bao nhiêu không?

- Có chứ. Mỗi tháng bốn trăm. Nhưng anh biết đấy. Lúc đó chỉ ly dị trên giấy tờ, thành ra mình đâu có để ý. Bây giờ ông ấy trốn luôn, biết ở đâu mà liên lạc!

Tôi đã toan tiết lộ cho Phượng biết Tùng hiện có mặt tại thành phố này, nếu có tìm thì cũng sẽ gặp để bắt Tùng phải gửi tiền cho các con. Nhưng tôi vừa sực nghĩ ra một điều làm tôi cảm thấy ân hận đã đi quá sâu vào vấn đề riêng tư giữa Phượng và Tùng.

Một người thích tiền như Phượng, chắc chắn không thể không nhớ đến trách nhiệm chu cấp của Tùng. Sở dĩ nàng chưa truy lùng Tùng có lẽ vì nàng vẫn còn hy vọng Tùng một ngày gần đây sẽ quay lại. Nàng điểm phấn tô son, chăm lo lại nhan sắc, biết đâu chẳng vì niềm kỳ vọng mơ hồ đó vì nàng vẫn tin bản chất Tùng không phải là người bạc bẽo. Tùng sa ngã trong một phút yếu lòng, rồi cũng sẽ bừng tình tìm về với vợ con. Cho nên trong lúc chờ đợi, Phượng không muốn làm điều gì quá đáng, tỏ ra mất tình nghĩa đối với Tùng, cửa vườn nàng vẫn mở, để Tùng quay lại lúc nào cũng được.

Có lẽ tôi đoán đúng, bởi ngay sau khi nói câu ấy, Phượng chuyển đề tài, lảng qua chuyện khác và tuyệt nhiên không thắc mắc gì đến bốn trăm bạc mà đáng lẽ Tùng phải phụ nuôi con mỗi tháng. Tôi chợt phì cười vì thấy mình ngớ ngẩn. Lúc thì cho rằng Phượng đang bước vào cuộc tình mới. Khi thì lại đoán rằng nàng vẫn còn tha thiết với Tùng.

Nhiều lần tôi đã tự nhắc mình chỉ là kẻ đứng bên lề, không can dự gì đến cuộc sống riêng tư của Phượng. Vậy mà tôi vẫn cứ soi mói tìm hiểu, dù chẳng ấp ủ một mục đích nào cả. Có hôm trong bữa ăn, tôi tò mò hỏi:

- Cái ông đi BMW đến gặp chị hôm trước là ai vậy?

Phượng nhìn tôi rất nhanh và đáp gọn:

- Bà con của ông Tùng.

Tôi à một tiếng nhỏ. Phượng cũng chẳng nói gì thêm nữa, khiến tôi ngượng ngập về sự hiếu kỳ vô lý của mình. Tôi tự nhủ từ nay sẽ trở lại với những sinh hoạt bình thường, vùi đầu vào đèn sách giống như thuở trời đất chưa nổi cơn gió bụi trong căn nhà này.

Những ngày kề cận Noël, tuyết xuống nhiều, nhưng tôi thường xuyên ôm cặp ra thư viện vì hai đứa nhỏ nghỉ học ở nhà, luôn miệng hò hét, rượt nhau lên xuống cầu thang, tôi không đọc nổi một trang sách. Từ ngày vắng mặt Tùng, hình như chúng nô đùa tự do hơn, Phượng mắng mãi cũng chẳng có kết quả gì. Tôi không phiền lòng chút nào, ngược lại còn thấy tội nghiệp chúng. Tuổi thơ vui chơi được là tốt, ai nỡ cấm cản làm gì! Thà tôi chịu khó đội tuyết ra đi, trong lòng còn thấy thanh thản hơn.

Vào đúng đêm Giáng Sinh, tôi đã sửa soạn sẵn, chuẩn bị đi dự party của lũ bạn cùng lớp, nhưng thấy hai đứa con Phượng cứ quấn lấy, níu kéo tôi ở nhà và nhất là ánh mắt Phượng nhìn tôi khẩn khoản, tôi đành cởi áo coat ra, ngồi lại chơi với chúng bên cạnh cây Noël lấp lánh sáng do chính tay tôi dựng ở góc phòng khách.

