← Quay lại trang sách

PHẦN I THỢ SĂN KAPUGEN

MỘT CON SÓI CẤT TIẾNG TRU. Nó bắt đầu với âm điệu thấp hơn tiếng gấu gầm gừ, rồi tăng lên âm vực cao nhất của gió và giữ nguyên như vậy.

Tiếng tru lan khắp lãnh nguyên tuyết trắng và lọt vào tai cô gái trẻ đứng ở cửa một ngôi nhà nhỏ màu xanh rêu. Ngôi nhà gỗ ấy tọa lạc ngay rìa một ngôi làng Eskimo bên bờ dòng sông Avalik đã đóng băng ở Alaska. Cô hất quầng lông bao quanh khuôn mặt xinh xắn của mình ra sau và lắng nghe. Con sói đang bảo cô đến chỗ nó. Cô không trả lời.

Julie Edwards Miyax Kapugen biết rất rõ con sói ấy. Nó đã chia sẻ thức ăn với cô khi cô bị lạc trên lãnh nguyên vô tận. Nó đã chạy và chơi đùa cùng cô. Nó đã nằm im trong lều của cô trong khi cô chăm sóc cho nó khỏi hẳn những vết thương do đạn bắn. Giờ nó đang cố gắng xác định vị trí của cô. Không được để nó tìm ra cô. Nó phải đi, đi thật xa. Sau nhiều năm xa cách, Julie trở về với cha cô, Kapugen, và cô biết ông ấy sẽ giết chết con sói.

- Phải như vậy thôi - cô thì thầm với con sói đang tru. - Nếu em đến gần Kapugen, ông ấy sẽ bắn em ngay. Ông ấy cũng giống tất cả các thợ săn Eskimo. Ông ấy sẽ nói: “Con sói tự hiến dâng nó cho bố mà.”

Tiếng tru vút lên và lắng xuống.

Julie nheo mắt nhìn về phía tiếng gọi xa xa.

- Tránh đi, Kapu yêu quý. Chị đang về nhà rồi.

Cô chờ đợi. Con sói mà cô đã đặt tên là Kapu theo tên cha cô, người thợ săn và vị thủ lĩnh vĩ đại, không gọi lại nữa. Cô nhanh chóng mở và đóng cánh cửa đầu tiên dẫn vào nhà Kapugen. Cô bước vào qanitchaq, gian sảnh được thiết kế để ngăn khí lạnh. Tường sảnh treo đầy áo trùm parka và ủng, còn trên sàn toàn mái chèo, súng và bình khí đốt. Cô buông hành lý xuống, cởi chiếc áo choàng parka da hải cẩu cùng đôi ủng maklak của mình, và treo tất cả lên mắc. Cô bước tới cánh cửa thứ hai, mở vào phòng khách, và ngập ngừng.

Cô nghĩ về tuổi thơ của mình trên hòn đảo Nunivak của người Eskimo trên biển Bering, về thời thiếu nữ của mình ở Barrow trên Bắc Băng Dương. Rồi cô nghĩ đến ngày cô vội vã rời khỏi cái thị trấn đó để chấm dứt một cuộc hôn nhân đã được sắp xếp. Cô chạy vào lãnh nguyên với ý định đi bộ tới Mũi Hy Vọng và bắt tàu tới San Francisco để gặp người bạn qua thư của mình là Amy.

Trên lãnh nguyên hoang vu, cô bị lạc một cách vô vọng.

Cô đã cố không nghĩ đến đàn sói đáng mến đã hạ gục một con tuần lộc và cứu sống cô. Cô phải để chúng vào quá khứ. Cô đã tìm thấy người cha kính yêu của mình và sẽ về nhà ông.

Hôm qua ông ấy chào đón cô trong ngôi nhà này. Lòng cô phấn chấn hẳn và nỗi cô đơn trĩu nặng tan đi. Đầu cô tưng bừng những ý nghĩ hân hoan.

Niềm hạnh phúc của cô không kéo dài lâu. Chỉ trong thoáng chốc, cô nhận ra Kapugen không còn là người cha từng đưa cô đi săn và bắt cá theo mùa ở Nunivak nữa.

Ông ấy không còn là người cha sống hài hòa với biển và đất liền nữa. Kapugen đã thay đổi. Ông ấy có một người vợ Mỹ da trắng, một gussak. Ông ấy có những cái bộ đàm, một cái điện thoại, và một lò sưởi hiện đại. Lẽ ra Julie có thể đã chấp nhận mấy thứ này nếu đôi mắt cô không nhìn thấy chiếc mũ phi công và cặp kính máy bay của Kapugen. Cô đã nhìn thấy những thứ ấy trên người đàn ông trong cửa sổ chiếc máy bay, người đã bắn Amaroq, con đầu đàn tuyệt vời trong đàn sói của cô. Cô không thể chấp nhận được điều này. Khi Kapugen ra khỏi nhà, cô đã cầm hành lý của mình và quay lại khu trại của cô nơi bờ sông trơ trụi.

Ở đó, một mình trong đêm Bắc Cực cựa mình răng rắc với màn sương muối rắc kín ngôi lều của cô bằng những bông hoa tuyết, cô biết mình phải quay về. Cho dù ông ấy đã làm gì đi nữa, Kapugen vẫn là cha cô, và cô yêu ông.

- Chúng ta không phán xét người thân của mình - cô từng nghe nhiều người già Eskimo nói vậy, và Julie hướng đôi ủng của mình về phía Kapugen.

Giờ đây, chỉ còn một cánh cửa gỗ ngăn giữa họ thôi.

Cô mở cửa và bước vào trong. Kapugen có ở nhà. Ông ngồi trên một tấm da tuần lộc trải trên sàn, đang mài lại con dao của mình, chỉ có mình ông.

Ông không hề nhìn lên, mặc dù Julie biết ông đã nghe thấy tiếng cô vào. Cô nhón chân đi tới iglek, chiếc đi văng chất lông thú cao ngang đầu cô. Cô leo lên đó, ngồi im, và khoang tay đặt trong lòng.

Kapugen nhìn dọc lưỡi dao để xem nó đã đủ sắc chưa. Julie nhặt một sợi chỉ trên chiếc tất len của mình. Kapugen lựa một miếng da hải cẩu có lông và cắt lấy một sợi dây mảnh. Ông buộc sợi dây quanh ủng của mình. Julie vẫn ngồi im.

Ngay sau đó, Kapugen nhìn ra cửa sổ ngắm bầu trời màu xanh dương trong ngày đông không có ánh mặt trời ấy.

- Gió lặng rồi - ông nói. - Tốt quá.

- Sao còn sáng lắm - Julie nói thêm.

- Thế thì tốt - Kapugen nói.

Im lặng. Kapugen thắt chặt dây ủng và cuối cùng cũng nhìn cô.

- Con có nghe thấy tiếng con sói không? - Ông hỏi, nhìn thẳng vào mắt cô.

- Con nghe rõ tiếng con sói - cô đáp.

Lại thêm một lúc im lặng nữa. Kapugen không hề rời mắt khỏi mắt cô. Julie biết ông đang nói với cô theo cách của thợ săn Eskimo liên lạc mà không cần âm thanh. Đôi mắt ông đang nói rằng một con sói không hay cất tiếng gọi thân thiện như vậy.

Julie không trả lời. Cô ngắm kỹ cha mình.

Kapugen là một người đàn ông rắn chắc với tấm lưng vạm vỡ và đôi tay khỏe mạnh. Gương mặt ông rám nắng gió Bắc Cực, và hai bàn tay ông xạm đen vì sương giá. Tóc ông ngắn hơn so với cô còn nhớ, nhưng cằm ông vẫn nhẵn nhụi và nhổ sạch sẽ râu. Một bộ ria lờ mờ viền thẫm phần môi trên của ông. Ông ngồi duỗi thẳng hai chân trước mặt.

- Con sói biết con - ông chậm rãi nói vẻ trầm ngâm.

- Vâng - Julie trả lời.

Kapugen nhặt tấm da hải cẩu lên và cắt một sợi dây nữa. Julie đợi ông lên tiếng tiếp. Nhưng ông không nói. Ông liếc con dao của mình lần chót và đút nó vào bao ở thắt lưng. Chỉ bằng một động tác, ông đã đứng trên hai chân và dang tay ra. Cô nhảy xuống khỏi iglek và chạy Bố tới chỗ ông.

Sau một cái ôm an ủi rất dài, Kapugen nâng cằm Julie lên và chạm vào làn da láng mịn màu ô liu trên má cô.

- Bố rất vui con quay trở lại - ông nói. - Bố đã sợ rằng bố lại mất con lần thứ hai. Bố yêu con bằng cả vầng trăng sáng tròn đầy.

