← Quay lại trang sách

PHẦN III THIẾU NỮ MIYAX

TRÊN ĐƯỜNG VỀ NHÀ, JULIE LẦN THEO LỐI ĐI CỦA MÌNH và đàn sói băng ngược qua lãnh nguyên. Sương mù đã tan và cô có thể nhìn thấy con đường mòn lẫn trong cỏ mà đoàn của cô đã tạo ra. Thêm vào đó, những túm lông sói vướng trên đầu bông anh túc và cỏ như những lá cờ trắng đánh dấu lối đi.

Cô đi chưa được xa thì đã nghe thấy tiếng đàn quạ cất lên hồi chuông báo tử. Cô dừng lại lắng nghe. Át cả bài ca của quạ là những giọng sói báo hiệu sự kết thúc của một sinh mệnh và sự tiếp tục của những sinh mệnh khác. Con nai sừng tấm đã hiến dâng cho đàn sói. Cô mỉm cười. Đàn bò xạ được an toàn. Nếu tuần lộc quay lại vào mùa thu này thì công việc của bố Kapugen sẽ chẳng mấy mà phát đạt.

Cô vui vẻ đi. Khi sự mỏi mệt ập đến, cô nằm xuống tấm da tuần lộc và nhanh chóng thiếp ngủ. Cô ngủ trong tiếng chim hót và tiếng chồn trò chuyện suốt cả lúc đổi gió và mây đỏ tía hiện tại cận điểm của vầng dương lúc nửa đêm.

Cô thức giấc bởi tiếng cười của lũ cáo. Bốn con cáo con đang bồn chồn nhảy nhót xung quanh cô. Mắt chúng lấp loáng trong ánh nắng lúc giữa trưa trong khi chúng kéo ủng và găng của cô. Cô ngồi dậy. Không thấy cáo bố mẹ.

- Cáo con ra khỏi hang - cô nói to lên. - Tháng Sáu đã hết. Em bé sẽ sinh ngày năm tháng Bảy - và mình muốn có mặt ở đó.

Cô hất ba lô lên vai và rảo bước. Lũ cáo con bám theo cô cho tới khi một con chim ptarmigan bay lên; rồi chúng quay lại và đuổi theo nó trên những đôi chân dài nhanh nhẹn.

Có tiếng sói hú. Tiếng hú phát ra ngay trước mặt, chứ không phải sau lưng cô. Đầy cảnh giác, cô dừng lại. Hóa ra Kapu vẫn đi theo cô. Nó đi trước để dò đường. Nó không được làm vậy. Cô thụp xuống trên cả bốn chi sẵn sàng nhìn vào mắt nó và buộc nó phải quay lại bằng một cái trừng mắt. Một tràng hú nữa. Julie đứng lên và bật cười.

- Bố Kapugen - cô kêu to, và vùng chạy. - Con đây. Con đây.

Ở khoảng xa mịt mờ, cô nhìn thấy cái dáng bè bè của cha mình. Ông dắt theo CB có xích và phải ngả người ra sau để cố ghìm con chó lại.

Họ gặp nhau mừng rỡ đến mức CB cũng cảm thấy hân hoan. Nó chào đón Julie trước tiên, nhảy cẫng lên và liếm má cô. Cô ôm lấy nó, rồi chạy ào vào vòng tay bố Kapugen.

- Đàn bò an toàn rồi - cô nói. - Đàn sói đã có nai sừng tấm để săn.

- Nai sừng tấm; chúng tìm được nai sừng tấm - ông nói với vẻ vô cùng hài lòng. - Đó là tin rất vui, phải. - Ông lại ôm lấy cô. - Giờ bố có tin vui cho con đây.

Julie chờ đợi.

- Con có em trai rồi. - Mắt Kapugen sáng lên dịu dàng.

- Một cậu em trai - Julie nói. - Đó là một tin vui, phải. Bố đặt tên em là gì?

- Amaroq.

Julie không nói lên lời. Cô đưa mấy ngón tay lên môi và nhìn vào mắt cha mình.

- Chẳng có gì lạ cả - Kapugen nói, khi nhìn vẻ sững sờ của cô. - Phong tục của người Eskimo là đặt tên của một linh hồn đã khuất cho một em bé mà. Khi ấy em bé sẽ trở thành linh hồn ấy.

Cô cau mày, nhưng ông nói tiếp.

- Bằng việc đặt cho con trai mình tên con sói đầu đàn tuyệt vời của con, Amaroq, bố nói rằng em sẽ giống như nó. Bé Amaroq sẽ tự mình đi săn, em sẽ đi săn cho gia đình mình, và em sẽ bảo vệ bộ lạc của mình trước mọi kẻ thù. Cũng như con sói, em sẽ hòa hợp với vũ trụ.

Julie biết rất rõ tập tục atiqs, tức tên trùng tên, của người Eskimo. Những em bé thường được đặt tên của những người đã khuất. Bà cô Martha được đặt theo tên một người bạn đã mất, và gia đình người bạn nghĩ bà cô Martha chính là bé gái ấy.

- Con là bà nội của ta - gia đình sẽ nói với bé Martha, và không ai nghĩ thế là kỳ cục. Linh hồn của Martha vẫn hiện diện. Đó chính là em bé.

- Con thấy lạ lẫm sao? - Kapugen hỏi sau khi Julie im lặng khá lâu.

- Con hiểu việc đặt tên cho một em bé theo tên một người yêu thương hoặc một con tuần lộc tuyệt vời hay một con gấu Bắc Cực khỏe mạnh - cô trả lời. - Nhưng bố đặt tên em bé theo tên một con sói bố không thích và đã giết chết. Con không hiểu điều đó.

- Bố ngưỡng mộ Amaroq - ông nói. - Nó chết để cứu cả làng Kangik.

- Luật Minnesota ư? - Julie hỏi khẽ.

- Luật Minnesota.

