← Quay lại trang sách

PHẦN II SÓI NON AMY

JULIE CẢM THẤY MẤT PHƯƠNG HƯỚNG NHƯ HỒI cô ở trong trận báo tuyết mù mịt. Cô đứng bất động nghĩ về những gì Kapu đã làm. Những người chơi trống đã cất trống đi, thức ăn thừa đang được mang về nhà, và đám trẻ con buồn ngủ được bê vào giường. Bố Kapugen và dì Ellen đang dạy Benjamin, Roy, và bé Edna Ulugak những động tác chân và tay của vũ điệu tuần lộc, nhưng Julie chẳng hề nhìn thấy gì. Cô chỉ nhìn thấy số phận kinh khủng cho đàn sói của cô.

Cô thậm chí không nhìn thấy Peter, vẫn đang đi lùi phía sau và theo dõi cô. Trong ánh nắng lờ mờ lúc một giờ sáng, trông anh như thể được đúc bằng đồng vàng.

Julie bước tới chỗ chiếc xuồng vừa cứu được của Kapugen và ngồi xuống. Cô trân trân nhìn dòng sông đang nổi sóng. Nước đã yếu bớt, nhưng những tảng băng khổng lồ vẫn trồi lên, vỡ bung, chìm xuống và lại trồi lên tít phía dưới dòng. Tiếng gầm gừ của mùa băng vỡ thật dễ chịu. Đó là bức tường âm thanh ngăn cô với cuộc vui giờ đã ngủ say của làng Kangik. Cô có thể tập trung vào những việc cần làm cho đàn sói của mình.

Chắc giờ Kapu đã có con, cô nghĩ. Nó sẽ không đi xa chúng, và vì thế cô lập một kế hoạch.

Tâm trí cô lọt vào tiếng loẹt xoẹt từ máy bộ đàm CB của Kapugen.

- Căn cứ Cáo Trắng - cô nghe thấy vậy. - Đây là Căn cứ Cứu hộ Wainwright. Anh hiểu tôi chứ, Kapugen? Hết.

Julie im lặng ngồi nghĩ về Kapu. Cuộc gọi được lặp lại thì cô mới lắc đầu và vội vã đi vào nhà. Cô bật CB.

- Căn cứ Cứu hộ Wainwright, tôi nhận rồi. Kapugen không ở đây. Hết.

- Căn cứ Cáo Trắng. Đây là cuộc gọi tìm kiếm và cứu nạn. Khẩn cấp. Khẩn cấp. Cô tìm ông ấy được không? Hết.

- Tôi sẽ gọi ông ấy. Tôi ra ngoài.

Kapugen là thành viên Đội Tìm kiếm Cứu nạn Dốc Bắc. Người ta cần ông. Julie chạy đi.

Cô tìm thấy bố Kapugen, dì Ellen, và cô Uma đang nhảy trong ánh nắng gần nhà thờ. Bọn trẻ con đã đi, và cô Uma đang hướng dẫn dì Ellen cách di chuyển bàn chân để biểu diễn một điệp khúc đặc biệt trong điệu nhảy của nữ. Dì Ellen làm theo bước chân của cô ấy hết sức điệu nghệ. Julie chạy tới chỗ bố Kapugen.

- Aapa - cô nói. - Đội Tìm kiếm Cứu nạn cần bố.

Kapugen ngừng nhảy và nắm lấy tay dì Ellen, vội vã cùng dì về nhà. Julie chậm rãi theo sau, ngẫm nghĩ những lời nói với bố Kapugen về Kapu và con bò xạ.

Khi cô vào nhà, bố Kapugen đang mặc chiếc áo bay của ông.

- Tin không hay - ông nói. - Một luật sư cùng vợ anh ta từ Barrow đến bị lạc ngoài biển. Trước khi có bão, họ lên xuồng ra khơi đến Vịnh Kuk. Kể từ đó không có tin gì của họ. Bố sẽ bay ra để xem có tìm được họ không.

Ông bước đến máy CB và bật lên.

- Anh Malek - ông nói vào loa - Kapugen đây. Anh nghe tôi nói không?

Ngừng một lúc.

- Tôi nghe rồi, Kapugen, nhưng không rõ lắm. Tôi đang ngủ. Hết.

- Tỉnh táo đi, phi công phụ của tôi - ông nói - và gặp tôi ở lều Quonset. Hai người mất tích ngoài biển. Đi đây.

Ông tắt bộ đàm, hôn dì Ellen, và vỗ má Julie.

- Bố sẽ về - ông nói.

- Aapa. - Julie chạy ra cửa cùng ông. - Con có chuyện phải nói với bố.

- Để sau, để sau - ông nói, và lao vào ánh nắng màu đồng của những giờ khắc còn lại trong ngày.

- Bố con phải tìm họ - dì Ellen nói với theo sau Julie.

- Đất nước này có không ít chuyện buồn.

- Hẳn là vậy rồi - Julie nói, và leo lên iglek.

Dì Ellen đi vào phòng ngủ và buông rèm để dì có thể ngủ được. Đàn chó sủa, máy bay của Kapugen cất cánh, và làng Kangik im phăng phắc. Lễ hội Nalukataq đã kết thúc.

Kapugen đi hai ngày. Khi trở về, ông ủ rũ và trầm tư. Ông dừng lại chỗ nhà kho để kể với bà Marie và vài người đi mua đồ rằng ông đã tìm thấy chiếc xuồng bị lật úp trên một bãi biển hoang vắng. Nó trống trơn. Cuốn nhật ký hải trình của vị luật sư cho biết anh ấy đã quay về khi nhìn thấy cơn bão đã giam chân Julie và dì Ellen. Nó đã đuổi kịp ông ấy. Những người đi chợ lắc đầu khi nghe tin ấy. Họ biết những gì Hilla, vị thần thời tiết, có thể làm, và họ rất buồn.

Tuần tiếp theo Kapugen đi đi về về và bận rộn đến mức không thể nói chuyện với Julie hay tới chỗ bãi quây gia súc. Ông và bác Malek bay đi bay về Barrow vì những vấn đề pháp lý cho gia đình vị luật sư rồi tới các bãi biển và mũi đất vắng vẻ để tìm kiếm xác họ. Bác Malek giao việc quản lý đàn bò cho Peter.

Julie đợi cơ hội nói chuyện với bố Kapugen. Cô đọc thêm một số sách mới mà cô tìm được khi giúp dì Ellen dọn dẹp phòng học cho mùa hè. Cô bắt cá, cho chó ăn, và kiểm tra hàng rào bãi quây. Đến chiều muộn, cô ra lãnh nguyên và ghi chép dấu vết của các loài động vật có vú và các hoạt động của chim chóc. Cô đang thực tập cho kế hoạch cô đã vạch ra.

Đàn uminmak đang trút bỏ lượng lớn qivit khi đổi mùa.

Peter đến nhà nhờ Julie giúp thu gom lông bò. Cô nhận lời, háo hức lấp đầy quãng thời gian cho tới khi cô có thể nói chuyện với bố Kapugen. Khi họ xong việc, cô lại ra lãnh nguyên và lắng nghe những thông điệp từ đàn sói của mình.

Một buổi chiều, hai con bê chào đời, và Julie chạy một mạch về nhà, mái tóc đen của cô tung bay phía sau.

- Dì Ellen - cô nói đầy phấn khởi - Viễn Bắc có thêm hai bạn mới rồi.

- Thêm hai con bò nữa - dì Ellen nói, mỉm cười. - Tốt quá. Tốt quá. Chẳng mấy chúng ta sẽ có một đàn bò đủ lớn để công việc kinh doanh này tự trang trải được. - Dì mở sổ ghi chép và ghi lại những con bê mới sinh. - Chúng là đực hay cái?

- Cả hai đều là con cái - Julie đáp.

- Tốt quá. Thế nghĩa là sẽ có thêm những con bê nữa.

- Chúng ta ăn mừng thôi - Julie nói. - Con sẽ bắt cho dì acbum, loại cá hồi ngon nhất. Chúng bắt đầu từ biển bơi ngược vào sông rồi.

- Tuyệt lắm - dì Ellen nói. - Nhưng nấu theo kiểu Minnesota nhé.

Julie không mất nhiều thời gian bắt cá. Cô lạng cá bằng những động tác khéo léo, rồi nhìn dì Ellen tẩm gia vị và hoa quả sấy mà mẹ dì gửi tới.

- Julie - dì Ellen nói, ngồi thẳng lên sau khi cho cá vào lò nướng - dì để ý những cuốn sách con đang đọc. Con quá tiến bộ không cần phải đến trường ở Kangik mùa đông tới.

- Vậy ư? - Julie nói. - Thế thì thật tệ. Con lại rất muốn được đi học ở đây.