- Thế nhiều quá - cô bẽn lẽn nói.

Ông bắt chéo chân và buông mình ngồi xuống tấm da tuần lộc, rồi vỗ vỗ lên đó và mời Julie ngồi xuống. Julie nhìn thấy câu hỏi trên gương mặt ông. Cô đã trả lời rồi.

- Con phá bỏ hôn ước với con trai bạn của bố. - Giọng cô rất nhẹ.

- Nếu đàn ông và đàn bà - Kapugen nói bằng giọng trầm, bình thản - không yêu nhau thì họ chia tay thôi. Như thế mới phải.

Họ ngồi im lặng.

Julie nhận ra Kapugen muốn biết thêm nữa về quá khứ, nhưng ông không hỏi vì tôn trọng quyền riêng tư của cô. Cô phải kể với ông cho dù hồi ức của cô có đau đớn đến thế nào.

- Bố không biết con đã ở đâu vào cái hôm bà Martha đưa con rời khỏi bố để đi học ư? - Cô hỏi bằng giọng dịu dàng.

- Bố chỉ biết con đến Barrow khi con mười ba tuổi và đủ lớn để lấy chồng - ông trả lời, nhịp từng từ thật chậm. - Bố tình cờ gặp Nusan, mẹ chồng của con, ở thị trấn đó. Bà ấy nói con đã bỏ đi và chết rồi.

- Điều kinh khủng như thế mà bà ấy cũng nói ra được khi mà bà ấy thật sự không hề biết - Julie nói. - Con xin lỗi. Con sẽ cố gắng kể cho bố những gì đã xảy ra, - có lẽ không phải tất cả, - một vài việc vẫn còn quá buồn.

Julie kể với ông về cuộc sống không vui vẻ của cô ở Mekor-yok, thị trấn trên đảo Nunivak, những ngày của cô ở Barrow, cuộc hôn nhân của cô, và cô đã ghê sợ Daniel, gã chồng cáu kỉnh của cô, như thế nào. Cô nhớ lại những ngày tháng trên lãnh nguyên cùng đàn sói tử tế và con đầu đàn tốt bụng, Amaroq, nhưng cô không tài nào nói được rằng Kapugen đã giết chết nó. Lời nói không hình thành nổi.

Khi cô kể xong, Kapugen hạ ánh mắt xuống một lúc, rồi ngẩng lên nhìn cô. Mắt ông nói rằng ông yêu cô rất nhiều và ông rất biết ơn vì cô còn sống.

Julie vùi đầu vào vai ông, và ông ôm ghì cô vào lồng ngực vạm vỡ của mình. Trong lúc ông ôm cô, cô cảm thấy sự tha thứ dâng trào dọc sống lưng, ngập đến tim và óc cô. Kapugen, nói cho cùng, là trụ cột của gia đình và ngôi làng của ông. Những người Eskimo là trụ cột đều phải đi săn.

- Con mệt lắm - cuối cùng cô nói, hai vai cô trĩu xuống.

Kapugen gạt lọn tóc ở trán cô. Ông nhấc bổng cô lên bằng hai cánh tay mình, đem cô đến iglek, và đặt cô lên đó. Cô chìm trong lớp lông mềm, êm ái và kéo một tấm da gấu trùm lên mình.

- Bố rất mừng con đã về nhà, Miyax - ông nói, và hôn cô.

Cô mỉm cười nghe ông gọi cô bằng cái tên Eskimo. Như hầu hết những người Eskimo, Julie có hai cái tên, tiếng Anh và tiếng Eskimo - Julie Edwards và Miyax Kapugen. Nghe cha gọi cô là Miyax khiến cô cảm thấy gần gũi ông hơn, và cô quyết định cô sẽ để ông gọi cô như thế. Cái tên ấy gắn kết hai người với mẹ cô, người đã đặt tên ấy cho cô, và gắn kết họ với nhau. Với những người còn lại, cô sẽ là Julie.

Cô nhắm mắt lại và ngủ say.

⚝ ✽ ⚝

Chào anh, Kapugen. Chúc một buổi sáng tốt lành.

- Julie ngồi thẳng trên chiếc giường lông thú và nhìn quanh. Giọng đàn ông oang oang rổn rang, nhưng trong phòng chẳng có ai cả.

Kapugen bước ra khỏi phòng ngủ.

- Xin chào. - Ông nói với chiếc bộ đàm CB [1] lấp loáng trên giá sách. - Xin chào, Atik. Xin chào.

Julie nhận ra tên của người thợ săn cô đã gặp cùng vợ ông ấy, Uma, và đứa nhỏ trên dòng sông Avalik đóng băng. Ngạc nhiên vì nghe thấy tiếng ông ấy trong phòng, cô leo ra khỏi iglek và ngồi trên tấm da tuần lộc của Kapugen, nhìn chiếc bộ đàm và chăm chú lắng nghe.

- Chào anh, Malek - một giọng phụ nữ vang lên. - Xin chào.

- Chào chị, Marie. Chào chị.

Trong suốt gần một tiếng, dân làng Kangik thức giấc và chào hỏi nhau bằng bộ đàm CB. Giọng họ vui vẻ ngập tràn cái màn tối của buổi sáng không có ánh mặt trời.

Dì Ellen, vợ Kapugen, bước ra khỏi phòng ngủ và chào cô khi nhận thấy Julie đã thức giấc.

- Chào con, Miyax - dì nói.

- Julie - cô nói khẽ nhưng kiên quyết.

- Tùy con thôi - dì Ellen nói, và quay người để múc nước trà từ một bình nhựa khoảng ba mươi gallon [2] . Ở Kangik bị đóng băng, không hề có nước chảy.

Julie ngắm kỹ dì Ellen. Mái tóc đỏ nhạt của dì với những lọn trông rất lạ mắt thật kỳ dị đối với cô, cặp mắt xanh xám và hàng lông mi của dì ấy cùng vậy. Julie thấy mình chăm chú nhìn và đầy thắc mắc về người vợ mới của cha mình. Khi bữa sáng kết thúc, cô lại leo lên iglek và nhìn dì Ellen ngồi bên bàn. Dì viết vào một cuốn sổ, thỉnh thoảng ngước lên nhìn Julie như thể để hỏi xem cô có ổn không. Julie chẳng nói gì cả.

Rồi dì Ellen đọc sách. Đến giờ ăn trưa, thậm chí dì còn nấu ăn nhờ đọc một cuốn sách. Đầu giờ chiều, dì Ellen gọi điện cho mẹ dì ở Minnesota.

- Con chào mẹ - dì nói. - Con có một cô con gái.

Dì mỉm cười và liếc nhìn Julie.

- Vâng, cháu rất xinh - dì Ellen nói. - Da mịn màng và mắt hạt dẻ rất to. Tóc cháu đen và óng ả như gỗ mun đánh bóng vậy.

Bối rối, Julie hụp xuống mớ lông thú màu xám và nhòm vợ của cha mình qua cổ áo. Cô thắc mắc làm thế nào người phụ nữ này lại đi xa nhà đến vậy và tại sao dì ấy không quay về.

- Con muốn chào mẹ của dì không, Julie? - Dì Ellen hỏi.

Cô không trả lời. Julie biết tiếng Anh rất thạo. Nhất thời cô quên mất sau khi Amaroq bị giết, nhưng giờ cô hiểu từng từ được nói ra. Cô chỉ không cảm thấy muốn nói chuyện với dì Ellen.

Julie đã vô cùng thất vọng khi thấy cha mình cưới một người vợ từ thế giới bên ngoài. Với người Eskimo, có hai dạng dân - những người bên trong thế giới băng giá và những người bên ngoài. Dì Ellen không phải người bên trong. Dì đi lại và nói quá nhanh. Giọng dì đanh, và dì cười to chẳng khác gì lũ chim cướp biển.

Julie chậm rãi thích nghi với cuộc sống mới. Cô rửa bát đĩa, nấu cá và thịt tuần lộc cho dì Ellen. Cô nạo và chuẩn bị da để đem ra chợ, và đẽo băng đá ở ngoài sông rồi bỏ vào thùng chứa cho tan.

Cô đọc những cuốn sách của dì Ellen khi dì ra ngoài. Cô học tiếng Anh ở Nunivak rất xuất sắc. Cô đọc sách say sưa, háo hức tìm hiểu về thế giới bên ngoài. Thỉnh thoảng khi không có ai ở xung quanh, cô lại đi dọc con sông và lắng nghe tiếng đàn sói của mình. Có lần cô nghe tiếng Kapu, và ngó xung quanh xem Kapugen đã ra ngoài chưa, cô khum hai bàn tay và hú rồi sủa một tiếng cảnh báo. Kapu đáp lại bằng sự im lặng. Nó đã nhận được thông điệp.