Julie đứng một lúc lâu cố gắng chấp nhận cái chết của sói Amaroq bằng việc nhắc đi nhắc lại với chính mình: “Mọi việc là vậy”, cách nói của người Eskimo đem lại sự chấp nhận và bình yên. Cuối cùng cô nhìn bố Kapugen.

- Em bé sẽ rất xuất sắc - cô nói. - Và - cô nhìn phóng ra lãnh nguyên - em bé sẽ là cha nuôi của con.

Cô lại một lần nữa nhìn thấy con sói đen vĩ đại. Đầu nó ngẩng cao, và sự thông minh bừng lên trong ánh mắt nó. Nó vừa mới hạ một con tuần lộc gần trại của cô.

Cô mỉm cười và nghĩ đến người trùng tên với nó.

- Tóc em bé có đỏ không? - Cô tò mò hỏi.

- Đen như mây gió vậy.

- Còn mắt em?

- Còn đen hơn con trăng mới.

- Vậy em là Amaroq - Julie nói. - Điều đó thật tốt.

- Da em trắng hồng - Kapugen nói. - Bố hy vọng da em không bị nứt nẻ và phồng rộp vì nắng và lạnh.

- Ernest Adams cũng không như vậy - Julie nói. - Ông nội bé ấy là một thợ săn cá voi da trắng lưu lạc đến Bắc Cực. Bé ấy da trắng, nhưng không hề bị nứt nẻ và phồng rộp.

Kapugen cười.

- Con nói đúng, phải - ông nói, lắc lắc đầu. - Bố không nên lặp lại định kiến này. Nhiều người Eskimo có tổ tiên người da trắng, và họ không hề nứt nẻ và phồng rộp hơn so với những người còn lại trong chúng ta.

Ông cười khùng khục và cúi xuống để gom cỏ khô.

Kapugen dọn sạch một khoảnh nhỏ trên mặt đất và chất cỏ lên. Phía trên ông xếp cành khô mà ông gom được trên những bờ suối dọc đường; củi để nhóm lửa được cuốn xuống từ trên núi, nơi nhiều cây cối còi cọc mọc lên. Ông đánh một que diêm vào đám cỏ và ngọn lửa bùng lên, liếm vào chỗ củi trôi, và bùng lên thành một đống lửa. Ông mở một hộp thịt hầm lớn mua ở cửa hàng, và khi than đã nóng đỏ, ông đặt hộp thịt lên trên.

- Dì Ellen có khỏe không ạ? - Julie hỏi khá muộn.

- Dì rất khỏe và hạnh phúc - Kapugen nói.

- Em Amaroq sinh lúc nào ạ? - Cô hỏi.

- Ngày mười lăm tháng Sáu - Kapugen nói. - Em sinh hơi sớm. Em khiến chúng ta ngạc nhiên, giống như tay thợ săn cừ khôi em mang tên.

- Bố có chở dì Ellen bay tới bệnh viện không? - Julie hỏi, giờ háo hức muốn biết mọi chi tiết về việc cậu em cha nuôi của mình chào đời.

Kapugen lắc đầu.

- Con sói non quyết định ra đời vào ngày sương mùa hè phủ kín. Bố không thể bay được.

- Thế bố đã làm sao?

- Bố chạy đi tìm bà Uma. Bà ấy đã đến.

- Bà Uma biết rất nhiều về trẻ con - Julie nói.

- Đúng vậy, phải - Kapugen trả lời, khuấy thịt hầm bằng con dao săn của mình. - Và bà biết tri thức của người Eskimo. Bà xoa bụng dì Ellen bằng lông sói. Bà nói như thế sẽ cho dì Ellen sức mạnh của sói cái. Đó là sức mạnh siêu việt - ông nói, và mỉm cười. - Điều đó làm cho việc sinh nở dễ dàng và tình yêu của dì dành cho em bé luôn mãnh liệt.

- Chuyện xảy ra như vậy ạ? - Julie hỏi đầy hy vọng.

- Chuyện xảy ra như vậy. Sáu tiếng sau, em bé chào đời và dì Ellen ôm em vào ngực với tình yêu mãnh liệt.

- Dì sẽ như vậy, phải - Julie nói. Cô có thể hình dung ra hình ảnh dì Ellen và cậu bé có mái tóc đen như mây gió.

- Chính khi đó bố biết em bé là Amaroq. Em sẽ là một người tuyệt vời.

Julie trải tấm da tuần lộc của mình và nằm sấp dài ra. Cô nhìn đống lửa và nghĩ về bé Amaroq. Tên em gắn kết tất cả họ với nhau: cô, em bé, dì Ellen, bố Kapugen, đàn bò, và đàn sói cô đã dẫn đi xa. Giờ họ là một gia đình.

- Aapa - Julie chậm rãi và thận trọng nói - sẽ sao nếu đàn sói trở lại và giết thêm một con bò xạ nữa? Giờ chúng ta có thêm Amaroq bên chúng ta, bố sẽ vẫn theo luật Minnesota chứ? Bố sẽ vẫn giết chúng à?

- Bố phải làm việc đó - ông nói.

- Cho dù chúng ta có một con sói non trong nhà ư? Bố sẽ giết những người anh em tinh thần của em.

- Công việc kinh doanh lại theo một luật khác - ông nói. - Chúng ta phải bảo vệ công việc kinh doanh như đàn sói bảo vệ con mồi, cây cỏ và gia đình mình.

- Như thế rắc rối thật - Julie nói, và cau mày.

- Đó chính là thế giới hiện đại của chúng ta - Kapugen nói.

- À, Aapa - cô nói, nhìn lại phía dãy núi. - Con hy vọng tuần lộc sớm trở lại.

Khi ăn xong món thịt hầm, Julie và bố Kapugen cùng nằm xuống trên tấm da ngủ của mình và kéo mũ trùm áo parka phủ lên mắt để tự tạo ra màn đêm. Những âm thanh của tháng Bảy lanh lảnh trên lãnh nguyên, khi lũ chim non hát những đoạn ca khúc của bố mẹ chúng còn bọn sóc đất chạy hối hả sau những bụi quả mọng.