Tội nghiệp hai đứa nhỏ không cha, mà từ ngày Tùng vắng mặt, Phượng buồn quá nên cũng lơ là cả nhiệm vụ người mẹ. Hình như chúng sắp quên Tùng vì ít lâu nay tôi để ý, không nghe chúng hỏi mỗi khi đi học về như mấy tháng trước. Tôi dạy chúng hát bài Jingle Bells, cho chúng mở những gói quà nhỏ đặt dưới chân cây thông giả và sau cùng cắt bánh sinh nhật.

Phượng ngồi ở salon, chăm chú quan sát. Chiều nay, nàng đã đem hết những cuốn album kỷ niệm, xé bỏ từng đống ảnh chụp với Tùng để xoá tan dấu tích kẻ bội phản. Nàng mặc bộ đồ trắng toát từ trên xuống duới, tươi mát như ngọn cây non phục sinh sau những ngày chói chan nắng hạ. Ở Việt Nam, với cái nhìn thẩm mỹ cổ điển, Phượng có thể bị chê là gầy, nhưng sang đây lại hoá ra đẹp. Tôi ngước lên, vô tình bắt gặp đôi mắt long lanh đang nhìn tôi rất khác thường, tôi vội cúi xuống và nô đùa với lũ trẻ, đè nén những cảm xúc có thể làm tôi lạc hướng.

Bên tôi, những tiếng reo hò hồn nhiên, những giọng cười như nắc nẻ mỗi khi hai đứa nhỏ giành nhau xé cả mấy lớp giấy hoa mới khám phá ra gói quà chỉ có mỗi một cái kẹo. Tôi ngồi xoay lưng lại phía Phượng, thản nhiên nói cười như đang vui lây cái vui của lũ trẻ mà thật sự trong lòng ngổn ngang trăm mối. Tôi biết Phượng đang nhìn tôi với ánh mắt xúc động bởi thấy tôi thương các con nàng. Mà tôi thương thật chứ không phải vờ vịt như nhiều gã đàn ông khác chỉ dùng con để tán mẹ. Khi chiếm được mẹ rồi thì lập tức trở mặt muốn đạp lũ con ra cửa! Tôi mơ hồ cảm thấy Phượng có cái gì đổi khác đối với tôi. Và chính tôi, nếu gần gũi Phượng thêm một thời gian nữa, cũng sẽ yếu mềm mở một cánh cửa tình yêu mới, ít ra là thứ tình yêu xác thịt. Ở vào hoàn cảnh của tôi, lửa gần rơm ngày này qua ngày khác, dù rơm có ẩm ướt đến mấy thì rồi lửa cũng bắt cháy. Tôi hối hận đã không ra đi ngay khi biết tin Tùng dứt khoát bỏ Phượng. Sự hiện diện của tôi trong căn nhà này vô lý lắm, không ai có thể cắt nghĩa được. Nhưng bây giờ chia tay vẫn chưa muộn. Chỉ cần một tí can đảm, hay đúng hơn là một chút nhẫn tâm, tôi sẽ làm được.

Thằng Bi đập vào vai tôi, ngúng nguẩy bảo:

- Chú đánh lừa cháu! Quà gì mà toàn giấy, cháu bóc mỏi cả tay!

Tôi cười giải thích:

- Không phải chú đánh lừa cháu đâu. Chỉ có ba gói quà thật. Nhưng chú làm thêm bảy gói quà giả để các cháu bóc cho vui!

Tôi cầm lên cái gói nhỏ nhất hình chữ nhật, bọc giấy tím thẫm với cái nơ xanh mà tôi đã đánh dấu sẵn, đưa cho thằng Bi và bảo nó mang lại tặng mẹ. Nó lắc đầu nhìn tôi:

- Chú tặng mẹ cháu đi!