Một hôm khi Julie đang nạo một tấm da hải cẩu còn nguyên lông dùng để làm ủng, một giọng nói rất mới vang lên qua bộ đàm CB.

- Xin chào, Kapugen. Chào chú.

- Xin chào, Peter Sugluk - Kapugen nói. - Cậu về rồi đấy à?

- Cháu về rồi - người kia nói. - Và cháu kiếm được hai cái áo len qivit [3] mà mẹ Marie nhờ cháu mang tới cho chú.

Julie nhớ Uma cho cô biết rằng phụ nữ ở Kangik đan áo len và khăn quàng từ lớp lông tơ ấm áp nhẹ như lông vũ của bò xạ. Bà ấy nói, Kapugen bán những món đồ vô cùng ấm áp này cho thương nhân ở Anchorage và Fairbanks với giá rất cao, hàng trăm đô la.

- Mời cậu - Kapugen nói, và quay sang Julie - Peter Sugluk là con nuôi cộng sự làm ăn của bố.

- Anh ấy nói bằng giọng rất lạ - Julie nói.

- Không lạ lắm đâu. Cậu ấy nói tiếng Yupik hệt chúng ta, không phải tiếng Inupiat như những người ở Barrow và Mũi Hy Vọng.

Tiếng Eskimo có hai nhánh. Yuk, hay Yupik, được nói ở tây nam Alaska và Siberia. Inuk, hay Inupiat, được nói ở khắp bắc Alaska, Canada, và Greenland. Julie học tiếng Yupik ở Nunivak và tiếng Inupiat ở Barrow. Mặc dù cô hiểu Peter vì anh nói tiếng Yupik, nhưng cô vẫn không tài nào xác định được giọng của anh. Cô thắc mắc không rõ anh từ đâu đến.

Chẳng mấy chốc, có tiếng gõ lên cánh cửa gian sảnh qanitchaq bên trong.

- Vào đi - Kapugen gọi, và Peter Sugluk bước vào gian buồng ấm áp.

- Chào chú, Kapugen - anh nói, và liếc nhìn Julie. - Hẳn em là Julie. Chào em.

Nụ cười của anh thân thiện và quyến rũ.

Julie nhìn lên một chàng trai Eskimo có gương mặt màu đồng. Anh ấy cao ráo. Mũi anh thẳng, lưỡng quyền cao, và đôi mắt như hai nửa vầng trăng sáng dưới đôi mày đen. Anh mặc chiếc áo chùng da tuần lộc bên trên chiếc quần dài bó bằng da. Đôi ủng maklak của anh bằng da gấu bắc cực, viền hình chó kéo xe bằng da dê màu đen và trắng. Những cái đuôi chồn ermine chót đen nhảy nhót dọc viền tay áo và đôi ủng khi anh di chuyển. Trông anh già dặn so với Julie, có lẽ mười tám hay mười chín nếu so với tuổi mười bốn sắp sang mười lăm của cô. Cô nhìn xuống tấm da hải cẩu của mình và quay lại công việc nạo da.

- Những gì người ta nói đúng thật - cô nghe thấy Peter nói. - Em xinh thật.

Julie vẫn tiếp tục làm việc. Cô không hề muốn nổi tiếng nhờ sắc đẹp, mà phải bằng trí tuệ và sự kiên cường của mình, những phẩm chất Eskimo. Cô không nhìn lên cho tới khi anh mở cửa và đi ra, nhưng cô nghĩ cô đã nhìn thấy anh rập một ngón chân và giơ bàn tay trong động tác nhảy biểu thị cho sự ăn mừng.

⚝ ✽ ⚝

Hai tuần trôi qua. Ban ngày chuyển sang màu ngọc lam khi trái đất nghiêng dần về phía mặt trời. Đến lúc quả cầu đỏ rực như máu xuất hiện phía chân trời vào ngày hai mươi hai tháng Một, Julie đã cảm thấy thoải mái ở ngôi nhà và ngôi làng mới của mình.

Một hôm khi dì Ellen đang dạy ở trường và bố Kapugen ngồi bên bàn nghiên cứu đống giấy tờ, cô tạm ngừng công việc và đứng trước mặt ông.

- Aapa - cô nói khẽ - con đã đi cả một thời gian dài trên lãnh nguyên và con đã tiến sâu vào một thế giới trong mơ với đàn sói. Giờ con đã tỉnh giấc. Con có thể giúp gì cho bố?

- Tốt lắm rồi - ông nói, nhìn lên cô. Nhận thấy cô chăm chú xem chỗ giấy tờ ông đang xử lý, ông bèn nói. - Những giấy tờ này là hồ sơ đàn bò xạ của nhà ta. Bác Malek, cậu Peter, và bố chăm sóc chúng cho ngân hàng ở Fairbanks. Ngân hàng cấp tiền cho công việc kinh doanh của chúng ta.

- Công việc kinh doanh?

- Giờ tất cả các làng Eskimo đều thành công ty rồi - Kapugen nói và đứng lên. - Không như người Mỹ da đỏ sống trong các khu bảo tồn dưới sự giám sát của chính phủ, chúng ta tự kinh doanh để sống. Người dân chúng ta nắm giữ cổ phần trong công ty làng và cùng chia lợi nhuận.

Những lời này không có ý nghĩa gì với Julie, nhưng dường như Kapugen nghĩ điều đó rất quan trọng nên cô vẫn nghe.

- Công ty Kangik Inupiat khá lớn nhé - ông nói, chỉ vào những con số trong cuốn sổ. - Chúng ta kinh doanh bò xạ, có một công ty xây dựng, một nhà kho, và một công ty phát điện. Chúng ta cũng có tiền nhờ dầu mỏ lấy từ phần đất của chúng ta.

Cô vẫn không có ý kiến gì, cho nên Kapugen đứng lên và nắm lấy tay cô.

- Miyax, con phải học cách đi săn.

- Con biết săn - cô trả lời. - Con có thể bẫy được chim ptarmigan [4] và thỏ chân tuyết.

- Con phải học bắn súng nữa - ông nói. - Chúng ta cần con. Kangik gần như là một ngôi làng bỏ hoang. Rất nhiều nhà không có người, thấy không. Tuần lộc đã hai năm rồi không quay trở lại chỗ chúng ta, và mọi người bị đói. Nhiều người đã phải chuyển đến Wainwright và Barrow.

- Thế thì tệ quá - Julie nói.

- Chúng ta đang gặp khó khăn - ông nói. - Tình hình vậy đấy.

Kapugen đi vào phòng ngủ. Ông trở ra cùng một khẩu súng trường.22 [5] và bẻ nòng súng mở ra.

- Thật sự ở Kangik khó khăn lắm ạ? - Julie hỏi. - Con đã gặp cô chú Uma và Atik bạn của bố phía dòng sông. Cô Uma nói rằng người làng Kangik kiếm được rất nhiều tiền nhờ đan qivit bò xạ thành găng tay và áo len. Cô ấy nói bố nuôi bò xạ để giúp làng; và rằng bố là một thủ lĩnh rất cừ.

- Uma nói vui thôi - Kapugen nói và mỉm cười. - Cô ấy được nuôi dạy để tôn sùng thủ lĩnh bất kể người đó làm gì.

- Con hiểu điều đó - Julie nói khẽ.

- Con rất hiểu, phải - ông nói, và nhìn chiếc mũ bảo hộ cùng cặp kính. - Con rất hiểu, phải - ông nhắc lại. Gương mặt Kapugen nói với Julie rằng cha cô giờ biết rằng con sói ông bắn từ trên máy bay là bạn của cô. Trông ông rất không vui.

- Lương thực ở Kangik rất khan hiếm - ông nói, vội vã thay đổi chủ đề.

- Bố không thể bay máy bay và kiếm thực phẩm của người gussak cho cả làng ư?

- Khi tuần lộc không trở lại, không thực phẩm nào của người da trắng có thể giúp chúng ta khỏe mạnh đâu.

- Cá thì sao? - Cô hỏi.

- Chúng ta cũng cần thịt và mỡ để sống sót qua mùa lạnh - ông đáp. - Và chẳng có thứ gì ngon bằng tuần lộc và cá voi.

Julie mỉm cười:

- Đúng thế ạ.