Julie nhắm mắt lại, nhưng cô không thể ngủ ngay. Cô đang nghĩ về bé Amaroq - và Peter.

Cô tỉnh giấc vài tiếng sau bởi tiếng rền rền kéo dài của động cơ trực thăng. Cô ngồi dậy. Không khí rung động. Gió cuộn lên từ cánh quạt máy bay khiến tóc cô rối bời và hắt bụi vào mặt cô. Cô nhổm lên trên cả bốn chi và nhìn chiếc máy bay, động cơ rền vang, bắt đầu hạ xuống cách đó không quá hai mươi mét.

Kapugen đứng lên và vẫy tay để báo với phi công ông và con gái mình ở đây. Phi công đã nhìn thấy ông, gật đầu, cho máy bay bay lên và hạ xuống cách xa hai trăm thước. Kapugen và Julie nhìn hai người đàn ông trèo ra khỏi khoang lái và đi về phía họ.

- Xin chào - người cao hơn nói.

- Xin chào.

- Tôi khá ngạc nhiên tìm được hai người ở đây. Xin lỗi vì đã làm phiền hai người. - Người đàn ông cởi mũ bảo hiểm và kính râm, và Julie nhận ra ông ấy là một người da trắng.

- Tôi là một nhà sinh học - ông ấy nói. - Tên tôi là David Bradford. Đây là phi công kiêm trợ lý của tôi, Mark. Chúng tôi đang nghiên cứu nai sừng tấm. Tôi đã đeo vòng cổ vô tuyến lên chúng để có thể theo dấu chúng và biết được số lượng và sự phân bố của chúng.

Kapugen gật đầu.

- Có một con nai sừng tấm đeo vòng ngay gần đây - ông ấy nói. - Tôi nghe được tín hiệu trên máy thu của tôi. - Ông ấy cười khùng khục. - Nhưng hóa ra con nai sừng tấm lại là hai người.

- Tôi đời nào lại là một con nai sừng tấm - Kapugen nói, mắt ông lấp loáng - và con gái tôi, Julie, cũng không phải nai. Các anh không biết một con nai sừng tấm khi các anh nhìn thấy nó ư? - Kapugen cười to. - Đùa vui đấy. Nhà sinh vật tìm thấy hai người Eskimo và nghĩ họ là nai sừng tấm.

- Tôi phải thừa nhận là vậy - David nói, và cũng cười. - Chúng tôi nghe được tín hiệu và lần theo. Khi nghe rõ mồn một, tôi nhìn xuống và thấy một đám lông lớn. “Nai kìa” tôi nói với Mark vậy. Khi bạn háo hức xem nai sừng tấm, bạn sẽ thấy một con - ông ấy nói, và lại cười. - Nhân tiện, hai người đã thấy một cái vòng cổ vô tuyến chưa? Nhiều khi chúng rơi mất và nằm trên mặt đất.

Julie lục ba lô.

- Các vị đang tìm cái này phải không? - Cô hỏi, giơ cái vòng cổ lên.

- Ôi chao - David nói - tuyệt quá. Cô tìm thấy nó ở đâu vậy?

- Cháu tìm thấy trên cổ một con nai sừng tấm non - cô nói. - Ít nhất cháu nghĩ đó là một con nai sừng tấm. Con vật chết đã lâu và tơi tả, nên cháu chỉ có thể phỏng đoán thôi. - Cô nhìn ông ấy vẻ tinh nghịch. - Khi bạn háo hức xem nai sừng tấm, bạn sẽ thấy một con.

David mỉm cười và nhận lấy chiếc vòng cổ.

- Tôi đeo cái này lên một con non mới một tháng trước - ông ấy nói. - Tôi tự hỏi con vật đã chết như thế nào? Chó sói, tôi đoán vậy.

- Chú ở chỗ nào khi chú đeo cho nó? - Julie hỏi.

- Dọc sông Colville cách đây khoảng hai mươi dặm về phía tây nam ở vùng trũng sông.

- Vậy thì chắc nó bị gấu xám giết thịt.

- Chó sói - David nói rất quả quyết. - Tôi đã nhìn thấy một đàn ở khu vực đó.

- Không phải sói - Julie nói. - Từ Wainwright tới Colville chỉ có một đàn, và cháu biết chúng rất rõ. Chúng sẽ không đi xuống vùng trũng sông. Cấm kỵ.

- Tôi chắc cô biết rất nhiều về sói, cô Julie - David nói, mỉm cười vẻ nhún nhường.

- Julie thực sự hiểu về sói - Kapugen xen ngang - trong khi anh sẽ chẳng bao giờ biết về chúng đâu. Hãy tin con bé đi.

David vẫn mỉm cười vẻ tự mãn.

- Dave! - Mark lên tiếng - người này là Kapugen. Ông ấy là một thợ săn và một doanh nhân cừ khôi. Anh có thể tin tưởng ông ấy và con gái ông ấy. Người ta nói cô ấy bị lạc trên lãnh nguyên và sống cùng với chó sói nên mới sống sót được đấy.

- Thật vậy ư? - David hỏi với vẻ thán phục hơn.

- Đúng vậy - Kapugen nói.

Vẫn còn ngờ vực, David lấy cuốn sổ tay ra, tìm ngày ông ấy gây mê và đeo vòng cho con nai con, rồi viết ngày tìm thấy. Sau khi đọc la bàn, ông ấy ghi lại vị trí hiện tại của họ và cả tên của Julie. Ông ấy không điền dòng cuối cùng - CHẾT như thế nào.

- Cô có nghĩ cô có thể chỉ cho tôi trên bản đồ địa hình này vị trí cô tìm thấy thiết bị không? - Ông ấy hỏi Julie.

- Cháu có thể làm được - cô trả lời. Bố Kapugen cũng có một tấm bản đồ như vậy trên tường trong phòng ngủ của ông.