- Con có thể đi học - dì Ellen nói - nhưng không phải ở đây. Trong vòng một năm nữa, Hạt Dốc Bắc sẽ xây một trường trung học ở Kangik, nhưng cho tới khi người ta xây trường, hạt sẽ gửi học sinh trung học Kangik tới Barrow, Anchorage, hoặc Fairbanks. Khi đó con có thể tới Đại học Alaska hoặc thậm chí tới các trường đại học đại lục.

Julie chăm chú lắng nghe.

- Nếu con thích - dì Ellen nói - dì sẽ làm hồ sơ cho con.

- Con sẽ nghĩ về việc đó - Julie đáp mà không mấy hào hứng.

- Con sẽ không đơn độc đâu - dì Ellen thúc giục. - Sẽ có những bạn trẻ Eskimo khác bằng tuổi con. Các con sẽ được khiêu vũ, chơi bóng rổ và bóng chuyền.

Julie im lặng. Dì Ellen cố gắng nghiêm túc.

- Một học trò của dì tốt nghiệp trung học Anchorage năm ngoái. Cậu ấy sẽ theo học Đại học Alaska ở Fairbanks vào mùa thu này. Điều đó không thú vị ư?

- Sinh viên sẽ làm gì sau khi họ tốt nghiệp ạ? - Julie hỏi.

- Hầu hết trở lại Dốc Bắc - dì Ellen đáp. - Có người giờ đã là Giám thị phụ trách các trường học. Một bạn nữa là chủ ngân hàng. Một bạn nữa từ Barrow là chuyên gia ngôn ngữ Ifiupiat và thậm chí còn đang biên soạn một cuốn từ điển Ifiupiat. Có rất nhiều việc để làm ở đây nếu có trình độ. Người Eskimo muốn giữ gìn nền văn hóa của mình và đồng thời học hỏi thêm những kỹ năng hiện đại như sử dụng máy tính và thư viện.

Julie ngồi im như một con thỏ đang bị săn đuổi. Một tuần rưỡi trước có lẽ cô đã nhờ dì Ellen nộp đơn. Còn hôm nay thì cô không thể. Cô có một giao ước với đàn sói của mình. Cô phải cứu chúng.

Dì Ellen bật nhạc giao hưởng. Dì dọn món cá hồi ra.

- Dì sẽ xin học cho con nhé? - Dì hỏi.

- Con phải suy nghĩ đã.

Dì Ellen cảm thấy Julie đang dựng lên một bức tường cảm xúc nào đó, bèn bước tới tờ lịch.

- Em con sẽ đến với nhà ta vào ngày năm tháng Bảy, bác sĩ nói vậy. Chúng ta sẽ nói về việc học hành sau khi em bé ra đời.

Họ im lặng ngồi ăn, nghe tiếng gió đùa giỡn ngoài cửa sổ kèm với tiếng nhạc của dì Ellen.

- Dì Ellen - cuối cùng Julie nói - con thật ích kỷ. Con vẫn chưa làm một món quà cho paipiuraq bé bỏng của mình.

Cô vét sạch đĩa đồ ăn và bỏ đĩa vào một chậu rửa bát.

- Con khâu vá khá tốt - cô nói tiếp. - Con đã từng khâu những chiếc áo trùm parka rất đẹp cho cô Nusan, vợ bạn của bố Kapugen. - Julie mang đôi ủng đạp băng cao su của mình vào. - Dì rửa bát đĩa rồi con sẽ quay lại. Con muốn tới lều Quonset. Bố Kapugen tặng con mấy con chồn ermin trắng. Bố nói để dành cho con. Bố nói bố muốn con làm một thứ gì đó đẹp cho chính con từ những con vật ấy. Nhưng con sẽ làm cho em bé một chiếc áo lông chồn ermin trắng tinh. - Cô mặc áo attigi. - Con sẽ không ích kỷ vậy nữa - cô nói.

- Con chẳng hề ích kỷ mà - dì Ellen trả lời.

Julie bẽn lẽn mỉm cười và hối hả ra ngoài trong ánh mặt trời mát mẻ. Một làn gió êm dịu thổi từ đại dương xa xăm lại. Những khóm lách và lau nhỏ xíu dọc bờ sông là chỗ trú ẩn của đám ngỗng và vịt nằm trong tổ. Ngoài Vịnh Kuk, giờ là một màu lam lục thăm thẳm, những người đàn ông và phụ nữ trên những chiếc thuyền cá đang bắt những con cá hồi và cá hồi trắng đầu tiên trên lộ trình bơi vào đất liền để giao phối và đẻ trứng. Mùa cá voi, vịt, và hải cẩu đã kết thúc; mùa bắt cá vừa bắt đầu.

Nhảy ào qua những vũng bùn, Julie thiết kế chiếc áo trùm parka, chồn ermin trong đầu trong khi cô nhảy chân sáo và chạy tới lều Quonset. Cô không nhìn thấy Peter cho tới khi gần như xô vào anh.

- Julie - anh mỉm cười nói. - Anh đang định đến tìm em. Anh đã thấy đàn sói của em.

Cô dừng sững lại. Đôi mắt cô thực sự lên tiếng: Ở đâu? Chúng hỏi vậy.

- Khoảng bốn mươi dặm phía trên sông Avalik - anh trả lời. - Chúng mang theo thức ăn.

- Tốt quá. Thế nghĩa là chúng đang nuôi một con sói mẹ. Chúng có tổ.

- Anh nghĩ vậy.

- Anh thấy mấy con trưởng thành?

- Ba con.

- Ba - cô nói. - Anh có nghĩ anh nhìn thấy tất cả không? Chú Atik nhìn thấy tám con hồi mùa đông.

- Mùa đông không hợp với chó sói. Không có thức ăn. Có thể một vài con đã chết đói.

Cô cắn môi.

- Em phải tới chỗ chúng. Bốn mươi dặm không đủ xa với một con sói. Chúng sẽ quay lại bắt bò xạ.

Cô định rời đi.

- Em có thể cùng anh tới nhà tạm được không? - Anh hỏi. - Con bê thứ tư sắp sinh rồi, con bò mẹ hành động lạ lắm.

- Em sẽ đến chỗ anh sau - cô nói. - Em đang trên đường đi lấy mấy bộ lông ermin trong số lông thú của bố Kapugen ở lều Quonset. Em sẽ làm cho con của dì Ellen một cái áo choàng thật đẹp.

Peter mỉm cười và nhìn cô qua phía trên cặp kính râm.

- Anh yêu em - anh nói. - Em có yêu anh không?

- Anh Peter Sugluk - cô nói. - Em phải học cho xong trung học và đại học rồi lấy bằng thạc sĩ về tiếng Yupik và Inupiat thì mới có thể nghĩ đến yêu đương.

- Dì Ellen nói chuyện với em à?

- Vâng.

- Dì Ellen cũng đã nói chuyện với anh - Peter nói. - Anh đã nộp đơn vào Đại học Alaska.

- Anh cũng sẽ đi học à? - Julie hỏi, và cười vang. - Anh toàn những điều ngạc nhiên. - Cô đặt tay lên môi. - Em chẳng biết phải nghĩ thế nào về anh.

- Phải, đúng thế - anh nói, ôm choàng lấy eo cô và nhấc bổng cô lên. Anh xoay tròn hai vòng rồi mới đặt cô xuống, hướng về phía lều Quonset.

- Giờ em đi lấy lông ermin làm quà tặng cho em bé đi - anh nói. - Hẹn gặp em ở chỗ nhà tạm.

Julie lấy lại thăng bằng, rồi chạy vòng qua nhà thờ và ngược lối mòn tới lều Quonset. Bước vào bên trong, cô hé nhòm lại chỗ Peter. Chiếc áo attigi trắng của anh bay phần phật khi anh chạy. Anh cứ như một con chim cắt đang lao mình về tổ.

Mình thích anh ấy, Julie tự nhủ. Đúng vậy. Nhưng cô không rời mắt khỏi anh cho tới khi anh khuất khỏi tầm nhìn.

⚝ ✽ ⚝

Đã nửa đêm. Tiếng động cơ máy bay rền rền từ xa, càng lúc càng lớn và thấp xuống, và cuối cùng tắt ngấm. Julie lắng nghe từ trên iglek của mình và chờ đợi. Bố Kapugen và dì Ellen đang trở về sau khi đến gặp bác sĩ ở Barrow. Julie không hề ngủ kể từ lúc vầng mặt trời nửa đêm nhuộm cả lãnh nguyên một màu cam, vì hôm nay là ngày cô sẽ nói với bố Kapugen rằng Kapu đã giết một con bò xạ. Gần một tuần đã trôi qua kể từ sự cố ấy. Cô rất sợ nhưng rất kiên quyết.