Kapugen nhét vài viên đạn vào khẩu.22 và bật chốt an toàn để khẩu súng không cướp cò. Ông đưa nó cho cô. Họ đi ra gian sảnh qanitchaq và mặc những quần áo ấm nhất. Kapugen nhấc khẩu súng săn gấu của mình. Ông choàng sợi dây đeo quanh cổ và cho khẩu súng yên vị trên lưng. Khi Julie mặc đồ xong, ông mở cửa. Khí lạnh hút hơi thở từ miệng họ và vả tuyết vào mặt họ.

Mặt trời vừa mọc, mặc dù đã mười giờ rồi. Ánh sáng màu sẫm soi tỏ đường võng chân trời trong khung cảnh dòng sông Avalik đóng băng, và xa hơn cái đĩa phẳng mênh mông kia là Vịnh Kuk. Nhưng với khu làng, tức là một nhóm vài căn nhà gỗ nhỏ bé dựng trên cọc gỗ để ngăn không làm tan lớp đất đóng băng vĩnh cửu, thì tất cả chỉ là lãnh nguyên trơ trụi.

Julie nhìn làng Kangik và nín thở. Ngôi làng, trông có vẻ đầy sức sống vào cái đêm đầu tiên cô nhìn thấy nó, thật mộc mạc và ảm đạm. Vài nhà đang đóng thùng để chờ xe gạt tuyết và xe tải chở đến những ngôi làng dọc bờ biển Bắc Cực. Nhiều nhà đã bị bưng kín bằng ván và bỏ không.

Có tiếng rù rù đều đều khiến cô chú ý.

- Cái gì vậy? - Julie hỏi. - Con thường nghe thấy tiếng này ban đêm.

- Máy phát điện đấy - Kapugen nói. - Nó chạy bằng khí đốt và tạo ra điện cho bộ đàm, lò sưởi và bóng đèn của chúng ta.

Tiếng máy phát kêu ầm ì, nghe như một con gấu đang ngủ, tạo cho ngôi làng lạnh lẽo, tĩnh mịch một kiểu đời sống rất lạ. Julie nghe thấy một âm thanh khác. Một tiếng chó sủa, một cánh cửa kẽo kẹt xoay trên bản lề, và một giọng nói vọng ra. Những âm thanh ấy bị cái lạnh dưới không độ nuốt chửng. Cô chăm chú lắng nghe hơn. Không hề có tiếng Kapu.

Kapugen ra hiệu cho cô theo ông, và họ đi bộ về phía đông trên lớp băng mặt sông trong ánh cực quang mờ mờ. Sau một quãng ngắn, cả hai cha con dừng lại và nhìn vầng dương soi sáng lớp tuyết màu lam-lục chẳng hề có cây cối.

- Con sẽ giống như dì Ellen, bố nghĩ vậy, phải - Kapugen nói sau một lúc.

Julie không đáp lời.

Họ cứ đi ngược dòng sông. Bước chân của họ giẫm nát băng thành tuyết vụn. Tuyết kêu lạo xạo như thủy tinh, bay cuộn lên, và nhẹ nhàng đáp xuống, tạo thành một lối mòn bột mịn đằng sau họ. Mặt trời dịch chuyển dọc đường chân trời suốt gần một giờ, và giờ nó đang lặn. Kapugen quay sang Julie.

- Chúng ta sẽ săn cáo - ông nói. - Có mấy con sống gần bãi quây bò xạ. Hãy nhìn những gì bố làm nhé. Bố học cách đi săn theo dấu ủng của ông nội con. Đó là cách tốt nhất.

Julie bước theo dấu ủng của ông và theo ông rời khỏi mặt sông băng đi ra lãnh nguyên. Màn sương băng xuất hiện lúc chiều tà bắt đầu dày lên.

Sau một quãng đi bộ ngắn, Kapugen mở một cánh cổng, và ông cùng Julie tiến vào một bãi quây gia súc rất rộng. Những hình thù trông như đá tảng đen thẫm lù lù trong màn sương lam. Mười một con bò xạ trợn mắt nhìn họ. Hơi thở bị đóng băng tạo thành những đám mây nhỏ lơ lửng phía trên đầu chúng.

Có tiếng sói hú. Julie cảnh giác nhìn Kapugen.

- Cuộc săn kết thúc rồi - ông nói. - Cáo sẽ trốn sạch khi có tiếng sói hú.

- Ee-lie, Kapu - Julie thì thầm với con sói - tránh đi, tránh xa, thật xa vào.

Kapugen và Julie đi bộ về nhà.

Sương băng xóa nhòa cảnh vật, Julie và Kapugen phải mất nhiều ngày mới có thể trở lại bãi quây gia súc để săn cáo. Họ đi bộ qua cả một dải thiên hà toàn những tinh thể băng lấp lánh lơ lửng trên lãnh nguyên tĩnh mịch. Kapugen dẫn đường, còn Julie bước theo dấu chân của ông.

Sau một quãng đi dài, Kapugen dừng lại. Ông chăm chú nhìn một đốm phía xa, và Julie nhìn theo ánh mắt ông. Một cái bóng xuất hiện rồi biến mất và lại xuất hiện như một ánh sao trên mặt nước.

- Nâng súng của con lên - Kapugen thì thào. - Khi con cáo ngừng di chuyển, đặt đầu ruồi phía trước vào rãnh ở khe ngắm sau. Tháo chốt an toàn và kéo cò thật chậm.

Julie bắn và trượt mục tiêu. Kapugen đi tới, ngoái đầu nhìn bên trái bên phải khi ông rà quét khung cảnh toàn tuyết trắng. Khẩu súng của ông lủng lẳng trên lưng song song với mặt đất; hai tay ông nắm chặt đặt phía sau. Ông chú ý đến những chuyển động khẽ khàng nhất và những âm thanh nhạt nhòa nhất. Kapugen đi săn như một con sói, và giống một con sói, ông biết khi nào có con mồi. Ông dừng lại trong bãi quây gia súc để kiểm tra đàn uminmak.

Khi ông quay về nhà, ông hất tuyết trở lại sau. Tuyết không dày lắm, gió đã bóc lớp tuyết lãnh nguyên mỏng để lộ ra cỏ và lách. Mùa này, lãnh nguyên Bắc Cực là ngôi nhà tuyệt hảo của giống bò xạ ăn cỏ được mặc quần áo chống rét. Mũi ủng maklak của Kapugen chạm phải một góc bạch dương cổ chỉ cao độ một gang tay. Ông cúi xuống. Xung quanh cái cây mọc lên những cây việt quất, mấy cây trà Labrador, và vài cây liễu lùn.

- Thức ăn ưa thích của uminmak - ông nói với Julie, rồi nhìn mấy cái cây chăm chú hơn. - Chúng đã bị ăn sát đến tận rễ. Bò cũng đang cạn kiệt thức ăn tự nhiên rồi.

- Cỏ phía ngoài hàng rào cao hơn - Julie nói. - Sao bố không thả rông chúng?

- Ở trong này chúng ta có thể dễ dàng gom qivit - Kapugen đáp. - Và như thế sói sẽ không giết được bò - ông thẳng thừng nói thêm.

Julie cảm thấy máu chạy khắp người cô. Cô nhắm mắt lại và khó nhọc nuốt khan.

- Chẳng mấy ngày nữa bố sẽ phải bay tới Barrow - Kapugen nói - để mua linh lăng viên cho uminmak. Chúng cần thêm thức ăn.

Ông đi tiếp. Julie lại bước theo dấu ủng của ông.

- Một bộ da cáo trắng - Kapugen ngoái lại nói với cô - có giá năm mươi đô la ở Fairbanks đấy.

- Năm mươi đô la - Julie nhắc lại với chính mình, và nhìn lại phía làng. Suốt bảy tháng qua, cô chẳng hề nghĩ về ai khác ngoài chính cô và đàn sói của mình. Suốt bảy tháng đằng đẵng cô hướng mọi suy nghĩ của mình vào trong theo hướng phải sống sót. Giờ đây, khi cô đi phía sau cha mình, cô biết đã đến lúc phải trở lại làm một người Eskimo, một người giúp đỡ cho gia đình và cộng đồng làng.

Cô sẽ không bắn trượt con cáo tiếp theo.

Julie không chỉ theo chân Kapugen, cô nhìn theo nơi ông nhìn, cô đánh hơi những làn gió mà ông đánh hơi. Khi ông dừng và nghe ngóng, cô cũng dừng và lắng nghe.

Một con ptarmigan vụt ra khỏi tuyết và biến mất phía sau đám mây băng nó tạo ra.

- Họ trả bao nhiêu cho một con ptarmigan ? - Cô hỏi.

- Mười đô la - Kapugen nói.

Cô nghĩ đến con gấu trắng to lớn mà cô đã thấy ở Barrow. Hẳn bộ da trắng muốt của nó rất có giá, nó có thể nuôi sống cả làng Kangik.