- Chúng ta đang ở đây - David nói, chỉ tay. - Và đây là nơi tôi đeo vòng cho con nai con. - Ông ấy chỉ một điểm trên sông Colville. Đồi núi mọc hai bên bờ sông - qua khỏi đó núi rất cao. Đó chính là khu vực Julie đã dẫn đàn sói của mình tới. Giờ phải tìm cái hang sói non trên bản đồ. Cô lần theo đường khe cạn bằng ngón tay.

- Đây - cô nói, chỉ tay. - Con nai con cách Colville khoảng ba mươi dặm.

- Gấu xám - David thay đổi quan điểm. - Sói mang thức ăn cho con non trong dạ dày. Chúng không mang con mồi tới cho con non.

- Vậy gấu xám mang thức ăn tới cho con của chúng à? - Kapugen hỏi.

- Thành thật mà nói - David nói với chút bối rối - tôi không biết. Có lẽ không phải. Mồi bị sói săn.

- Đó không phải là mồi sói săn - Julie nói. - Cháu thấy qua ghi chép của chú ngày chú đeo cái vòng cổ lên con nai sừng tấm, thì đàn sói đang ở làng Kangik.

- Làm sao cô biết chuyện như vậy? - David vặn.

- Chúng đã hạ một con bò xạ - Kapugen trả lời.

- Và - Julie nói tiếp - đàn sói không đi xa khỏi Colville khi con nai con bị giết. Một con sói non mới sinh trên sông Avalik vào khoảng thời điểm đó.

- Tại sao một con gấu lại tha xác con mồi đi xa vậy? - David trầm ngâm.

- Có lẽ không phải vậy - Julie trả lời. - Sau khi giết được nó, chắc chắn nó kéo cái xác vào sâu trong đất liền tới chỗ con của nó. Chúng ăn no say và bỏ lại, dự định sẽ quay lại. Một cái xác thú là cả kho báu với nhiều loài vật. Có thể một con cáo đã tha đi, một con đại bàng cũng kéo đi, nhưng cháu đoán rằng đàn sói tìm thấy nó và mang trở lại cho con sói non của chúng để chơi. Chúng mang đồ chơi bằng miệng. Bốn mươi dặm chỉ là một cuộc đi chơi với sói thôi.

- Và làm thế nào cô tìm được nó?

- Bằng mũi của cháu - cô cười trả lời, biết rằng cô chỉ nói một phần sự thật.

David viết “Chết vì gấu xám” mà không hỏi thêm rồi cảm ơn Julie. Ông ấy rất hài lòng với thông tin cô cung cấp.

- Đưa hai người về nhà thì sao nhỉ? - Ông ấy hỏi.

Julie rất muốn. Cô chưa bao giờ đi bằng trực thăng cả.

- Có được không, Aapa? - Cô hỏi.

- Các ông có chỗ cho con chó không?

- Nếu ông ôm nó trên lòng - Mark trả lời.

- Tôi sẽ làm vậy, phải - Kapugen nói.

David và Mark đi về phía máy bay.

- Vừa nói đến gấu - Kapugen nói - thế là có ngay một con. - Ông ra hiệu.

Aklaq, con gấu xám, và hai con non to lớn của nó ở bên kia chiếc trực thăng. Mark rút súng trường khỏi bao.

Con gấu xám đứng hẳn trên hai chân sau. Cái lưỡi đỏ lòm của nó nổi bật trên màu trắng của bộ răng to tướng. David nhảy vào máy bay. Mark quay sang Julie.

- Lên đi - anh ấy nói. - Tôi sẽ dọa nó chạy đi.

Con gấu xám gầm gừ. Rồi nó hạ chân xuống đất và chạy thẳng về phía chiếc trực thăng. CB sủa và gầm gừ. Kapugen nhấc nó lên và ủn nó vào khoang. Mark luồn phía dưới cánh quạt máy bay và tì súng lên vai.

Julie vung cánh tay, ra hiệu “con người”.

Khẩu súng nổ vang.

Một phát đạn nữa tiếp theo. Con gấu gầm lên và xù lông bờm, rồi lại đứng trên hai chân sau. Mark chưa kịp nã phát đạn thứ ba, Julie đã vẫy tay với con aklaq và hét to. Cô tiến về phía con gấu, đầu cúi thấp, dọa con gấu xám kềnh càng. Ngạc nhiên trước sự hung tợn của cô, con aklaq hạ xuống trên cả bốn chân. Thị lực nó rất kém, nhưng mũi nó là những cảm biến tầm xa. Nó ngửi thấy mùi thuốc súng và thông điệp của Julie. Bản năng sâu thẳm nhất của nó dằn lại. Nó vòng trở lại chỗ đàn con, rồi quay người và đứng lên. Nó lại sẵn sàng tấn công nữa.

Julie xua nó, con aklaq hạ đôi chân to tướng có những cái vuốt dài lấp loáng xuống và bình thản bỏ đi như chẳng có gì xảy ra. Mấy con gấu con lon ton chạy theo sau.

- Tốt lắm - Julie nói, và đi lùi trở lại phía trực thăng để không kích thích con gấu đuổi theo. Cô nhặt ba lô lên và leo lên khoang bên cạnh bố Kapugen. CB liếm má cô.

- Làm thế nào con biết cách làm như vậy? - Kapugen hãnh diện hỏi cô. - Bố không biết con lại biết cách đuổi được gấu.

- Đàn sói đã dạy con - cô nói.

Ông gật đầu hiểu ý, mắt ông lấp loáng niềm vui.

Động cơ máy bay gầm lên, những cánh quạt quay đều, và Julie được nâng bổng lên khỏi lãnh nguyên.

Khi chiếc trực thăng ầm ầm bốc lên không trung, Julie nhìn thấy con aklaq và con của nó lũn cũn đi về phía nam theo hướng Colville. Một con quạ chấp chới bên trên chúng chờ cơ hội lũ gấu bắt được một con lữ thử hay bắt được một ít cá.