Dì Ellen bước vào trước tiên và nhón chân đi qua iglek, cho rằng Julie đang ngủ say. Dì đi qua phòng với hai chân vẫn còn đi tất, vấn mái tóc đỏ của dì lên đỉnh đầu. Khi đã vấn gọn tóc và buộc lại, dì vục lấy một xoong nước từ cái thùng nhựa ba mươi gallon đặt bên cạnh tủ lạnh.

Dì Ellen mang theo một cốc nước sông sạch mát lạnh. Kể từ đợt băng vỡ, người dân làng Kangik lại có thể lấy nước từ sông Avalik.

Dì Ellen đánh răng chỗ bồn tráng men và đổ nước xuống bồn rửa trong bếp. Cuối cùng dì đi vào phòng ngủ.

Julie nghe tiếng nước chảy xuống ống và trút xuống đất dưới gầm nhà. Cô nghe thấy tiếng nước róc rách chảy đi. Đây là thứ âm thanh của mùa hè. Nước từ bồn rửa không còn đóng băng trong cái phễu thủy tinh dưới gầm nhà.

Bố Kapugen mở cửa và bước vào. Julie nhích ra mép iglek.

- Aapa - cô thì thào - con có chuyện cần nói với bố.

Cô gần như mắt chạm mắt với ông.

- Eedie, Miyax xinh đẹp - ông nói, và nháy mắt. - Vậy là con có người yêu rồi phải không?

- Aapa - cô nói, mặc kệ lời ông. - Làm ơn nghiêm túc nào.

- Ee-lie - ông nói, và hôn lên má cô. - Có phải con muốn lấy chồng không?

Ông gạt một lọn tóc của cô ra sau.

- Aapa, Aapa. - Julie tụt khỏi iglek và đứng trước mặt ông. - Con muốn bố bình tâm nghe những gì con phải nói với bố đây.

Bố Kapugen có vẻ ngơ ngác.

- Bố không phải lúc nào cũng vậy sao?

- Đàn sói đã giết một con bò.

Vẻ lấp loáng vui tươi biến mất trong mắt Kapugen. Sau một lúc im lặng trầm ngâm, ông quay người và đi sang gian sảnh qanitchaq. Ông mặc áo bay và nhặt khẩu súng săn sói lên.

- Xin bố đừng - Julie nài nỉ. Cô theo ông bước ra ánh mặt trời lúc hai giờ sáng. - Xin bố đừng - cô lại cầu khẩn.

- Không ích gì đâu - ông trả lời, theo đường tới lều Quonset và chiếc máy bay của mình. - Chúng ta cần bò xạ.

- Xin bố, bố Kapugen, aapa của con. - Julie chạy chân trần bên cạnh ông. - Con sẽ ngăn đàn sói tránh xa bò. Xin bố đừng bắn chúng. Chúng đã cứu mạng con.

Cô dừng lại và vươn tay về phía ông.

- Chẳng ích gì đâu - ông nhắc lại, nhưng bước chân chậm hẳn.

Mắt Julie giàn giụa nước. Cô hối hả bắt kịp ông.

- Con xin mà, aapa, chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Con biết phải làm gì.

- Có lẽ những con thú ăn thịt không phải là đàn sói đã cứu con - Kapugen nói, rất muốn tin điều này, mặc dù ông biết chỉ có một đàn ở giữa Wainwright và vùng núi.

- Chính là chúng. Xin đừng bắn chúng - cô trả lời. - Anh Peter đã nhìn thấy đàn sói. Một con màu bạc và một con màu xám. Con đầu đàn màu đen.

- Nhưng bố đã bắn con đầu đàn màu đen của con mà.

- Con màu đen là con của nó. Bố cũng đã bắn trúng nó, nhưng không nặng lắm. Con đã chăm cho nó khỏe lại. - Cô ngập ngừng. - Con đặt tên nó theo bố. Tên nó là Kapu. Nó là một thủ lĩnh cừ.

- Bò xạ phải sống - Kapugen nói. - Chúng ta cần tiền cho dân làng.

- Chú Atik có hải mã, bác Malek có cá voi. Trứng vịt và trứng ngỗng ở khắp nơi trong đám lau sậy bờ sông. Cá hồi trắng và cá hồi đang bắt đầu trở về.

- Chúng ta không thể săn bắt mãi mãi đâu - Kapugen nói. - Động vật hoang dã đang biến mất khỏi trái đất. Chúng ta phải tìm một phương thức mới để sống ở Bắc Cực. Phải có công việc làm ăn. Bò xạ là công việc của chúng ta đấy.

Kapugen chậm bước lại thành nhịp đi bộ đầy do dự. Gương mặt ông toát lên nét buồn bã mà Julie không tài nào chịu nổi khi nhìn ông.

- Chẳng ích gì đâu - ông nói thêm một lần nữa. - Bố phải bắn hạ những con sói giết bò.

- Hãy để con đi với chúng - cô nói. - Con biết phải làm gì. Bố từng nói chuyện được với sói. Cũng như bố, con đã học ngôn ngữ của chúng khi con ở cùng chúng trên lãnh nguyên. Con sẽ bảo chúng chỗ có tuần lộc và đưa chúng đi tìm tuần lộc. Chúng sẽ làm vậy.

Kapugen đưa những ngón tay sạm nắng gió của mình gãi gãi lông mày, như thể đang thay đổi ý định. Rồi quyết tâm của ông trở lại và ông sải bước tới lều Quonset. Julie chạy theo ông.

- Xin bố, hãy để con thử - cô van nài. - Nếu con không thành công, khi đó con sẽ chấp nhận. Con xin mà, aapa.

Kapugen để cô bắt kịp ông.

- Ở Minnesota - ông nói - sói được bảo vệ. Không ai bắn hạ chúng, chúng rong ruổi trong rừng bắt hươu, nai sừng tấm và một động vật người ta gọi là hải ly. Nhưng khi một con sói mò vào đất của người và giết hại gia súc, thì các quan chức môi trường của chính phủ sẽ đến và bắn hạ nó. Họ bắn những con cạnh tranh với loài người. Họ nghĩ vậy là công bằng. Đó là cách thức giữa con người và sói ở Minnesota.

- Nhưng ở đây thì không vậy - Julie nói. - Chúng ta khác. Chúng ta biết mọi thứ đều từ mặt đất mà ra và phải sống để tất cả chúng ta cùng có thể sống được.

- Nhưng không như vậy khi chúng ta sống như người da trắng. - Kapugen ngừng bước. - Người Eskimo - ông nói, giọng ông trầm hẳn khi ông nhấn từng từ thật cẩn trọng - giờ đây sống theo luật Minnesota.

- Những quy tắc cũ là tốt nhất - Julie nói.

- Bố đã dạy con như vậy phải không nhỉ?

- Bố đã dạy con như vậy, aapa.

- Bố sai rồi.

Những đám mây mỏng đang hình thành phía trên vùng vịnh lúc mặt trời bắt đầu cái vòng tròn bất tận của mình quanh phần đỉnh của thế giới lần nữa. Julie và cha cô nhận ra như vậy, vì họ chú ý đến mọi đám mây.

- Nắng rồi - Julie nói. - Con có thể đi được.

- Vậy con sẽ đi cùng chúng à? - Kapugen nói khẽ.

- Con sẽ đi với chúng.

- Và con sẽ làm gì?

- Con không rõ cho tới khi con nói chuyện với chúng.

- Con sẽ đi như thế nào? Con không thể dắt theo đàn chó.

- Đi bộ ạ, cho tới khi tìm được chúng. Sau đó con sẽ đi như chúng đi.

Cô sụp xuống trên cả hai tay và chân và nhảy nhót nhẹ xung quanh Kapugen, ư ử và rên rỉ như một con sói.

- Con thật sự học được ngôn ngữ của chúng rồi - ông nói, dịu dàng kéo cô đứng lên. - Đi tới chỗ chúng đi. Bố biết cố gắng của con sẽ vô ích. Sói không biết tài sản của con người. Chúng chỉ thấy con mồi phù hợp của chúng và bắt nó. Sói phải là sói.

- Sói có biết những ranh giới đấy - Julie nói. - Chúng có lãnh thổ săn mồi như chúng ta. Chúng đánh dấu và kiểm soát những khu vực đó. Thật tiếc là bò xạ của chúng ta trong lãnh thổ của Kapu. Nó nghĩ chúng là của nó.

Kapugen choàng quai súng quanh cổ và để cho khẩu súng treo trên lưng mình.

- Vô ích - ông nói.

- Bố sẽ để con thử chứ? - Cô hỏi.