Tôi đứng dậy đến ngồi bên Phượng, trao cho nàng và nói:

- Gói này của chị. Chả có gì đâu, nhưng tôi tặng chị cho đúng thủ tục Noël xứ này.

Phượng đỡ lấy, đặt lên lòng, không nói gì cả, chỉ rưng rưng nước mắt cúi xuống. Tôi dè dặt hỏi:

- Chị vẫn chưa hết buồn?

Phượng lắc đầu đáp:

- Chuyện cũ tôi quên rồi. Tôi xin lỗi anh, mấy tháng vừa rồi tôi thật là bê bối, cơm nước bữa có bữa không, làm phiền anh quá. Mong anh đừng giận!

Tôi khách sáo đáp lại:

- Chị vui là tôi mừng rồi. Thấy chị thảm thương quá, tôi cũng áy náy.

Nàng nói rõ hơn:

- Tôi chỉ sợ anh giận, rồi anh bỏ đi.

Dứt lời, Phượng lảng ngay sang chuyện khác, nhìn đồng hồ và bảo tôi:

- Anh ngồi chơi, tôi cho các cháu đi ngủ, trễ quá rồi!

Nàng đứng dậy, giục hai đứa trẻ đi đánh răng rửa mặt và dắt chúng lên phòng. Còn lại một mình, tôi mở nhạc Giáng sinh nho nhỏ, tắt hết mấy ngọn đèn lớn trong phòng cốt để một mình cây Noël đơn độc bừng lên muôn màu rực rỡ. Tôi ngã người nằm trên sofa, nhắm mắt lại, lắng tai nghe tiếng hát quen thuộc đã bao năm làm tôi ray rứt. Bài thơ Trụ Vũ phổ nhạc năm nào khi chưa mất nước, bây giờ gợi lại niềm thương nhớ sâu thẳm trong tôi về một mùa đông đã xa lắm:

Xin tình yêu giáng sinh

Trên quê hương ngục tối

Xin tình yêu giáng sinh

Cho loài người tội lỗi...

Tôi lẩm nhẩm hát theo, dù câu nhớ câu quên mà vẫn thấy lòng dâng lên nhiều cảm xúc. Chợt nghe tiếng bước chân đến gần, tôi giật mình mở mắt ra, thấy Phượng đang đứng bên cạnh, dáng cao và gầy, đôi mắt đen thăm thẳm trên gương mặt mờ tối. Tôi vội vàng ngồi lên và lúng túng hỏi một câu đáng lẽ không cần hỏi:

- Chị chưa đi ngủ?

Phượng ngồi xuống bên tôi, khoảng cách thật gần gũi trên chiếc sofa, với tay lấy gói quà nhỏ mà lúc nãy tôi trao tặng, xé giấy mở ra. Chỉ là một chai mỹ phẩm Estée Lauder mà tôi nhờ cô bạn cùng lớp mua giùm bởi chưa hề có thói quen tặng quà cho bất cứ ai. Phượng cảm động thấy rõ, chớp mắt nói cảm ơn, tay run run xoay qua xoay lại lọ nước hoa mấy lần rồi mới đặt xuống bàn. Nàng cúi đầu thì thầm:

- Mấy tháng nay, không có anh bên cạnh, không biết làm sao em sống nổi!

Tôi giật thót người vì lần đầu tiên Phượng xưng em với tôi và giọng nàng cũng không bình thường như tôi vẫn nghe từ khi dọn vào đây. Dù ít kinh nghiêm về ái tình, tôi cũng đoán chắc được rằng: Lại thêm một bước ngoặt lịch sử, một rung động mới của con tim!

Sau câu nói mở đường thiết tha ấy, lẽ ra tôi phải nắm lấy thời cơ, hành xử như bất cứ người đàn ông nào khác trên cõi đời này, là choàng cánh tay qua vai Phượng, kéo nàng gục vào ngực tôi và phun ra vài câu cải lương cho phù hợp với tình thế, để rồi từ đó, có thể tiến xa hơn nữa cũng rất dễ dàng. Tình yêu ở một người đàn bà đã có chồng có con, thường đỡ mất thì giờ hơn thứ ái tình chay tịnh thuở học trò. Nhưng tôi lại chẳng có phản ứng gì, không nổi máu gỡ gạc, chỉ ngồi đực mặt một lúc rồi đứng dậy, với tay bật đèn, xoá mất cái khung cảnh thơ mộng ngàn năm một thuở mà Phượng đã thân ái dành cho tôi.