Kapugen, bằng giọng đủ to để có thể át tiếng ầm ầm của cánh quạt trực thăng, hỏi David liệu ông ấy có phiền bay xuống sông Colville trước khi về nhà không. Ông muốn xem liệu có con tuần lộc lẻ loi nào ở chân núi mà ông và Malek có thể săn không. David gật đầu và bảo Mark đổi lộ trình. Ông ấy cũng cần thông tin về tuần lộc.

Cỗ máy ồn ào chao nghiêng, treo lơ lửng trên không như một con hải yến, rồi vút về phía dãy Brooks. Nhìn xuống dưới, Julie có thể thấy hàng dặm đỉnh núi. Tất cả đều trắng xóa và lởm chởm như răng cá hồi. Thật tuyệt vời, cô nghĩ bụng, khi được là một loài vật sống sót trong vẻ đẹp nghiệt ngã như thế.

Mark rà máy bay thật thấp khi anh theo vệt cây trên núi. Sau nhiều dặm không nhìn thấy con tuần lộc nào, Kapugen ra hiệu cho Mark bay về Kangik, và anh ấy xoay máy bay về phía bắc. David ngoảnh lại chỗ Kapugen ở ghế sau.

- Tuần lộc dạt hết về phía đông qua Vịnh Prudhoe - ông ấy hét to. - Vài con đi về phía nam, nhưng không đi về phía Kangik.

- Chúng phải đến - Julie thì thầm một mình. - Chúng phải đến Kangik mùa thu này.

- Những sinh vật rắc rối - Kapugen nói với David. Quay sang Julie, ông nói: - Ta đi thăm em bé nào.

Cô nheo mắt sung sướng.

Chiếc trực thăng đáp xuống trên đường băng kim loại phía trước lều Quonset. David, giờ rất ấn tượng với Julie - đặc biệt vì cách cô xử lý con gấu - bắt tay cô và mời cô đến Fairbanks với Kapugen một ngày nào đó. Ông ấy sẽ cho cô xem thiết bị tiếp sóng vô tuyến và những biểu đồ ông đã lập được cho từng con nai sừng tấm mà ông đeo vòng. Ông ấy sẽ nói với cô nhiều điều về thói quen của nai sừng tấm. Rồi ông ấy nói thêm: “Hoặc có khi cô kể với tôi ấy.” Mỉm cười, ông ấy vẫy tay từ biệt và đóng cửa máy bay.

Julie nôn nóng vẫy tay cho tới khi con bọ kim loại nhấc bổng lên khỏi mặt đất và bay đi; rồi cô chạy về nhà. Kapugen sải bước theo cố bắt kịp cô.

- Dì Ellen - cô gọi khi chạy vào phòng khách. - Amaroq. Em bé đâu ạ?

- Suỵtttt - em đang ngủ - dì Ellen nói, nhón chân đi tới cái nôi da tuần lộc treo thả từ trần. Cái mũi và trán của cậu bé tí xíu là tất cả những gì Julie nhìn được bên dưới tấm chăn lông cáo trắng mềm mại.

- Amaroq - Julie thì thầm. - Amaroq.

Làn da mịn màng của em bé hồng hào hơn là trắng, nhưng mái tóc cậu bé thì đen hoàn toàn, rất đen. Cặp lông mi đen uốn cong trên đôi má tròn bầu bĩnh.

Julie đứng im trước em bé một lúc, sau đó khe khẽ hát:

- Em là cha nuôi của chị. Chân chị nhảy vì em. Mắt chị nhìn vì em. Óc chị suy nghĩ vì em. Và suy nghĩ với sự ra đời của em. Sói và người Eskimo lại là một!

Julie nhìn bé Amaroq một lúc lâu. Rồi cô quay sang dì Ellen:

- Con bế em lên được không?

- Không, không - dì Ellen cảnh báo. - Chớ bao giờ đánh thức một em bé đang ngủ, mẹ dì luôn bảo vậy.

Julie không hề nhìn thấy bố Kapugen cho tới khi ông đến cạnh cô.

- Amaroq, Amaroq - ông hát khi với tay vào nôi và nhấc cậu bé lên.

- Không, không, anh Kapugen - dì Ellen trách. - Làm ơn nào, để nó ngủ. Nó sẽ lại bỏ mất nề nếp đấy.

Kapugen đu đưa cậu bé trên tay mình, hôn lên đôi má mềm của bé, và trao em cho Julie. Cô ôm chặt cậu bé vào lòng đầy yêu thương.

- Ellen yêu dấu - Kapugen nói, choàng tay qua vai dì - trẻ con chẳng có nề nếp nào ngoại trừ tình yêu thương và yêu thương nhiều hơn nữa.

- Ôi, anh Kapugen - dì Ellen nói. - Con chúng ta phải có kỷ luật hoặc nó sẽ lại quậy như con nhà Uma mất.

- Quậy hơn nhiều ấy chứ - Julie nói, hôn em bé. - Em là Amaroq, con sói non. Em sẽ nhảy nhót và vật lộn, thậm chí cắn xé. Em sẽ chạy đến nơi nào em thích nhanh như gió.

Em bé mở bừng mắt. Đôi mắt bầu dục còn đen hơn cả con trăng mới và đầy vẻ tò mò. Bé nhìn thẳng vào Julie như thể bé biết mình là cha nuôi của cô.

Dì Ellen đưa tay để giải cứu cậu bé của mình. Nhìn thấy cảnh đó, dì rất thất vọng, Julie đặt Amaroq trở lại nôi và đu đưa nhè nhẹ để ru em ngủ.

- Dì Ellen - Julie nói khẽ, chẳng hề rời mắt khỏi em bé - bé Amaroq sẽ nhảy nhót, gầm gừ và lăn lộn. Em sẽ chạy tung tăng ra lãnh nguyên như một con tuần lộc non. Dì sẽ nghĩ là em nghịch ngợm, nhưng em sẽ ổn. Tất cả những gì dì cần làm là cất tiếng gọi như một con sói mẹ, và em sẽ lại trở lại. Con đã chứng kiến điều này.