- Bố không thể từ chối - ông nói, chạm lên mái tóc đen óng ả của cô với sự âu yếm của một con sói với con non. - Bố sẽ để con thử. - Ông kiễng chân lên, rồi hạ xuống trên gót chân. - Nếu chúng lại giết bò nữa, bố sẽ đành phải theo luật ở Minnesota thôi.

- Vâng - cô nói. - Nhưng bố sẽ không phải làm vậy đâu.

Cô đưa cườm tay lau mắt và cảm ơn ông bằng một nụ cười đẫm lệ.

Kapugen choàng tay quanh vai cô và họ đi bộ trở lại nhà, hắt những cái bóng màu tía đổ dài trước mặt.

- Cầm theo khẩu.22 của con - ông nói khi họ về đến nhà. - Bố sẽ đưa đạn cho con.

- Con không muốn dùng khẩu.22 - Cô nhớ đến những tiếng súng đã giết chết Amaroq và nỗi sợ hãi mà đàn sói của cô luôn có trước súng ống.

- Ngoài kia có lũ gấu xám - Kapugen nói tiếp. - Cứ bắn lên trời. Như thế sẽ dọa được chúng.

Julie gật đầu.

- Có lẽ con sẽ mang theo - cô nói, nhớ lại con gấu xám đã tấn công cô. Nếu không phải vì Amaroq và đàn của nó, có lẽ giờ cô đã không ở đây.

Kapugen không nói gì thêm cho tới khi ông đặt tay lên nắm đấm cửa gian qanitchaq.

- Bố sẽ đi theo con - ông nói. - Con CB của bố sẽ tìm được lối đi của con và dẫn bố tới chỗ con. Nó đánh hơi rất giỏi, phải. Nó có thể ngửi thấy mùi hải cẩu cách xa bốn dặm và tìm được nó.

- Cho con hai tuần - cô nói. - Đủ thời gian để tìm được chúng.

Kapugen gật đầu lần nữa. Ông hiểu. Người ta phải kiên nhẫn với Bắc Cực.

Julie bỏ ra mấy giờ tiếp theo chuẩn bị cho chuyến đi của mình. Cô lấy thực phẩm, túi dao ulu cùng dầu cá voi, và một bộ quần áo để thay. Cô hát ư ử trong khi làm công việc chuẩn bị. Cô nhìn về phía trước khi lại được tự do đi bộ trên lãnh nguyên rộng mở. Lần này, cô sẽ đi mà không còn sợ chết đói.

Khi cô đã gói ghém hành trang xong xuôi, cô ra ngoài và ghim những bộ lông ermin trắng lên một tấm ván. Cô cẩn thận cắt thành từng dải bằng dao ulu. Cô ngồi xuống và khâu các dải da thành một tấm da đẹp duy nhất. Tất cả lớp lông bảo vệ lấp loáng nằm về một hướng. Cô dựng khối lông chồn lên và hít một hơi. Tấm vải lông chồn ermin sẽ đẹp mê hồn. Cô choàng nó quanh vai mình, rồi chạy tới chỗ gương của dì Ellen phía trên bồn rửa bát. Lớp lông màu trắng tuyết khiến làn da nâu dịu của cô rạng rỡ và đôi mắt đen của cô thêm sáng. Cô mang tấm da tới iglek và nhét vào bên dưới tấm da gấu xám. Cô sẽ hoàn thành tấm vải khi em bé chào đời. Việc đó sẽ mang lại may mắn cho em bé. Cô nằm xuống iglek và thiếp ngủ.

Nhiều giờ sau, hành lý trên vai, cô bước ra ngoài. Cô đã đọc đúng tín hiệu mây. Không khí quang đãng, trời không mây. Đường chân trời lung linh.

Ít nhất quãng thời gian ngày dài ba tháng này sẽ rất đẹp. Cô đi ra lối mòn ven sông. Ở đó cô lấy totem Amaroq ra khỏi túi và áp lên má mình. Rồi cô bắt đầu hành trình của mình.

Khi cô đến bãi quây gia súc, cô thấy Peter và gọi anh. Anh vẫy tay và chạy lại đón cô. Nụ cười rạng rỡ của anh nói rõ rằng anh rất vui được gặp cô.

- Con bê non sinh rồi - anh nói. - Lại một cô bé nữa.

Julie mỉm cười, nhưng cô không nhận xét gì. Cô chỉ có một suy nghĩ trong đầu.

- Nói lại với em xem, anh Peter Sugluk - cô nói. - Lần cuối anh nhìn thấy đàn sói ở đâu?

Peter mô tả một khúc cong trên sông và dọc bờ biển toàn đá trắng.

- Anh nhìn thấy chúng đi ở đó.

- Quanh đó có loài hoa đẹp nào không? - Cô hỏi.

- Ee-lie, để anh nghĩ xem nào, có đấy. Mà sao em hỏi vậy?

- Ánh Bạc rất thích hoa quanh hang của nó. Chúng có thể làm hang đâu đó gần hoa. Bờ sông có cao không?

- Cao đấy.

- Chúng thích làm hang trên cao để có thể nhìn ra toàn bộ vùng đất.

Peter khoanh tay trước ngực và gõ gõ đầu mình. Mắt anh lấp lánh vẻ thán phục kiến thức của cô. Rồi nét mặt anh thay đổi.

- Chú Kapugen nói gì? - Anh lo lắng hỏi.

- Nói rằng bố sẽ để em thử cứu chúng - cô trả lời. - Bố sẽ cho em thử cơ hội này. Bố sẽ phải bắn hạ chúng nếu chúng lại giết bò.

- Kế hoạch của em là gì? - Peter hỏi.

- Em sẽ đưa chúng tới chỗ tuần lộc, bất kể chúng ở đâu - cô nói.

- Em sẽ làm việc đó như thế nào? - Anh hỏi.

- Với lập luận của sói - cô trả lời.

Peter cười ngoác và thò tay vào túi áo attigi của mình.

- Cầm lấy thứ này - anh nói, trao cho cô một vật nhỏ được đẽo bằng ngà hải mã. Nó treo trên một sợi dây.

- Đẹp quá - cô nói. - Cái gì vậy?

- Một cái còi sóc đất - anh trả lời. - Anh làm đấy. Nó sẽ giúp vui cho em khi em thấy nản.

Cô lật chiếc còi trên tay, rồi choàng nó quanh cổ mình.

- Một cái còi sóc đất - cô nói, hất cằm và nhìn lên anh với đôi mắt cười vui. - Em sẽ nghĩ về anh khi em thổi còi.

- Đó chính là mục đích thật sự của nó đấy - anh nói. - Làm cho em nghĩ đến anh. - Anh khoanh tay lại. - Và em sẽ nghĩ đến anh khi em thổi còi - anh quả quyết với cô, và cười.

- Em chắc là em sẽ không thể khác được - cô nói. - Quả là một món quà thú vị. Một cái còi sóc đất.

Peter cười lớn, hàm răng trắng bóc của anh sáng lóa trên làn da nâu. Những cái đuôi chồn ermin trên đôi ủng của anh nhảy nhót.

- Lẽ ra anh sẽ đi với em - cuối cùng anh nói - nhưng bố Malek cần anh.

- Em phải đi một mình - cô nói. - Đàn sói là bạn em.

Julie nhìn phóng ra lãnh nguyên và hướng đôi ủng của cô về phía đàn sói.

Cô bước nhẹ quanh những khoảng tuyết nhỏ khi cô lần theo dòng sông Avalik tiến về phía đầu nguồn. Gót chân cô chỉ hơi chạm đất khi cô đi. Cô nhảy tránh qua những khóm anh túc và vẫy tay với con chim sẻ tuyết bay lên từ những khóm hoa.

Đi bộ một ngày qua khỏi trại vịt, Julie gặp một con chồn đang đứng trên hai chân sau, móng vuốt xếp trước ngực. Nó không còn khoác bộ lông chồn ermin mùa đông màu trắng của mình nữa, mà là một lớp lông màu nâu vàng hợp với lãnh nguyên mùa hè. Nó táo tợn chắn đường cô. Julie giậm chân dọa nó. Nó nhe hàm răng sắc ra và rít lên nhưng không bỏ chạy.

Julie tiến lại gần hơn. Khi cô còn cách nó hơn nửa mét, cô dừng lại.

- Tao là con người - cô nói. - Tại sao mày không sợ tao nhỉ? Có phải vì mày chưa bao giờ nhìn thấy người phải không?

Cô giơ hai cánh tay lên và đung đưa từ bên này sang bên kia.

- Có thấy tao rất to lớn không?

Con chồn rung rung bộ ria và vẫn chẳng nhúc nhích.