- Thế họ trả bao nhiêu cho nanuq ? - Cô hỏi át tiếng gió.

- Chẳng được gì - Kapugen trả lời. - Chỉ có người Eskimo mới bắt nanup , gấu trắng, và chúng ta không thể bán nó. Nó tự hiến cho chúng ta. Chúng ta dành nó cho người của mình. Luôn luôn như vậy.

Julie gật đầu.

Họ đến một ngôi nhà tạm có ba mặt trong bãi quây thả bò xạ. Tuyết đã chất đống cao ngất xung quanh cái cấu trúc vững chãi bằng gỗ dán nặng trịch. Nó được lợp bằng tôn múi.

- Đây là nơi chúng ta trữ cỏ khô và linh lăng viên cho uminmak - Kapugen nói. - Nó giữ cho thực phẩm khỏi bị vùi lấp dưới những đống tuyết.

Ông nhìn lên và mỉm cười. Julie cũng nhìn lên. Một con bò đực lẻ loi đang chạy về phía họ. Cô liếc nhìn cha mình. Kapugen chẳng có vẻ gì hốt hoảng, và chắc chắn rồi, khi con bò chỉ còn cách vài thước, nó dừng lại. Nó nhìn họ chăm chú. Từng mảng qivit kéo lê thành vệt từ vai nó.

Con bò rất to nhưng không quá cao. Nó chỉ cao đến ngực Kapugen. Những thớ cơ ở cái cổ to tướng của nó tạo thành một khối u trên lưng cao vượt đầu nó. Đuôi nó ngắn thun lủn, lông nó dài đến mức quét trên mặt đất như một cái váy. Chân nó như những con dao chặt to tướng. Một khối bướu sừng thù lù, đầu mút cong chĩa về phía trước, chạm nhau ở giữa trán nó như một chiếc mũ bảo hiểm. Con vật như khối đá tảng sừng sững trông chẳng khác gì những con voi ma mút lông lá của quá khứ. Nó khụt khịt.

- Một trong những loài động vật cổ cuối cùng đấy - Kapugen nói. - Người da trắng gọi nó là giống ức linh. Còn với người Eskimo thì nó là uminmak, loài vật sinh ra trong băng giá, gió rét và tuyết lạnh. - Kapugen chìa một nhánh việt quất cho con vật. - Đã từng có hàng triệu con uminmak ở bắc Alaska - ông nói tiếp. - Khi người Eskimo có súng, họ đã bắn hết sạch chúng. Sạch sành sanh. Chính phủ Hoa Kỳ cố gắng phục hồi chúng. Họ có ba mươi ba con non từ Greenland và thả chúng tại Nunivak năm 1930. Khi đàn đó đủ lớn, họ đưa một số con non tới Fairbanks và sau đó thả chúng tự do. Giờ chúng ta có một vài con hoang dã ở Dốc Bắc. Chính phủ giúp chúng ta đưa con đực và con non tới Kangik để gây dựng ngành công nghiệp qivit.

Con bò khụt khịt và gõ móng xuống mặt đất, rồi giụi đầu vào chân trước.

- Nó đang tức giận à? - Julie hỏi.

- Nó đang giụi một tuyến gần mắt nó vào chân. Mùi từ tuyến này cảnh báo cho đàn. Nó không phải là xạ hương, như người da trắng vẫn gọi thế. Nó có mùi sảng khoái và sạch, như tuyết vậy.

- Thế nó sợ gì vậy? - Julie hỏi.

- Nó đang là con mồi - Kapugen nói. - Nó lo ngại với tất cả; con, bố, súng ống của chúng ta, và cả các mùi trong gió nữa. - Kapugen đánh hơi và nheo mắt nhìn tuyết trắng lóa mắt. - Nó nói rằng gấu xám đã tỉnh giấc rồi.

- Gấu xám ư? - Julie hỏi.

- Con aklaq thức giấc hồi tuần trước trong một đợt ấm trời - ông nói. - Nó có hai con non độ một tuổi và chúng đều đói. Nó đang ở gần đàn bò xạ, phải - ông nói.

- Như thế không hay đâu. Cũng như sói vậy, gấu xám có thể giết chết uminmak. Uminmak nhỏ hơn gấu và không khôn ngoan lắm.

Kapugen khum tay đặt sau tai.

- Đàn bò đang tới - ông nói, và mỉm cười hãnh diện. Một đốm băng sáng lóe lên và những con bò xạ khác xuất hiện, di chuyển tuần tự như thể có gắn bánh xe và chẳng khác gì được gió đẩy đi. Chúng là một đội hình vững chãi và gắn kết. Những con vật chậm bước lại, ngập ngừng, và rồi xoay vòng tròn như một cơn lốc xoáy, dồn những con bê một tuổi và các con non vào trung tâm đàn để bảo vệ.

- Chúng đang báo động - Kapugen nói và nhìn quanh.

- Gấu à? - Julie hỏi, rất lo ông sẽ nói là sói.

- Bố không rõ - ông đáp.

Đàn bò khá gần, và Julie có thể nhận ra sự khác biệt giữa con đực và con cái. Những con cái nhỏ hơn, sừng của chúng không giao nhau trước trán, như sừng những con đực. Cả hai giống đều có mắt rất to lồi ra khỏi đầu đến vài phân. Với những cặp mắt này, chúng có thể nhìn sang hai bên, phía trước, phía sau và chúng có thể nhìn được trong bóng tối cũng như trong ánh sáng chói mắt của băng quang, uminmak là những sinh vật quen với bóng tối, mặt trời và cái lạnh ghê gớm.

Kapugen giả tiếng bò.

Một con cái rời khỏi đàn và tiến về phía ông. Nó ngập ngừng khi nhìn thấy Julie. Kapugen chậm rãi bước tới chỗ nó, phát ra những âm thanh nhẹ nhàng. Khi nó đủ gần, ông vươn tay và gãi gãi đầu nó.

- Đây là Siku, Miyax - ông nói. - Bố tìm thấy nó trên lãnh nguyên. Mẹ nó vừa bị một đàn sói giết chết. Siku đang cựa quậy trong bụng mẹ nó. Bố đã mổ bụng bò mẹ và nhấc con bò xạ nhỏ bé này đặt lên băng - lên siku ; rồi bố bọc nó vào một tấm da tuần lộc và đưa nó về nhà. Bố nuôi nó bằng bình, nó đã sống và cho bố ý tưởng nuôi bò xạ.

- Nuôi chúng có khó không ạ? - Julie hỏi.

- Không khó lắm - Kapugen trả lời. - Có thời, cách đây không lâu, khi tuần lộc khan hiếm, người làng Kangik, Wainwright, và Barrow đã nuôi tuần lộc. Bác Malek chính là một người chăn tuần lộc. Bố gặp bác ấy và kể với bác ấy ước mơ của bố. Bác ấy đến Kangik tham gia cùng bố. Bang Alaska cung cấp cho chúng ta thêm vài con bò để gộp cùng với Siku. Vừa hay chúng ta có được một đàn bò và thu gom qivit.

Julie chậm rãi vươn tay và chạm vào Siku. Đôi mắt to đảo theo cô, nhưng con bò không di chuyển.

- Siku - ông nói, cười và xoa mạnh đầu nó. - Mày đã khởi đầu cho tất cả.

Con bò khụt khịt và quay lại đàn. Đàn uminmak bỏ đội hình vòng tròn pháo đài và gặm cỏ.

- Bố có bao nhiêu con bò xạ, Aapa ? - Julie hỏi.

- Bốn con đực và bảy con cái cùng bê một tuổi. Không nhiều, nhưng đàn đang phát triển. Vào tháng Năm hoặc Sáu sẽ có thêm bốn con non nếu như sói không ăn thịt chúng. - Ông nhìn thẳng vào mắt cô.

Julie không nói. Cô đang nghĩ đến cái ngày trên lãnh nguyên khi một chiếc máy bay lao ra khỏi màn sương mù, và với tiếng súng nổ, giết chết Amaroq, thủ lĩnh thông minh và tốt bụng của đàn sói.

Cô quay đi khỏi ánh mắt của Kapugen. Ông đang nói với cô ông đã giết con sói để bảo vệ bò xạ. Ông đang nghĩ đến những người của mình, ánh mắt ông nói vậy, và ánh mắt ấy nói thêm rằng ông sẽ lại làm vậy nếu ông phải làm.

Julie thấy sợ cho Kapu và đàn của nó. Đàn tuần lộc ở đâu thì cô đều rất hy vọng rằng đàn sói của cô sẽ ở đó.