- Anh cũng đã chứng kiến cảnh này, phải - Kapugen nói, kiểm tra lại dây chiếc nôi mà ông tự làm để em bé có thể đung đưa giữa mọi hoạt động sống.

Dì Ellen nhìn con mình rồi nhìn Julie.

- Julie - dì nói - dì có cảm giác con tin linh hồn con sói của con nằm trong con trai dì.

- Đúng vậy - Julie nói không chút bối rối. - Đây là Amaroq.

Cô vỗ về cái đầu nhỏ xíu của bé.

- Em không cảm thấy sức mạnh của thằng bé ư? - Kapugen nói, cầm lấy tay dì Ellen và áp vào em bé. - Nó rất khỏe. Nó sẽ nhấn chìm những nhu cầu cá nhân của mình vì sự tốt đẹp của tất cả. Đó là những gì con sói đã làm. Sói là động vật duy nhất hiểu vũ trụ. Con người không hiểu điều đó, chỉ có Amaroq.

- Mới đầu - dì Ellen nói - em không nghĩ anh thật sự tin linh hồn Amaroq ở trong con chúng ta. - Dì lùi khỏi chồng. - Giờ thì em thấy đúng là anh tin như vậy.

- Vốn vậy mà - Kapugen nói.

Ông ngồi xuống những tấm da hải cẩu và dịu dàng kéo dì Ellen xuống cạnh mình. Julie bắt chéo chân và duyên dáng ngồi xuống.

- Nhắm mắt lại đi, Aaka - Julie nói. - Bố Kapugen và con có một câu chuyện kể cho dì.

Dì Ellen bíu lấy tay Kapugen và nhắm mắt lại.

- Em thấy cái chóp băng vùng cực chứ? - Kapugen nói, rất chậm rãi. - Em thấy trái đất phình lên quanh đỉnh thế giới chứ?

Dì Ellen gật đầu.

- Dì ở trên Cực Bắc nhìn xuống - Julie chậm rãi nói. - Có một đất nước trên đó. Alaska, Canada, Siberia, Greenland, Lappland, tất cả như nhau. Dì thấy chứ?

- Có - dì Ellen nói. - Như là một đất nước khi ta nhìn xuống quả cầu thay vì nhìn lên như những tấm bản đồ của chúng ta vẽ ra.

- Dì thấy tuyết, gió và các loài vật chứ? - Julie hỏi.

Dì Ellen gật đầu, mắt vẫn nhắm chặt.

- Đã từng - Kapugen nói tiếp - có hai con sói chạy giỡn. Khi đó chẳng hề có người và cũng không có ánh sáng. Trái đất lộn ngược trong bóng tối. Một hôm có một con quạ đến chỗ lũ sói và bảo chúng hãy giữ chặt. Con quạ bay lên, và khi nó bay, nó xoay trái đất lại phía ánh sáng. Sói trở thành người Eskimo. Đó là lý do chúng ta rất giống chúng. Chúng ta đi săn theo nhóm giống sói. Chúng ta có những thủ lĩnh giống như sói, và chúng ta yêu quý trẻ con như sói yêu thương con của chúng.

- Kể từ đó cứ vậy - Kapugen nói tiếp, cảm thấy Ellen vẫn chưa thể hiểu hết lời mình - rất dễ dàng cho chó sói gửi linh hồn của nó vào một đứa bé khi chúng ta lấy tên nó đặt cho đứa bé. Trẻ con và linh hồn chó sói sống hạnh phúc.

- Amaroq ở đây - Julie nói, vỗ về em bé. Cô lấy cái totem từ trong túi và giơ lên cho dì Ellen thấy. - Dì nhìn này, nó đã rời khỏi totem.

Dì Ellen nhìn, rồi thở dài, cố gắng lĩnh hội.

- Giờ, Ellen yêu quý - Kapugen chậm rãi và thận trọng nói - hãy làm con sói một lúc đi.

Dì cau mày khi cố gắng thử.

- Giờ, hãy mở mắt ra. Nhìn xem, Amaroq chính là đứa bé đó, đây.

Đôi mắt xanh xám của dì Ellen chớp chớp, rồi mở lớn. Dì nhìn từ Julie sang Kapugen và rồi đứa con đang ngủ của mình.

- Em yêu cả hai bố con rất nhiều - dì nói vẻ bất lực. - Nhưng có vài điều dường như em không hiểu. Hai bố con thấy những điều em không thấy. - Những giọt mồ hôi to như hạt sương đọng trên trán dì và chảy dọc xuống lọn tóc chỗ tai dì. - Em phải cố gắng giống như một người Eskimo hơn.

- Không - Kapugen chỉnh vợ. - Bố con anh phải giống em hơn. Để tồn tại trên thế giới vùng cực bây giờ, bố con anh phải tham gia vào những công việc của em và học ngôn ngữ của em.

Julie nhìn cha mình vẻ dè chừng.

- Như thế cũng có nghĩa là chúng ta cũng phải theo luật Minnesota ạ? - Cô hỏi, giọng cô thấp và đầy lo sợ.

- Cũng phải vậy - Kapugen nói, và Julie hiểu rằng vì sự tốt lành cho làng, ông đã chấp nhân luật lệ Minnesota và trái tim ông đã đông cứng quanh đó. Cô rất đau đớn. Khi đàn sói của cô trở lại - và chúng sẽ trở lại; đây là lãnh thổ của chúng kia mà - Kapugen sẽ bắn hạ chúng. Ông đang nói với cô như vậy.

Bé Amaroq tỉnh giấc với tiếng khóc và cả nhà lập tức vận động. Kapugen ôm em bé trong khi dì Ellen đun nước để tắm và chỉ cho Julie cách mặc tã giấy cho bé.

Peter xuất hiện ở cửa. Vì chẳng ai nghe thấy anh gõ cửa, nên anh tự mình đi vào. Anh đứng yên lặng một lúc.

- Julie - cuối cùng anh nói, bước lại chỗ cô và thì thầm vào tai cô. - Đàn sói an toàn chưa? Em có dẫn chúng tới chỗ thú săn không?