- Hãy học cách sợ những động vật hai chân đi - cô nói. - Họ bắn những con chồn nhỏ vào mùa đông và biến chúng thành những chiếc áo khoác chồn ermin lộng lẫy.

Con chồn mắt sáng, mặt nhọn vẫn đứng nguyên, cho nên cô đá cho nó một cú và đi tiếp.

Ngày hôm sau Julie đi qua một con cú tuyết nằm trên tổ. Cũng như con chồn, con chim to lớn màu trắng có đôi mắt to màu vàng chẳng hề sợ cô. Nó để mặc Julie đến gần như sát mấy con chim non còn lông tơ của nó rồi mới chịu đứng bật dậy.

Julie ngẫm nghĩ về những gì cô thấy. Các loài vật đang nói chuyện với cô. Con cú và con chồn đều nói chúng không sợ con người vì chúng hiếm khi nhìn thấy họ. Chúng nói rằng Julie đang ở thế giới hoang dã nơi con người không xuất hiện. Ở lãnh địa như thế, cô biết, chó sói Bắc Cực nuôi con của chúng.

Một con hồng tước bay lên từ một đám cỏ với một ít lông thú trong mỏ. Julie xoay nhìn quanh. Đó là lông sói. Cô nhìn xuống. Cỏ bị uốn rạp bởi những cái chân mềm, không phải móng guốc sắc. Cô đi theo cái lối mòn không dễ phát hiện ấy và đến được chỗ ngủ của một con sói. Những búi lông trong đó có màu đen. Kapu đã ở đây. Lối mòn cô đi theo là của nó. Tinh thần cô phấn chấn hẳn.

Cúi thật thấp, chú ý đến từng lá cỏ bị giẫm xuống, cô lần theo dấu chân của Kapu từ chỗ ngủ của nó đến khúc cong trên sông. Ở đó, trước mặt cô là bãi biển đá trắng mà Peter đã nói đến. Những dấu chân mất hẳn trên cuội. Cô đi tiếp ngược dòng sông. Hai vệt đi của sói xuất hiện trên bùn, rồi ba, sau đó là rất nhiều, cứ như thể đàn sói đang chơi đùa. Cô vòng qua một khúc ngoặt, và trước mặt cô là một bờ sông phủ cát rất cao. Quét nhìn một lượt thật cẩn thận, cô nhận ra một chỗ tối om - một cái hang. Ngay bên trên, một vườn anh túc vàng rập rờn trong gió.

- Đây rồi - cô nói. Cô để hành lý lên một khối cuội dưới lòng sông nơi cô có thể nhìn rõ cái hang và ngồi xuống. Suốt vài tiếng, cô ngồi im hoàn toàn, thậm chí còn không quay đầu.

Chẳng thấy gì di chuyển chỗ hang. Nhưng khắp nơi xung quanh đó có rất nhiều hoạt động. Những loài chim nhỏ của lãnh nguyên đang chăm chút tổ của chúng. Chim sẻ cựa dài và chim sẻ đất, chim hồng tước và chim choắt vỗ cánh bay lên và vọt lên bờ sông rồi lại vút nhanh xuống. Julie tiếp tục ngồi im. Kế hoạch của cô sẽ có tác dụng. Cái hang này là hang sói con, không như hang mùa hè có hai lối ra vào nơi lần đầu cô gặp Amaroq và gia đình của nó. Những con sói non của Kapu vẫn còn bé, và thế lại hay.

Rất cẩn thận, rất chậm rãi, Julie dựng chiếc lều mà cô làm từ con tuần lộc Amaroq hạ được cho cô nhiều tháng trước. Sau đó cô trải tấm da lót nền và nằm xuống đợi đàn sói của mình.

Sau nhiều giờ, cô nghe thấy có tiếng kêu ngập ngừng, rồi tiếng thút thít ai oán. Đó là Kapu. Tim cô đập nhanh hơn. Nó đi rất nhanh dọc mép nước. Bàn chân to và những cẳng chân dài của nó ướt vì nước sông hắt tới, còn thân hình màu đen của nó tạo thành một nét đậm nổi bật trên bờ cát. Nó không hề nhìn hay ngửi thấy cô. Trong tâm trí nó chỉ có một thứ - cái hang. Nó đi thẳng tới đó, đầu và đuôi vểnh cao, lớp lông lấp loáng trong ánh mặt trời, và trên mặt là nụ cười của sói. Nó là một con vật tuyệt vời.

Đuôi nó bắt đầu ve vẩy khi còn cách cửa hang mười mấy mét và không hề ngừng cho tới khi nó tới nơi. Đến đó, nó thút thít vẻ dỗ dành. Con sói trắng chui ra. Nó không phải Ánh Bạc, mẹ của Kapu. Julie biết Ánh Bạc rõ như cô biết bố Kapugen và dì Ellen. Chuyện gì đã xảy ra với Ánh Bạc? Phải chăng nó đã chết vì thiếu thức ăn trong mùa đông và mùa xuân?

Cô còn chưa kịp nghĩ thêm về chuyện này thì một con sói non lông nham nhở thò mõm ra khỏi hang và thút thít rồi chạy tới chỗ bố nó. Nó cũng đen giống như Kapu. Mõm nó ngắn và tù. Nó có bàn chân to và thân hình chũn chĩn, khiến Julie rất muốn chạy tới nhấc bổng nó lên mà ôm.

Con mẹ chào đón Kapu bằng cách liếm má nó; rồi nó đẩy con mình trở lại hang. Julie đặt tên cho con sói trắng là Aaka, tức bà mẹ. Cô đặt tên cho con sói con là Amy theo tên người bạn qua thư của cô là Amy. Cô đã trên đường tới thăm người bạn qua thư của mình thì bị lạc và cuối cùng gặp được Amaroq cùng đàn của nó trên lãnh nguyên. “Amy” cô thì thầm với mình khi nhìn con sói non láu lỉnh. Khi cô về nhà, cô sẽ viết thư cho bạn mình và kể với cô bạn rằng có một con sói con được đặt tên cô ấy. Amy giờ đã có anatiq , một vật trùng tên. Cô thích điều đó.

Kapu nhìn lên và trông về phía hang. Nó sủa tiếng kêu của loài sói giống như loài chó báo hiệu “này, xem ai đến kìa”. Julie quay đầu thật nhẹ nhàng và thấy một con sói trưởng thành thứ ba đang tong tả chạy về. Cô lập tức nhận ra Zing, cậu em trai của Kapu. Miệng nó ngậm theo một con sóc đất. Zing nhảy vọt qua đám anh túc và thả con mồi trước cửa hang, một món đồ chơi cho Amy. Suốt thời gian còn lại của mùa hè, Amy sẽ hình thành các kỹ năng của nó bằng những món quà như vậy từ lãnh nguyên.

Sự hiện diện của Zing nói cho Julie rất nhiều điều về đàn sói cũ của cô. Hoặc Ánh Bạc đã chết hoặc Kapu đã rời khỏi nó để tìm một bạn đời và đem theo người bạn và người anh em khỏe mạnh của mình, Zing. Sói cần đối tác. Một con sói không thể hạ gục con mồi lớn. Đâu đó trên lãnh nguyên trơ trụi, hai anh em đã gặp Aaka và mời nó gia nhập đàn. Julie hình dung ra trận chiến để giành nó. Trận chiến sẽ rất chóng vánh. Kapu to lớn và thông minh hơn Zing. Nó sẽ gầm gừ, nhe răng nanh ra, thậm chí ngoạm lấy khoang cổ Zing. Zing sẽ nằm ẹp xuống đất và phơi phần lông bụng màu trắng ra, đó chính là lá cờ xin hàng. Nó sẽ chấp nhận thất bại của mình, sau đó đứng lên và liếm mặt Kapu. Chúng sẽ lại là bạn bè của nhau.

Aaka và Kapu sẽ thành cặp, và cả ba sẽ tạo thành một đàn săn mồi và rong ruổi trong lãnh thổ tám mươi dặm vuông của chúng để tìm kiếm thức ăn. Con bò xạ của Kapugen là con mồi dễ hạ qua hàng rào đã bị phá đổ.

Ngay trước khi lũ sói con ra đời, cả ba con sói trưởng thành sẽ đào một cái hang ở lưng chừng bờ sông. Hang sẽ khá nông, vì sói Bắc Cực phải mất nhiều năm mới đào được một cái hang sâu trong lớp đất đóng băng vĩnh cửu cứng như đá.