Mấy phút nặng nề trôi qua, không ai nói với ai lời nào. Phượng ngượng ngùng cúi đầu bước lên lầu. Tôi thơ thẩn dưới nhà, ngổn ngang xao xuyến đi tới đi lui rồi cũng tắt nhạc và bỏ lên phòng ngủ.

Ngang qua buồng của Phượng, tôi thấy đèn còn sáng trưng và cửa vẫn mở rộng. Nàng chưa thay áo ngủ, vẫn mặc nguyên bộ đồ trắng ngồi trên giường, chân co chân duỗi, tựa lưng sát vách, ôm cái gối vào lòng, đôi mắt nhìn hờ hững sang bức tường đối diện. Thấy tôi đi qua, Phượng cũng chẳng thèm ngó ra. Tôi bước thẳng về phòng mình, tháo cà-vạt quăng lên giường, trong lòng thấy nao nao bứt rứt vì cần nói với Phượng một điều gì đó mà chưa nói được.

Tôi ngồi xuống mép giường, bâng khuâng suy nghĩ. Chợt thấy trên bàn học có gói quà nhỏ bọc giấy hoa vàng và tấm thiệp Noel dựng bên cạnh, tôi vội lao tới, lật đật bóc ra xem. Mùa Giáng sinh, nhưng Phượng không có lời chúc mừng nào cả. Nàng viết cho tôi một câu rất ngắn: “Tặng anh, nguồn an ủi mới của đời em. Phượng”.

Tôi lặng người ngồi xuống ghế, bàn tay đưa lên lùa vào mái tóc. Tôi đoán không sai. Chính tôi đã giúp Phượng phục sinh sau những ngày vùi dập bi thảm, chính tôi đã đưa nàng trở lại cuộc sống bình thường, đã giúp nàng điểm phấn tô son lại, cho nàng một niềm tin mới để nàng nhìn được ánh sáng của tương lai sau lần đổ vỡ bất ngờ mà Tùng gây nên. Cũng chính vì thế cho nên thái độ lạnh nhạt lúc nãy của tôi trong phòng khách, chắc chắn đã làm nàng tổn thương không ít. Nhưng thà như thế, bởi tính tôi không thích mập mờ.

Tôi đứng dậy bước ra, rẽ sang buồng nàng. Phượng vẫn ngồi trong tư thế cũ, chỉ hất ngược mái tóc lên, cho tôi nhìn rõ hai dòng nước mắt nhạt nhoà trên má. tôi muốn bước vào, kéo Phượng nằm xuống bên tôi, tìm lời vỗ về để nàng tủi thân khóc nức nở hơn. Nhưng tôi không làm được, chỉ đứng tựa khung cửa, một chân bắt chéo qua chân kia, hai tay khoanh trước ngực. Tôi ho một tiếng nhẹ, nhưng nàng không quay lại. Dù vậy, tôi nhất định lên tiếng một lần cho xong:

- Ngày nghe tin anh Tùng dứt khoát với chị, tôi đã định dọn ra để chị thu xếp chuyện riêng. Nhưng thấy chị đau buồn quá, nhất là tôi rất mến các cháu, tôi nán lại một thời gian xem có phụ chị được chút gì không. Bây giờ thì tôi mừng là chị đã quên chuyện cũ. Tôi xin phép chị, ngày mai tôi dọn sang ở chung với một người bạn. Cám ơn chị đã cho tôi ở đây trong thời gian vừa qua và chúc chị nhiều hạnh phúc trong tương lai...

Nói dứt câu, tôi không chờ phản ứng của Phượng, lặng lẽ bước nhanh về phòng.