Mặt trời đã mọc được hai tiếng và giờ đang chìm xuống phía sau đường chân trời mù mịt sương băng. Nó rực lên một màu đỏ chói chang, rồi biến mất. Buổi chạng vạng kéo dài của miền cực bao trùm lên đỉnh của thế giới khi Julie và Kapugen quay về nhà. Trong quãng thời gian ngắn ngủi đi bộ về làng, nhiệt độ giảm đến mười độ. Gió mạnh dần. Kapugen kéo một ít lông tơ từ phần cổ áo trùm parka, thấm ướt, và dựng đứng lên trong gió mạnh. Chiếc cổ áo uốn cong và đông cứng thành một lưỡi liềm cong.

- Gió thổi từ hướng tây - ông nói. - Ngày mai sẽ rất êm ả và quang đãng.

Ông đẩy cặp kính râm của mình ra sau và nhìn lên bầu trời.

- Nếu gió không đổi đêm nay, ngày mai bố sẽ bay đi Barrow.

- Để kiếm thức ăn cho uminmak ạ?

- Nếu bố có thời gian. Ngày mai bố phải đưa dì đi gặp bác sĩ.

- Dì Ellen ốm ạ? - Cô hỏi đầy quan tâm.

- Dì đang có bầu - Kapugen đáp, và cười tươi, hàm răng của ông sáng trắng ngay cả trong buổi chạng vạng tối tăm.

Có bầu, Julie nghĩ. Một em bé sắp chào đời. Cô vừa vui vừa không vui. Ý nghĩ về một em bé gợi lên những cảm giác ấm áp trong cô, nhưng cô cũng biết mình tìm thấy cha chỉ để lại mất ông lần nữa. Cô đi bên cạnh trong im lặng. Những tiếng sủa xa xa vang lên trong buổi nhá nhem tím thẫm.

- Chó - Julie nói. - Con thường nghe thấy chúng sủa. Là chó của bố à?

- Bố có cả một đàn - ông nói.

- Nhưng bố có xe máy trượt tuyết mà - Julie nói. - Bố đâu cần đến cả đàn chó.

- Bố có xe máy trượt tuyết - ông trả lời. - Nhưng bố yêu chó.

- Con cũng yêu chó - cô nói, nghĩ đến những con vật tuyệt vời là hậu duệ của chó sói.

Ở phía bắc thị trấn, họ đến một gian lều Quonset [6] lớn. Lều hướng về phía bình nguyên lộng gió bằng phẳng được che chắn bằng một tấm dài toàn những sợi xích sắt.

- Lều máy bay - Kapugen nói, chỉ về phía nhà để máy bay. Đây là nơi đặt chiếc máy bay của cha cô. - Đường băng máy bay - ông nói thêm, ra hiệu về phía đường băng bằng thép tầm đục lỗ. - Bố phải kiểm tra máy bay chuẩn bị cho ngày mai. Con có muốn xem không?

Cô thật sự không muốn. Cô không muốn thấy cái máy bay đã bắn đi những phát đạn chết chóc - không hề. Cô vẫn cảm nhận được nỗi đau về cái chết của Amaroq. Bên trong cái lều iglu đó là đôi cánh của một người cha mà cô không hề biết.

Cô tháo găng và thò tay vào túi. Ở đó cô vẫn giữ totem của Amaroq mà cô đẽo để giữ gìn linh hồn nó sau khi nó chết. Cô nắm chặt totem và cảm thấy thoải mái hơn.

- Vào chứ? - Kapugen hỏi.

- Con vẫn đang đi săn - cô nói. - Một con ptarmigan sẽ mang lại mười đô la và bố có thể mua thức ăn cho Siku.

- Trong đó bố có một kho báu cho con - ông nói, cười rất tươi chỉ về phía lều Quonset. Julie lùi lại. Cô không muốn nhìn cái máy bay đó. - Bố có chồn ermine - ông nói, chìa tay nắm tay cô. - Những con chồn trắng lốp tuyệt đẹp. Chúng dành để cho con làm gì đó hợp với con. - Mắt ông nói lên tình yêu thương của ông dành cho cô. - Đi xem chúng nào. Chúng ở trong một cái thùng ngay cửa. Bố định bán cho tay buôn da lông thú ở Fairbanks, nhưng khi con quay về nhà, bố muốn đem chúng bọc quanh người con. Chúng là của con.

Kapugen mở một cánh cửa nhỏ trên cánh cửa to của lều Quonset và giữ yên cho Julie.

- Con phải học cách đi săn - cô nói, lui bước. - Con sẽ mang về cho bố một con cáo hoặc một con ptarmigan. Sau đó con sẽ tới xem kho báu của con.

Cô mỉm cười và vòng ra góc lều Quonset. Kapugen đi vào bên trong và đóng cửa lại.

Một con sói tru lên.

Julie nhắm mắt lại và ước rằng ngày mai sẽ quang đãng và không có gió để cái con chim sắt đưa bố Kapugen và dì Ellen tới Barrow. Một ngày ở một mình sẽ cho cô cơ hội gọi đàn sói của mình và bảo chúng tránh xa khỏi người thợ săn sẽ bảo vệ đàn bò của mình bằng mọi giá.

⚝ ✽ ⚝

Một tiếng trước khi Kapugen lên đường đi Barrow, gió thay đổi.

Mây tối sầm bầu trời phía trên làng Kangik, và Kapugen thay đổi kế hoạch.

- Hôm nay chúng ta sẽ ở nhà - ông nói, nhìn ra ngoài cửa sổ khi một trận gió lốc thổi tuyết trắng xóa cả thị trấn.

Kế hoạch của Julie cũng thay đổi. Cô không thể cảnh báo cho Kapu. Cô nằm bẹp trên chiếc iglek và nghĩ về đàn sói của mình. Chúng sẽ thu mình lại trong những đụn tuyết, mũi rúc vào đuôi, chân thu lại dưới mình. Chẳng mấy chốc chúng sẽ trắng như tuyết. Cô mỉm cười. Hôm nay chúng sẽ không săn đuổi bò xạ.

Julie nhặt chiếc áo trùm parka mà cô khâu để thay cho chiếc áo cũ của mình và bắt đầu một đường khâu nối. Cô sẽ lót áo bằng lông tuần lộc, lớp lót tốt nhất. Khi xong, cô có thể ra ngoài trong nhiệt độ âm năm mươi độ và ấm áp chẳng kém gì đàn sói của mình.

Dì Ellen, vốn đã ăn mặc sẵn sàng cho chuyến đi tới Barrow, đã thay lại qaliguuraq, bộ váy Eskimo dài có những diềm xếp nếp sâu ở hai bên. Rồi dì bật bộ đàm CB.

- Các bạn nhỏ ở Kangik - cô nói bằng giọng Mỹ lanh lảnh. - Hôm nay vẫn có buổi học. Các con có nghe thấy cô không, Roy, Ernie, Edna, Benjamin, Larry? Hôm nay sẽ vẫn đi học nhé. Hết.

Dì bật công tắc nhận.

- Chào cô, cô Ellen, chào cô ạ - một giọng trẻ con vang lên. - Con nghe cô rất to và rõ ạ. Hôm nay đi học. Hết ạ.

Giọng thằng bé nghe rất sung sướng.

Dì Ellen với lấy túi sách vở và mở cửa sang gian sảnh qanitchaq. Khi dì đi qua iglek, lần đầu tiên Julie mới chú ý đến vóc dáng dì. Bụng dì tròn vo phình lên dưới chiếc váy qaliguuraq. Julie thắc mắc liệu em bé sẽ có mái tóc đỏ hay không.

Ra đến cửa, dì Ellen ngập ngừng và quay sang Kapugen.

- Anh Kapugen - dì nói, nhìn Julie - anh có thể hỏi xem Julie có muốn đến trường cùng em hôm nay không? Con bé không hiểu tiếng Anh. Làm ơn nói với con bé em rất vui được đi cùng con.

- Miyax - ông nhẹ nhàng nói - minuaqtugvik ?

Julie lắc đầu để trả lời không.

Đôi mắt xám nhạt của dì Ellen ánh lên. Dì đề nghị bố Kapugen cứ kiên nhẫn. Ông mỉm cười và dịu dàng hôn lên má dì, nhưng không bắt Julie phải tuân lệnh.

Dì Ellen nhún vai. Khi dì mở cửa ngoài, gió xộc vào, khua cánh cửa trong kêu lạch cạch; rồi dì Ellen đi. Julie và Kapugen ngồi lại trong im lặng. Kapugen nhặt một cuốn sổ bên trong ông ghi những món đồ mà người làng nhờ ông bán ở Fairbanks. Ông mở sổ và chậm rãi đóng lại.