Julie thắc mắc về số lượng sói non. Khi thức ăn khan hiếm, sói sẽ sinh ít con hơn; có khi chẳng sinh con nào nếu chúng đang chết đói. Cô không nghĩ năm nay sẽ có nhiều sói non, và chẳng mấy cô đã được minh chứng là mình đúng. Khi Aaka ra khỏi hang để duỗi mình và thực hiện một chuyến phóng chân cẳng cho thư giãn, Julie có thể nhìn vào tận phía sau và đáy cái hang năm đầu tiên này. Chỉ có một con sói non. Mùa đông rất khắc nghiệt với sói cũng giống như người dân làng Kangik.

Zing đến gần Aaka nhưng bị Kapu đẩy lui lại. Kapu đứng vượt trên Zing, đầu ngẩng cao, một chiếc nanh nhe ra, một biểu hiện thân thiện nhắc cho người anh em của mình rằng Aaka là bạn đời của nó. “Hãy giữ khoảng cách”, nó đang nói vậy. Zing cụp tai và đuôi rồi bỏ đi.

Gió đổi hướng, Kapu nghếch mũi về phía lòng sông. Nghiêng đầu sang một bên, nó đánh hơi. Nó lại đánh hơi. Đôi tai nó chĩa về phía trước. Nó đã ngửi thấy mùi Julie. Cô nhúc nhích và nó nhìn thấy cô. Nhất thời nó đăm đăm nhìn; sau đó, đuôi vẫy rối rít, nó vén môi như mỉm cười và cào cào hai chân trước xuống đất.

- Kapu - cô gọi - em nhớ chị mà.

Miệng hé ra, cô phát ra những tiếng ư ử để cho nó biết cô mừng biết bao vì nó không quên cô.

Kapu tung tăng chạy về phía cô, rồi dừng lại. Nó hất đầu ra sau và hú lên một giai điệu trầm bổng kéo dài bắt đầu như tiếng gầm gừ của gấu và vút lên thành tiếng gió rít. Nó đang nói rằng một thành viên của đàn ở đây. Julie hú, hòa nhịp với nó. Giờ Zing đã nhìn thấy cô và hé cái môi đen của nó phía trên một chiếc răng nanh và gầm gừ.

- Zing, chị đây mà - Julie nói, và ư ử bày tỏ rằng cô yêu quý nó.

Zing ngoáy đuôi. Nó chạy lại phía cô, nhìn thẳng vào mắt cô, nói rằng cô là gia đình nó và được chào đón.

Kapu đầy phấn khích. Nó lao vút như một con ó biển xuống bờ biển và chạy trở lại chỗ Julie. Cô ném cho nó chiếc găng tay của mình. Nó bắt lấy, lẳng lên không, và lại bắt lấy. Nó chạy thành vòng tròn và thả cái găng xuống. Julie cười và nhặt cái găng lên. Kapu chẳng hề mất đi khiếu hài hước ngay cả khi nó đã làm bố và thủ lĩnh đàn của mình.

Zing chạy vòng quanh Julie vài lần, rồi nằm xuống gần cô. Nó xoay đầu và khép hờ mắt, nói rằng mọi sự đều ổn khi có nó. Người chị em lạ mặt của nó trở lại. Kapu nằm ẹp xuống trước mặt cô và vắt chéo chân. Nó đăm đăm nhìn cái găng. Julie giấu nó đi. Kapu ngẩng đầu và dựng đứng tai chĩa về phía trước. Nó muốn cái găng. Nó nhỏm dậy và đứng vượt trên cô, cố gắng thể hiện uy thế.

Julie cười to và ném găng cho nó.

Không thấy thêm con sói trưởng thành nào gia nhập đàn, cũng chẳng thấy có thêm con sói non nào xuất hiện. Chỉ có hai con trưởng thành săn mồi, Kapu và Zing. Aaka phải bảo vệ con của mình. Câu chuyện rất rành rẽ để Julie đọc hiểu. Các thành viên khác của đàn ban đầu hoặc đã gia nhập với các đàn ở xa hoặc gây dựng đàn của riêng mình giống như Kapu. Hoặc chúng đã chết - cuộc sống của một con sói rất nguy hiểm.

Mặt trời di chuyển vòng tròn trên đỉnh thế giới hai lần, và với mỗi vòng, Julie lại dịch gần hơn tới hang sói. Kapu và Zing không bận tâm, nhưng Aaka thì có. Nó trở nên bồn chồn mỗi lần Julie nhích lên trước. Nó gầm gừ và nhe răng. Julie ném cho nó một chiếc găng, nhưng Aaka không chơi đùa. Nó đang tỏ ra là một trở ngại - nhưng nó lại là con sói quan trọng nhất trong kế hoạch của Julie. Cô phải chiếm được niềm tin của Aaka nếu cô định giúp đàn sói của mình.

Julie rất kiên nhẫn. Cô lùi lại vài thước và lặng lẽ đi theo chu trình ăn, ngủ và chờ đợi. Đến buổi sáng thứ năm, Kapu bới một chỗ ngủ cách lều của Julie khoảng hơn một mét. Nó xoay tròn rồi lại xoay tròn, và nằm xuống ngủ.

Aaka chứng kiến việc này từ lối vào hang. Sau một lúc lâu, nó lần xuống triền sông và tiến lại chỗ Kapu. Nó nằm xuống bên cạnh và gác đầu lên lưng Kapu. Nó nhìn dòng sông từ đôi mắt nâu vàng điềm tĩnh của mình. Cuối cùng, nó ngoáy tai và nhìn Julie. Julie nhìn nó. Aaka nhìn đi chỗ khác. Julie cũng nhìn đi, nhưng vẫn liếc nhìn qua khóe mắt. Rất chậm rãi, rất thận trọng, Aaka ngoái đầu và nhìn thẳng vào mắt Julie. Cô không nhìn đi chỗ khác. Tim Julie nhói lên niềm hạnh phúc. Bằng việc nhìn vào mắt cô, Aaka nói rằng nó chấp nhận Julie vào gia đình nó. Mọi việc sẽ ổn thỏa.

Kể từ lúc đó trở đi, Aaka thôi gầm gừ với Julie, và sau giấc ngủ tiếp theo Julie chuyển lều của mình gần như lên hẳn tận cửa hang sói. Aaka làm bạn với cô nhưng không để Amy ra ngoài và chơi đùa. Đó là vấn đề tiếp theo. Julie không chỉ cần tình bạn của Aaka mà cả của Amy nữa.

Suốt thời gian này, Kapu và Zing đi vắng nhiều giờ để săn sóc đất, thỏ chân tuyết, cáo, chim ptarmigan - bất cứ thứ gì chúng tìm được. Có một đợt đi săn kéo dài rất lâu, và Julie sợ rằng Kapu cùng Zing quay trở lại bãi quây gia súc để tìm bò xạ. Cô thở phào nhẹ nhõm khi chúng trở về với một con thỏ chân tuyết cho Aaka.

Nửa đêm trời có nắng, hôm sau Julie bị đánh thức bởi những tiếng rên rỉ và sủa gióng giả của đàn sói. Kapu kéo xác một con mồi về hang, và chúng đang thảo luận việc đó theo cách bí mật của chúng. Cái xác đã rất lâu và nham nhở đến mức Julie không dám chắc đó là giống gì, nhưng cô thấy khá giống một con tuần lộc non.

Cô rất mừng. Nếu có con non thì đàn tuần lộc không thể ở xa được. Đêm muộn hôm đó, khi đàn sói đã bỏ cái xác, Julie quan sát nó thật kỹ. Con vật có đeo một cái vòng phát sóng vô tuyến quanh cổ giống như cái chú Atik đã mô tả.

Cô tháo vòng và rửa sạch dưới sông. Một cái thẻ trên đó ghi: Xin hoàn trả cho Cục Thú săn và Cả Alaska, Fairbanks, AK. Cô cất vào ba lô của mình. Cô sẽ làm đúng như vậy.

Một ngày nữa trôi qua và Julie vẫn không thể tiếp cận Amy. Con sói mẹ giữ rịt con của mình ngay cả khi chính nó đã rất thoải mái với Julie. Julie tự hỏi tại sao, nhưng rồi cô nhớ rằng sói không nghĩ như con người. Chúng suy nghĩ bằng mùi và âm thanh cũng như hình ảnh. Điều này khiến chúng hoặc cắt liên hệ hoàn toàn hoặc, nếu chúng lựa chọn vậy, cảnh giác đến mức có thể cảm nhận được sự gây hấn. Cô quyết định rằng Aaka thấy cảnh giác và đã đọc được kế hoạch của cô trên nét mặt hoặc ánh mắt cô - và không thích điều đó.