Cô ngạc nhiên quay lại, rồi cười chính mình vì đã quá mải mê với em bé.

- Ee-lie, em làm được rồi. - Cô nói, hạnh phúc nhìn anh. - Đến đây và gặp Amaroq Kapugen nào. Nó chỉ có một cái tên Eskimo thôi.

Bẽn lẽn, Peter đi qua phòng, nhìn xuống cậu bé đang quẫy đạp và kêu khóc trên bàn.

- Cậu bé là một con sói đầu đàn nhỏ bé - anh nói, và Julie cùng Kapugen đều cười vang vì thích thú.

- Em chịu thua - dì Ellen nói. - Thằng bé là Amaroq. Cháu cũng nói vậy à, Peter?

- Dĩ nhiên rồi ạ - Peter nói.

Peter nhặt cái trống lắc bạc mà mẹ dì Ellen gửi từ Minnesota tới và lắc lắc, gõ vang một điệu trống Eskimo. Kapugen bắt đầu hát, còn Julie ư ử, và cậu bé con khe khẽ ọ ọe khi nghe những âm thanh của cái thế giới mà cậu vừa được sinh ra trong đó.

Khi bé Amaroq đã được tắm rửa, mặc quần áo, cho bú, Peter cầm lấy tay Julie và dìu cô sang gian qanitchaq. Anh đóng cửa lại và hôn lên môi cô. Tim cô đập thình thịch và hai má nóng ran. Cô lùi lại. Vậy ra đây là những gì dì Ellen muốn chỉ khi dì nói dì và bố Kapugen yêu nhau. Cho đến giờ cô mới hiểu.

- Julie - Peter nói bằng giọng hạ thấp - giờ đàn sói đã ở rất xa, anh có thể tiếp tục với các kế hoạch của mình rồi.

- Kế hoạch gì? - Julie hỏi.

- Anh sẽ đi học ở Fairbanks. Anh đã được nhận vào Đại học Alaska.

Julie cảm thấy nhói lên vì thất vọng, điều Peter nhanh chóng nhận ra trong mắt cô.

- Sẽ ổn thôi - anh nói, ôm lấy khuôn mặt cô trong bàn tay anh. - Chúng ta sẽ ở bên nhau. Dì Ellen đã gửi hồ sơ của em tới trường trung học ở Fairbanks. Dì nói em sẽ được nhận.

- Nhưng em không thể đi - cô nói, lấy lại bình tĩnh.

- Em phải đi chứ - anh nói.

- Đàn tuần lộc còn xa tít tận biên giới Canada, anh Peter.

- Thế nghĩa là sao?

- Nghĩa là chúng sẽ không đi qua Kangik. Đàn sói sẽ trở lại, và khi chúng trở lại, bố Kapugen sẽ bắn chúng.

- Không thể khác được - Peter nói. - Em phải đi học. Em muốn đi học. Anh cảm nhận được vậy.

- Phải - cô trả lời. - Đúng vậy. - Cô mở cửa gian qanitchaq ngoài và họ thả bộ ra ngoài nắng. - Em muốn học để làm một giáo viên dạy tiếng Yupik và tiếng Inupiat cho trẻ em Eskimo để chúng không đánh mất bản sắc của mình. Chúng sẽ quên ngôn ngữ mất, anh biết không.

- Vậy thì em phải đi cùng anh.

- Ai sẽ chăm sóc bò xạ cùng với bác Malek khi anh và em đi vắng? - Cô hỏi. - Bố Kapugen quá bận.

- Bố Malek đã mời một người chăn bò trẻ tuổi tới Kangik - Peter nói.

- Em phải ở lại đây - cô nói.

Peter trầm ngâm khi họ đi bộ về phía bờ sông không cây cối.

- Em có thể đi học ở Barrow, Miyax - anh nói. - Chỗ đó không xa theo đường không. Em có thể về nhà dịp cuối tuần và chăm sóc đàn bò.

- Barrow ư? - Julie đột ngột ngồi xuống chiếc xuồng của Kapugen.

- Có chuyện gì sao? - Anh hỏi, ngồi bên cạnh cô. - Có vẻ em sợ. Nói anh nghe nào.

Julie hít một hơi.

- Em từng sống ở Barrow. Em đã lấy chồng - cô nói. - Bọn em lấy nhau theo phong tục Eskimo cũ, một sự thỏa thuận giữa các ông bố bà mẹ. - Cô nhìn anh. - Em không hạnh phúc. Chúng em chưa bao giờ là bạn đời.

Peter cầm lấy tay cô.

- Ở Provideniya em sẽ không phải lấy chồng. Hai người phải đồng ý mới kết hôn cơ.

- Bọn em không thế - Julie quyết liệt nói. - Đó là lý do em bỏ ra lãnh nguyên. Bọn em còn quá nhỏ và em không sẵn sàng lấy chồng. Em rời Barrow để đi bộ tới Mũi Hy Vọng và đón tàu đi San Francisco. Em sẽ cảm thấy không thoải mái ở Barrow - cô nói.

- Một lý do chính đáng để đi học ở Fairbanks - Peter nhiệt thành nói.

- Chưa được.

- Có phải vì đàn sói? - Peter hỏi.

- Đó là một lý do - cô nói. - Nhưng em có thể học được nhiều điều từ dì Ellen. Dì có rất nhiều sách và âm nhạc.

Cả hai im lặng một lúc lâu.

- Tới Fairbanks đi, Miyax - Peter dịu dàng nài nỉ.

Julie đứng lên và mỉm cười.

- Anh Peter - cô nói bằng giọng rành rẽ - hãy nói với bác Malek em sẽ chăm sóc đàn bò xạ khi anh đi vắng.

- Chúng ta yêu nhau mà - anh nói, đứng lên và nhẹ nhàng kéo cô đứng dậy. Anh choàng hai cánh tay quanh người cô, và cô nép đầu vào ngực anh.

- Em phải ở lại Kangik - cô trả lời.