- Ta đi câu đi, Miyax - ông nói. - Chúng ta có thể câu cá trong bão mà. Nhà ta cần thêm cá cho đàn chó và cả dân làng nữa.

Julie tuột xuống sàn.

- Con thích việc đó - cô nói.

- Khi ta có nhiều lqaluk - Kapugen nói - chúng ta sẽ cất giữ trong hầm thú săn của bố.

Julie gật đầu. Những cái hầm đào sâu trong lớp đất đóng băng vĩnh cửu giữ cho cá và thú săn đông cứng cả mùa đông lẫn mùa hè.

- Khi nào bố con ta xong - ông nói tiếp - con sẽ đưa đàn chó đến trại vịt tập chạy chứ? Chúng cần luyện tập.

- Con thích làm việc đó - Julie nói, cố gắng không tỏ ra quá háo hức. Đây là cơ hội để ra ngoài lãnh nguyên và hú-sủa cảnh báo cho đàn sói của cô tránh đi.

- Bố sẽ câu cá cùng con cho tới buổi trưa - Kapugen nói khi cô chuẩn bị. - Sau đó bố sẽ phải về. Bố đang đợi một cuộc gọi vào buổi trưa từ Chủ tịch Ban giám đốc Công ty Kangik Inupiat.

- Làm sao con tìm được trại vịt? - Julie hỏi. Cô chẳng màng tới cái chức danh quyền uy nghe có vẻ cao xa có khả năng kéo cha cô ngừng câu cá để về nhà.

- Đàn chó biết đường mà - ông nói. - Con chó đen-trắng có lông mày trắng là CB, chó đầu đàn. Nó sẽ đưa con tới đó và quay về.

- Thế thì tốt quá - Julie nói, và mặc áo trùm parka ấm áp rồi đi ủng.

Trong màn tuyết rơi yên tĩnh, Kapugen và Julie mang lưới đánh cá và dao đẽo băng ra mặt sông băng. Kapugen dùng con dao chuyên dụng của đàn ông cắt các khối tuyết và chất thành một bức tường chắn gió. Rồi ông mở vài cái hố trên lớp băng dày - chúng đã bị đóng băng kín kể từ lần sử dụng trước đó. Ông buộc chắc một đầu tấm lưới mang cá [7] bên trên băng, rồi thả lưới vào một hố. Ông đi tới hố tiếp theo, khua một cây sào dài có móc vào bên trong, móc tấm lưới và kéo lên. Ông buộc chắc một bên lưới vào một cây cọc và lại thả lưới xuống. Miệng tự ư ử, ông đi từ hố này sang hố khác. Loáng cái ông đã tới hố cuối cùng và buộc chắc đoạn cuối lưới vào một cây cọc khác. Rồi ông quay trở lại dọc theo đường đó và nhổ hết các cọc trừ cái đầu tiên và cuối cùng. Tấm lưới buông căng bên dưới băng.

- Ông nội bố dạy bố cách thả lưới - ông nói. - Và bố của ông lại dạy ông. Truyền lại tới con của con, Miyax ạ. Đó là một cách rất tốt, phải.

- Con sẽ làm vậy, Aapa - cô nói. - Con sẽ làm.

Kapugen trải tấm da tuần lộc và họ ngồi trong nhà tạm ẩn làm bằng những khối tuyết ngắm mây, dòng sông trắng xóa và cả vùng đất.

Đợi một lúc lâu Kapugen lắc nhẹ tấm lưới và cảm thấy có cá. Ông cùng Julie kéo lưới qua hố đầu tiên, rộng hơn những hố còn lại. Khoảng sáu mươi con cá bạc nhảy tưng tưng trên băng. Kapugen gỡ chúng khỏi lưới bằng tay trần và nhét cả vào một chiếc túi dây bện. Julie kéo túi vào hầm băng và thả xuống đó. Họ cùng bố trí lại lưới và ngồi trên tấm da tuần lộc. Với số que cành họ mang theo từ nhà, Kapugen nhóm một đống lửa nhỏ. Những bức tường trắng phản chiếu lại sức nóng của ngọn lửa, và chẳng mấy chốc họ đều thấy ấm hẳn. Julie lấy ra một ít thịt tuần lộc khô và một miếng maktak [8] cá voi đông cứng. Họ im lặng cùng ăn; nhìn tuyết rơi quanh mình.

Họ chuyện phiếm lúc đợi kéo thêm cá ra khỏi vùng nước tối dưới băng. Mùi hơi của cha mà cô còn nhớ thấm vào Julie, và cô thấy hoàn toàn hài lòng. Kapugen pha cho mỗi người một tách trà, và dường như giữa họ chưa bao giờ có nhiều năm dài chia xa.

Tuyết rơi nhẹ dần cho tới khi chỉ còn những chớp băng nhỏ xíu lơ lửng trong không khí. Ngay trước buổi trưa Kapugen quay về nhà để đợi cuộc điện thoại. Julie kéo thêm vài mẻ cá nữa và sau đó đi đóng cương cho đàn chó.

Cô tìm thấy sáu con chó kéo xe malamute Alaska của bố Kapugen đằng sau lều Quonset. Chúng nhiệt thành chào đón cô, rồi bật lên những tiếng sủa phấn khích khi cô lấy một bộ cương khỏi chiếc móc phía sau nhà để máy bay. Chúng biết chúng sắp được chạy. Mỗi con chó đều có tên ghi trên dây cương và cổ. Cô học thuộc tên chúng trước khi kéo xe trượt ra chỗ trống và buộc vào dây kéo. Cô căng dây kéo trên mặt tuyết, tìm cương của CB, và buộc vào nó. Tiếp đến cô cài bộ thắng trên xe trượt. Mỗi con chó mà cô đóng cương đều nhảy nhót và kéo dây cho tới khi cô thôi nói chuyện với chúng bằng tiếng Yupik mà nói với chúng bằng tiếng sói. Cô đóng rọ mõm chúng để cho chúng biết cô mới là người có quyền. Chúng nhìn cô vẻ tò mò và đứng yên. Cô phải quát con chó có tên Minnesota, mà cô đoán là con chó của dì Ellen. Khi việc đó không hiệu quả, cô gầm gừ với nó và nhe răng ra. Minnesota lảng đi và thôi táp CB.

Julie ôm một con chó hiền lành, con Snowbird, rồi buộc vòng cổ nó vào dây kéo chính. Nó ư ử tỏ ý thân thiện. Khi tất cả đều được đóng cương nhưng cô chưa kịp bước lên vành trượt ở phía sau xe trượt, thì CB thình lình vọt về phía trước rất khỏe, nó kéo tung bộ thắng văng ra tuyết. Cả đàn ồ ra.

Julie chạy theo, túm lấy xe trượt, và nhảy lên xe, ném toàn bộ trọng lượng của mình lên bộ thắng, đạp cái ngạnh gỗ dài sâu xuống tuyết. Cả đàn dừng lại. Cô đi tới chỗ CB, hai tay vươn ra để làm cho cô trông to lớn và đầy sức hăm dọa. Cô áp miệng lên rọ mõm của nó, rồi nhìn thẳng vào mắt nó.

- Tao mới là chủ - cô nói. CB cúp đuôi và tai vẻ khuất phục, rồi liếm mặt cô. Cô cười, xoa tai nó, và chậm rãi đi đến phía sau xe trượt, sẵn sàng gầm gừ nếu CB nhúc nhích. Khi cô đi qua, các thành viên của đàn đều vẫy đuôi và ư ử với cô.

- Tớ cũng yêu các cậu - Julie nói, thấy hạnh phúc khi được nói chuyện với những người anh em họ này của đàn sói.

Khi cô đến đoạn cuối dây kéo, cô chậm rãi bước lên vành trượt lần nữa. CB và đàn của nó đều tôn trọng đợi lệnh. Julie kéo bộ thắng ra khỏi tuyết nhưng chưa ra mệnh lệnh đi. Đàn chó nhìn lại cô để xem có chuyện gì. Cô đứng thật cao, đầu ở tư thế uy quyền của Amaroq, con sói đã dẫn dắt bầy đàn của nó bằng thứ ngôn ngữ quyền lực im lặng này. Đàn chó nhìn và ve vẩy đuôi. Cô cười.

- Hut - cô cất tiếng, và cả đàn khởi hành.

Cô cho chúng dừng lại chỗ chiếc xuồng màu xanh của bố Kapugen để bảo đảm cô vẫn nắm quyền điều khiển. CB lại đột ngột xô tới trước. Julie gầm gừ. Nó nhìn lại cô, mỉm cười với cái miệng há ra, và vẫy đuôi một lần. Nó đang nói rằng nó xin lỗi vì đã đùa bỡn cô.