Julie nghĩ cách làm bạn với Amy. Việc con sói con tin tưởng cô là điều cực kỳ cần thiết cho bước tiếp theo của cô. Cô đang suy nghĩ về những gì cần làm thì Aaka ngồi xuống cạnh cô. Julie ư ử vui vẻ với nó. Aaka cũng ư ử, rồi quay đi và nhìn về phía hang. Amy đang ngồi bên ngoài chỗ cửa hang dưới khóm anh túc. Julie kêu ư ử. Con sói non nhổm lên và chạy lại chỗ cô. Nó vớ lấy dây ủng của cô và kéo, gầm gừ vẻ hung tợn trong khi vẫy đuôi rối rít. Rồi nó nhìn Julie và lấy hai chân trước cào cào mặt đất để nói: “Mình chơi nào.” Cô rất muốn nhấc bổng con sói đáng yêu lên nhưng ánh mắt Aaka nói rằng nó chưa sẵn sàng cho việc đó.

Amy sủa giắng giả. Julie cũng sủa đáp lại. Cô chìa ra một khúc xương lấy từ xác con tuần lộc. Amy dùng răng ngoạm lấy và kéo. Nó gầm gừ vẻ khoái chí, kéo mạnh hơn, rồi buông ra. Julie ngã ngửa ra sau. Sau một màn co kéo và ném rồi nhặt khúc xương nữa, Aaka đứng lên và dẫn Amy quay lại hang. Vậy là một rào cản lớn đã được vượt qua. Julie nhắm mắt lại và thở phào nhẹ nhõm. Mọi việc đang rất tiến triển.

Ngày hôm sau khi Kapu và Zing lên đường đi săn, Aaka lại dẫn Amy tới chỗ Julie. Julie nhặt khúc xương và huơ huơ trước mặt Amy, nó ngoạm lấy và lắc lấy lắc để. Họ co kéo và đuổi nhau trong khi Aaka bước ra và duỗi mình trong nắng. Nó nhắm mắt lại để nói rằng rốt cuộc nó hoàn toàn tin tưởng Julie.

- Tao vuốt ve mày được chứ? - Julie thì thào với Amy.

Con sói non xoay đầu đầy tò mò và Julie nhẹ nhàng chìa tay rồi vùi những ngón tay mình vào lớp lông mềm. Cô gãi gãi cái đầu nhỏ bé và đôi tai nhọn. Amy nhắm mắt lại và Julie rụt tay về. Amy thúc đầu nó vào tay cô đòi gãi nữa. Julie lại âu yếm nó, rồi chìa khúc xương ra. Amy ngoạm lấy, lôi thật mạnh, và buông ra. Julie lại ngã ngửa, và lần này con sói non nhảy chồm lên người cô. Amy ăng ẳng, còn Julie cười vang, cả hai lăn lộn trên bãi cuội. Aaka chẳng hề ngẩng đầu lên.

Được một lúc, Aaka đứng lên, lắc người, duỗi mình, và ngáp. Rồi, chẳng hề nhìn lại, nó ve vẩy đuôi và chạy đi.

Aaka lao vút ra lãnh nguyên như một con chim xổng chuồng. Nó chạy thành vòng tròn, đuổi theo những hạt cói bông, rồi biến mất sau khúc quanh trên sông. Julie đứng lên, tim cô đập rộn, niềm hy vọng của cô dâng cao. Cô nhìn thấy Aaka băng mình trên lãnh nguyên lần theo dấu Kapu và Zing. Julie thấy rằng cô sắp chiến thắng. Aaka tin tưởng để cô làm người trông trẻ.

Amy chơi với khúc xương được một lúc, rồi trườn vào lòng Julie. Nó rên ư ử và Julie hát vang những bài hát của mình cho tới khi con chó con thở phào và chìm vào giấc ngủ say. Khi đó Julie bế nó lên và đưa nó trở lại hang.

Em bé của cô đã ngủ say, Julie cầm khẩu.22 và đi vào bụi cỏ. Cô sục sạo một lúc mới nhìn thấy một con chim ptarmigan và bắn nó. Đây cũng là một phần kế hoạch của cô. Khi cô trở lại hang, Amy đã thức dậy. Nó hít ngửi con chim, lắc lắc con mồi, rồi thả xuống và nhìn Julie như hỏi nó nên làm gì với con mồi.

Julie vặt lông chim và đưa cho con chó con một miếng ngon. Amy liếm liếm, rồi ngoạm lấy trong hàm răng sắc nhọn của mình và nhai nuốt. Nó quay lại xin thêm. Lần này Amy nhận cả con chim, rồi ăn sau khi đã nghiền vụn, cả xương xẩu và tất thảy, bằng hàm răng và bộ vuốt nhỏ bé nhưng rất khỏe của mình.

Con sói non quyết định để một chiếc cánh làm đồ chơi. Nó lắc cái cánh trước mặt Julie. Khi Julie chộp lấy, Amy giằng đi và chạy thành vòng tròn. Julie đánh lừa nó bằng cách chìa khúc xương tuần lộc ở một tay. Amy buông cái cánh chim để lấy khúc xương, và Julie lấy được cái cánh. Thấy thế Amy ngồi xuống. Nó sẽ không chơi nữa, thậm chí khi Julie đưa cái cánh cho nó. Suốt thời gian còn lại khi những con sói săn mồi vắng mặt, Amy phớt lờ Julie.

- Mày không thích như vậy, có phải không Amy? - Julie nói với nó. - Mày không thích bị đánh lừa. Tao xin lỗi nhé.

Để đền bù sai lầm của mình, Julie cho nó một miếng thịt tuần lộc khô. Amy nhìn qua thứ đó như thể miếng thịt chẳng hề tồn tại. Thậm chí nó dường như chẳng hề thấy Julie. Những lúc như thế này, tâm trí của con sói đi đâu nhỉ? Julie thắc mắc. Tít ra lãnh nguyên ư? Hay ra phía sông? Cô không biết nữa.

Ngày hôm sau Amy lại chơi đùa. Những gì đã hiện diện trong tâm trí sói của nó hôm qua chẳng hề hiện diện ngày hôm nay. Nó rời khỏi những con sói trưởng thành và nô đùa với Julie, nhai dây ủng của cô, vòi vĩnh được gãi và âu yếm. Khi cả hai đã thân thiết như chị em, Julie mới nhẹ nhàng, dịu dàng bế nó lên. Con sói non nép mình lại. Julie liếc nhìn Aaka. Nó nằm nghiêng hoàn toàn chẳng bận tâm. Julie vô cùng phấn khởi. Cô đưa Amy xuống sông. Kapu và Zing thức giấc, duỗi mình, ngáp, và lắc mình. Sau một tiếng tru ngắn, chúng tất tả chạy đi săn mồi. Aaka đi cùng chúng, mặc kệ Amy trên tay Julie. Julie đã là một thành viên của đàn sói.

Khi đàn sói về hang, bụng chúng tròn vo vì thức ăn và chúng ngủ một lúc lâu. Cuối cùng, khi chúng tỉnh dậy, Kapu mở màn nghi thức thủ lĩnh. Nó làm việc này vào mỗi buổi sáng của loài sói. Nó đứng vượt trên Zing, con này cúi đầu và liếm má Kapu. Rồi Kapu ngậm lấy mõm nó và lắc nhẹ. Aaka tiến lại gần, tai cụp, đầu cúi, và Kapu nghểnh đầu vượt hẳn đầu nó. Con sói cái liếm liếm nó ở dưới cằm và dọc theo cổ nó để nói rằng nó là một thủ lĩnh tuyệt vời. Kapu, như mọi con sói đầu đàn, rất cần sự cam đoan từ bầy đàn của nó. Xong việc này, nó thong thả chạy tới chỗ cao nhất trên bờ sông, tạo tư thế thật đĩnh đạc, và tru lên. Zing và Aaka cũng tru theo. Amy kêu ăng ẳng. Chúng đang hát bản nhạc của mình suốt nhiều phút. Suốt bản hòa tấu, lũ chim ồn ào im bặt còn bọn sóc đất rút xuống những đường hầm và hang ngầm chằng chịt của chúng. Khi chúng kết thúc, Zing quay sang Aaka và ngoạm lấy mõm nó để nói với nó rằng mình có địa vị cao hơn con sói cái.

Aaka nhanh chóng chấp nhận điều đó.

Buổi tối hôm đó khi những con sói săn mồi đi vắng, Julie đặt Amy vào ba lô của mình và mang nó đi dọc bờ sông để tìm một con chim khác làm thức ăn. Con sói non không hề tìm cách chui ra khỏi ba lô; thay vào đó, nó nhìn ngó thế giới xung quanh, dường như rất thích thú với chỗ ngồi trên cao của mình. Julie đi cả một quãng dài mà chẳng tìm được bất kỳ thứ gì và bắt đầu quay về hang sói thì thấy một con sóc đấu nhào xuống một trong rất nhiều lối vào thành phố ngầm của nó.

- Peter - cô nói. - Em đang nghĩ tới anh.

Rồi cô rút chiếc còi ra khỏi áo và thổi.

Eeekk-chirp. Hai con sóc đất ló đầu ra khỏi một cái hang. Cô lại thổi. Thêm ba con nữa xuất hiện. Cô càng thổi, càng có nhiều sóc xuất hiện. Amy kêu ăng ẳng và Julie đặt nó xuống đất. Cô lại thổi còi; một cái đầu nữa ló lên. Con sói non vồ tới, và tất cả đám sóc đất biến mất.

- Một món quà thật đặc biệt, anh Peter - cô nói, và cười khanh khách. - Thứ này sẽ rất có ích.

Kapu, Aaka, và Zing trở về, lần này bụng chúng trống không Julie đi tới khu vực sóc đất và thổi còi. Lũ sóc đất nhô lên. Đàn sói trông thấy, ve vẩy đuôi, và ăn ngấu nghiến.

- Ee-lie, Kapu - cô nói khi nó đã ăn no nê - đến lúc đi thôi.

Những đám mây lướt nhanh trên bầu trời màu xanh dương. Lũ chim đang bay về tổ để chăm lũ chim con đói bụng. Julie thu xếp hành trang của mình.

Cô nhấc Amy lên và đặt vào ba lô. Khi Julie lên đến đỉnh bờ sông phía trên hang sói, Aaka mở mắt ra. Julie cứ đi tiếp. Aaka đứng lên. Nó cảm nhận được một thái độ mới ở Julie. Kapu tỉnh giấc. Zing đứng lên. Tất cả đều nhìn Julie đi về phía nam cùng với Amy trong ba lô của cô. Aaka tong tả đi theo họ.

Kapu bám theo, rồi đến Zing.

Con sói non của chúng đang đi đâu đó, và chúng sẽ đi cùng nó.

Julie ngoái lại những người bạn của mình.

- Chúng ta sẽ có một chuyến đi dài tới vùng núi - cô nói. - Bọn tuần lộc ở đó. Các bạn có thể ăn no nê.

Cô đi nhanh hơn. Kapu, Aaka, và Zing cũng đi nhanh hơn.

⚝ ✽ ⚝

Mới đầu Julie nghĩ thứ ánh sáng trắng rực rỡ ở chân trời là những đám mây hắt ánh mặt trời, nhưng khi cô đi tiếp, chúng trở nên rắn chắc và cô nhận ra mình đang nhìn thấy Dãy núi Brooks hùng vĩ. Cô dừng lại để nghỉ và đón nhận cái sức mạnh tinh thần của dãy núi; rồi cô đi tiếp về phía nam theo hướng sông Colville.

Trong lúc đi, cô hát bài “Miền Viễn Bắc” và “Hạt đậu chạy lách tách!” - bài hát cô đã sáng tác năm ngoái trên lãnh nguyên. Amy và những người thân ủ rũ của nó dường như lắng nghe và mỉm cười theo lời hát của cô. Thỉnh thoảng một cái đuôi lại ve vẩy khi cô hát một nốt cao.

Cô tìm kiếm phân tuần lộc và dấu móng của chúng. Dấu móng thường là những hình bán nguyệt, bị chẻ ở giữa và dài khoảng mười phân. Móng huyền ở chân trước sẽ để lại hai chấm phía sau mỗi vệt chân. Cô không hề thấy dấu hiệu tuần lộc.

Đàn sói kiên nhẫn đi theo con sói non của mình. Chúng không bận tâm nhiều về chuyện tại sao Amy lại nằm trong ba lô. Nó vẫn trong tầm mắt, và chỉ cần có vậy là được. Chúng thong thả đi theo, vừa nhìn ngắm cảnh quan vừa hít ngửi không khí.

Thỉnh thoảng Kapu lại chạy một vòng rộng để tìm thú săn. Nó đã tới vùng đất này nhiều lần. Nó và đàn của nó, cũng như những con sói khác của Bắc Cực, biết rõ mọi hồ nước, bụi cỏ, và động vật cỡ lớn trên lãnh thổ rộng lớn của chúng. Kapu có thể kiểm tra cả một vạt lãnh nguyên rộng lớn chỉ bằng mũi của mình, vì nó có thể ngửi thấy mùi con mồi từ cách xa hơn mười dặm.

Julie rất mừng trước khứu giác thấy tất cả của Kapu. Đàn tuần lộc hẳn phải đâu đó rất gần. Một con non không đi lang thang xa khỏi mẹ nó, và cái mũi của Kapu có thể “thấy” chúng từ rất xa trước mắt cô. Cô khẩn trương đi tới.

Amy im lặng nằm trong ba lô. Con sói non đã đủ lớn để chú ý đến tiếng nói của quyền lực. Một tiếng gừ, một tiếng rít, hay một tiếng sủa gắt từ Julie, là Amy sẽ thôi tìm cách ngoi ra khỏi ba lô và nằm im.

Cái bầu đoàn kỳ lạ ấy vượt gần ba mươi dặm trong một quỹ đạo mặt trời rồi mới chịu dừng lại ngủ. Đàn sói không hề mệt mỏi, nhưng Julie thì mệt. Cô ngồi xuống một gò đất ẩm có cỏ mọc và duỗi hai chân ra. Cô nhai thịt tuần lộc khô và cảm nhận sự trường cửu của dãy núi vươn cao phía trên mình. Trong những hàng cây xanh thẫm kia là nơi trú ngụ của thế giới hoang dã. Chúng sống cuộc đời của mình ở đó, sinh sôi và cứ thế tiếp tục. Cô rất thích dãy núi.

Dưới chân cô, lũ chim nhỏ bé kêu liếp chiếp, nhào xuống và bay quanh cô, nhắc cho cô nhớ đến một trận bão tuyết. Muỗi kêu vo ve nhưng không hề đốt. Cô chẳng hề có mùi với giống muỗi to lớn Bắc Cực. Một giống muỗi nhỏ hơn sẽ gây bệnh cho cô khi cô đến Colville trừ phi cô thoa kín mình bằng dầu cá, thứ cô đã nhớ mang theo.

Julie nghỉ lại, nhưng đàn sói thì không yên. Chúng đi tới đi lui, hít ngửi và xoay xoay tai. Một lúc sau, chúng nằm xuống, tai vểnh lên.

Khi chúng có vẻ đã yên, Julie bế Amy ra khỏi ba lô và đưa nó tới chỗ Aaka để bú. Nhưng Aaka không thể cho nhiều sữa. Nó đã không được ăn no suốt nhiều tháng. Sau vài lần mút đầy khó chịu, Amy bỏ cuộc. Nó nhìn quanh tìm Kapu và rúc mũi vào khóe miệng bố để đòi thức ăn. Cái dạ dày trống rỗng. Bố nó chẳng có gì để cho nó. Amy rên rỉ đau khổ. Julie đứng lên, nạp đạn khẩu.22, và đá đám cỏ.

Cô trở lại với một con thỏ chân tuyết và đưa nó cho Aaka. Con sói cái xé con mồi và chia cho Amy. Kapu và Zing ngủ để bảo tồn năng lượng.

Julie cũng đi ngủ. Cô ngả tấm da tuần lộc của mình ra và thiếp ngủ khi chưa kịp cởi ủng. Nhiều tiếng sau, cô bị đánh thức bởi tiếng kêu ai oán của một con cắt lớn. Cô ngồi dậy. Lũ cắt ăn rất nhiều vịt và ngỗng. Vịt và ngỗng sống nhờ nước. Tiếng con cắt nói với cô rằng cô và đàn sói của mình đang ở gần sông Colville - và lũ tuần lộc.

Đột nhiên con cắt gập cánh và lao vút về phía đông. Một túm lông xoay tròn trong không trung, và Julie nhổm quỳ lên. Kapu ngẩng đầu, đánh hơi, rồi đứng hẳn lên. Nó lao vút về phía con mồi của con cắt. Con cắt đập cánh khi Kapu đến gần và bay lên, bỏ lại con ngỗng. Kapu tiến lại chỗ đó và dùng miệng ngoạm lấy. Rồi nó thả xuống và chạy trở lại chỗ nghỉ. Nó nằm xuống và liếc nhìn từng thành viên trong đàn như nói: «Tôi không lấy thứ đó - anh chị em cũng đừng lấy.»

Con cắt lượn trở lại. Nó đã nhìn thấy Kapu bỏ đi khỏi bữa ăn của nó và nằm xuống. Khi Kapu nằm im, con cắt mới đáp xuống con mồi của mình như một vì sao băng. Dùng móng vuốt chộp lấy con mồi, nó đập đôi cánh khỏe của mình và lao vút đi