Kapugen, lúc này đang đứng nhìn qua cửa sổ, thấy Julie và đàn chó đang nói chuyện. Ông cười tươi sung sướng. Tinh thần của thế giới hoang dã sống trong con gái ông.

- Hut - Julie lên tiếng, và CB cùng đàn lại bắt đầu chạy. Chẳng mấy chốc chúng đã bỏ làng Kangik phía sau.

Qua những đốm tuyết Julie quét mắt dọc đường chân trời tìm đàn sói của mình. Cô dừng lại chỗ cổng bãi quây gia súc để xem liệu chúng có ở đó không. Tuyết đã phủ kín những dấu chân hằn sâu của đàn bò. Dấu chân ăn nông của đàn sói cũng bị lấp kín.

- Hutl - Cô lên tiếng, và chiếc xe trượt giật mạnh về phía trước. Minnesota kéo về bên trái và chiếc xe chao nghiêng. Julie sắp ngã nhào thì CB giật về bên phải và chiếc xe hạ trở lại đều trên cả hai vành trượt. Chăm chú với công việc, nó dẫn đầu với bước chạy phù hợp cho một chuyến đi dài. Khi xe trượt lặng lẽ lướt ra lãnh nguyên bằng phẳng, Minnesota nhìn xéo lại Julie.

- Ha - Julie quát to với nó - tao vẫn ở đây. Mày không hất tao ngã được đâu.

Cô cười, Minnesota duỗi thẳng đuôi để nói rằng nó rất thất vọng, và CB tiếp tục dẫn đầu, giờ chăm chú lắng nghe hiệu lệnh của Julie. Cô không cần phải ra lệnh nữa. Con chó thính nhạy cứ theo lối mòn mặc dù lối ấy đã bị vùi dưới tuyết.

Đi thêm năm dặm, CB kéo Julie và xe trượt vào trại vịt. Nó dừng lại trước một cụm lều nhỏ chỗ một khúc cong của sông Avalik. Chúng gần như đã bị tuyết bay phủ kín.

Julie tháo đôi giày đạp tuyết trên xe trượt, đi vào chân, và lạch bạch đi tới một túp lều để tìm kiếm dấu đàn sói.

- Grrf. - Cô cứng người. Con gấu xám aklaq xuất hiện ngay góc và khụt khịt cảnh báo. Lóng ngóng trong đôi giày đạp tuyết, Julie chạy theo lối ngược lại khuất sau lều. Con gấu dừng lại và tìm kiếm cô. Julie cũng dừng lại. Giờ cô có túp lều ở giữa con gấu và xe trượt. Thò tay vào túi tìm một ít maktak chưa ăn, cô ném mạnh qua lều và chạy nhanh tới chỗ xe trượt.

Con gấu dừng lại và nghiến ngấu miếng mỡ cá voi.

- Hut! - Julie hô, túm chặt lấy những sợi dây của xe kéo. Đàn chó không cần đến mệnh lệnh thứ hai.

Chúng đã ngửi thấy mùi gấu xám. Chúng chạy. Julie tung mình lên xe trượt, tháo giày đạp tuyết, và leo lên tấm ván hậu để đứng hẳn trên vành trượt. Cô và đàn chó chạy khỏi con gấu được một phần tư dặm thì cô cho chúng dừng và nhìn lại phía sau. Không còn để tâm đến Julie nữa, con aklaq đang đào bới tuyết để tìm thêm maktak. Rất hài lòng, Julie cho đàn chó chạy tiếp.

- Dừng lại - Julie hô trước khi đàn chó chạy được thêm một phần tư dặm nữa. Chúng tuân lệnh, nhưng CB nhìn lại cô như thể nói cô mất trí mới dừng lại khi mùi gấu xám vẫn còn đẫm trong gió.

Julie đã nhìn thấy hai con gấu con một tuổi. Chúng đang đào bới gần một cái hang trên bờ sông Avalik. Kapugen nói đúng: Con gấu mẹ thức giấc sớm, có lẽ vì các con nó đói. Điều này không hay. Con amaq đói có thể dễ dàng phá đổ hàng rào bãi quây gia súc và bắt một con bò xạ.

Julie lại cho đàn chó chạy, hô “Haw” (trái) ngay khi chúng di chuyển.

CB không để ý. Nó chạy thẳng về phía trước. Nó không muốn quay lại chỗ lũ gấu.

- Haw - Julie hô thật lớn. Cuối cùng CB cũng kéo sang trái. Hai con chó đi đầu kéo sang phải. Chiếc xe lảo đảo và chao nghiêng.

- Haw - Julie gầm gừ. Cả đàn đi sang trái, nhưng quá trễ. Xe nghiêng đi.

- Gee - Julie hô, và đàn chó, dây kéo, cùng chiếc xe thăng bằng lại và di chuyển ổn định. Đến lúc này, họ đã ở cách xa mấy con gấu con to lớn, và CB giữ đúng lộ trình Julie đã ra lệnh cho nó, tiến về phía bắc lãnh nguyên.

Họ đang di chuyển rất ngon lành thì Minnesota gầm gừ với bạn nó, Snowbird, rồi nhảy xổ lên cổ nó. Julie hú lên một hiệu lệnh của sói. Chúng ngừng đánh nhau.

CB dẫn cả đàn vượt khung cảnh tuyết trắng suốt gần một giờ trong khi Julie quét nhìn khắp các gò và dốc băng để tìm đàn sói. Không nhìn thấy Kapu và đàn của nó ở đâu cả, không thấy bất kỳ con cáo hay con sói nào. Julie thấy rõ rằng nguồn thức ăn duy nhất cho sói ở khu vực mênh mông này là bò xạ.

Một con quạ bay trên đầu. Julie cho dừng đàn chó để quan sát sinh vật đưa tin này của lãnh nguyên. Đàn chó nằm xuống thở hổn hển, mặc dù nhiệt độ âm mười độ.

Chúng cạp tuyết để dịu bớt cơn khát.

Quạ, theo Julie biết, là loài đầu tiên tìm thấy con mồi đã bị sói hạ và chia sẻ bữa tiệc với chúng. Những thợ săn Eskimo biết câu chuyện này và cứ theo những con chim đen to lớn này để tìm chó sói. Julie đoán con chim đang bay này có thể nhìn thấy trong vòng mười lăm dặm ở mọi phía. Vì nó đang lượn vòng tròn và vỗ cánh nên chắc hẳn nó chưa nhìn thấy con mồi của sói; nó sẽ bay thành một đường thẳng tới chỗ thức ăn. Con quạ vỗ cánh và nhào xuống, có nghĩa là nó đang săn lữ thử [9] . Julie thấy thất vọng. Ít nhất trong vòng mười lăm dặm ở mọi phía không hề có chó sói. Cô quay lại.

Có tiếng gầm gừ vọng đến tai cô từ phía một trảng tuyết và một chiếc xe máy trượt tuyết xuất hiện. Cô vẫy tay.

Người lái xe cho xe dừng lại bên cạnh xe trượt của Julie, nhưng phải cho tới khi người đàn ông đẩy cặp kính râm đi tuyết của mình ra sau thì cô mới nhận ra Atik.

- Thời tiết đẹp rồi - cô nói. - Chú đi săn à?

- Chú đang tìm kiếm tuần lộc - ông ấy nói. - Giờ lẽ ra những con cái đang tìm tới Kangik. Chúng đi trước những con đực. Chúng sẽ đẻ con trên lãnh nguyên vào tháng Năm.

- Chú có tìm được con nào không? - Cô háo hức hỏi.

- Không hề thấy tuần lộc từ Kangik tới Anaktu-vuk, cách nhau hơn hai trăm dặm - ông ấy nói. - Chú vừa nói chuyện với David Bradford, chủ cửa hàng Cá và Thú săn Alaska. Ông ấy nói với chú như vậy. Ông ấy cho trực thăng hạ xuống gần chú. Ông ấy nói ông ấy nghe thấy tín hiệu của một chiếc vòng cổ vô tuyến mà ông ấy đã đeo lên đàn nai sừng tấm để biết nơi chúng di chuyển.

- Thế nai sừng tấm ở đâu ạ? - Julie hỏi với vẻ phấn khích.

- Không hề có nai sừng tấm - ông ấy đáp. - Cái vòng cổ đã rớt. Ông ấy tìm thấy nó trên mặt đất. Thỉnh thoảng việc đó vẫn xảy ra, ông ấy nói vậy.

Julie quét nhìn đường chân trời mờ mịt.

- Chú có nghĩ tuần lộc sẽ về Kangik năm nay không