Peter hôn cô thật nồng nàn, rồi nâng cằm cô lên cho tới khi anh nhìn thẳng vào mắt cô. Cô nhìn lại anh không hề chớp mắt.

- Em nói đúng - anh nói, buông tay xuống sườn. - Anh có thể thấy rằng em không thể đi học trong năm nay. Anh sẽ nhớ em! - Anh nhìn đi như thể thấy tương lai của mình giờ hơi khác một chút. - Anh sẽ học hành chăm chỉ; rồi anh sẽ trở về cưới em và chúng ta sẽ gây dựng công việc của mình. Chúng ta là những người giỏi hợp tác.

Julie mỉm cười và nhìn dòng sông. Nó chảy đen xì qua vùng đất.

- Khi nào anh đi, Peter?

- Tuần sau anh đi. Chú Kapugen sẽ đưa anh đi. Anh sẽ tìm một chỗ để sống và làm việc cho tới hết tháng Tám, khi lớp học bắt đầu. Anh sẽ cải thiện tiếng Anh của mình. - Anh cầm lấy tay cô. Cô cảm thấy áp lực những ngón tay ấm áp của anh; rồi mắt anh bừng lên nét tươi sáng.

- Chúng ta sẽ cần có thời gian rồi mới kết hôn, Miyax yêu dấu - anh nói.

- Thật lạ lùng, Peter - cô trầm ngâm nói. - Em thấy em đã hơi quen với văn hóa người da trắng. Em tức giận bố Kapugen vì chấp nhận luật lệ Minnesota của người da trắng, nhưng em thấy tập quán đủ già dặn mới kết hôn của họ là chuyện rất hay. Đó là một kế hoạch tốt mà các gia đình da trắng có.

Tay ôm choàng lấy nhau, họ bước về phía sông và nhìn những vệt sáng vụt nhanh qua trên những con sóng giống như bắc cực quang. Peter gãi gãi đầu.

- Miyax - anh nói - anh vẫn nghĩ em nên đi học cùng anh. Chú Kapugen sẽ không bắn Kapu đâu, giờ nó có quan hệ với ông ấy thông qua con trai của chính ông, bé Amaroq. Như thế sẽ khó cho ông làm vậy.

- Nhưng bố sẽ làm - Julie nói. - Vì bố tin người da trắng đúng khi nghĩ về sói và con mồi.

- Điều đó thì anh không hiểu - Peter nói. - Chú Kapugen biết chúng ta phải sống cùng thiên nhiên, chứ không phải điều khiển nó.

Julie nhìn chàng trai cao lớn có gò má cao và nước da bánh mật này và biết cô yêu anh rất nhiều. Cô cũng biết anh sẽ trở về vì cô khi cô sẵn sàng.

Peter rời khỏi Kangik. Anh hôn tạm biệt Julie, ôm cô chặt đến mức cô băn khoăn phải chăng những lề thói cũ của người Eskimo không phải đã là tốt nhất. Sẽ còn nhiều năm nữa cô mới học xong trung học và đại học. Những lề thói của người da trắng, cô thở dài trầm ngâm, không phải là lề thói của tự nhiên.

Nhưng tự nhiên không chi phối ở Kangik. Đàn bò xạ phải được cho ăn, và dì Ellen cần được hỗ trợ khi có bé Amaroq. Rồi đàn sói - đàn sói vẫn ở đâu đó ngoài kia trong gió và cỏ cây, và nếu tuần lộc không trở lại trong đợt di cư tháng Mười, chúng sẽ là mối đe dọa với bò xạ và vì thế với chính chúng nữa.

Gần như buổi tối nào Julie cũng đi tới tận sông và hú lên những tiếng gọi “Tớ là Julie đây” của mình. Rồi cô đợi, nín thở và lắng nghe. Khi đàn sói không trả lời, cô lại thở phào. Đêm đó chúng không trở lại.

Đầu tháng Chín, tuyết rơi và đọng lại trên mặt đất. Đó là tháng tuần lộc trút bỏ lông nhung trên sừng của chúng. Dòng sông đóng băng và quá trình đóng băng diễn ra khắp Bắc Cực.

Vào một buổi chiều quang đãng, một giọng nói trên bộ đàm CB cho biết “có rất nhiều aiviq ở một cái vịnh nhỏ phía bắc Mũi Icy.” Đây là một tin vui với làng Kangik. Hải mã không phải là loại thực phẩm được ưa thích, nhưng rất bổ dưỡng và, may mắn cho dân làng, không ở quá xa.

Hải mã cưỡi trên những tảng băng nổi của Bắc Băng Dương cứ xoay vòng bất tận theo chiều kim đồng hồ quanh chỏm băng của vùng cực. Khi Kapugen nghe tin chúng xuất hiện ở Mũi Icy thì chúng đã trên đường di chuyển từ các bãi kiếm ăn mùa hè ở Bắc Băng Dương tới các vùng nước mùa đông ở Biển Bering. Ở đó, chúng sẽ lặn tìm sò và quẩn quanh dọc các bờ biển cho tới khi băng vỡ lại đưa chúng lên phía bắc.

- Atik, chào anh, Atik. Anh nghe thấy tôi nói không? - Kapugen nói qua bộ đàm CB. - Chúng ta đi bắt aiviq cho làng Kangik thôi.

- Tôi nghe rồi, Kapugen. Kế hoạch hay đấy, phải.

Kapugen đóng cương đàn chó vào một chiếc xe kéo chất đầy dụng cụ cắm trại và săn bắt, rồi móc theo chiếc xe trượt chở chiếc thuyền da hải cẩu của mình. Phấn chấn sắp tiến hành chuyến săn bắt cuối cùng trong năm, ông vào trong nhà tìm Julie.

- Miyax - ông nói - con sẽ đi với bố chứ? Chúng ta có thể cần con giúp cắm trại và chăm nom đàn chó.

Cô tụt khỏi iglek, rất vui khi được hỏi. Rồi cô ngập ngừng.

- Thế ai sẽ giúp dì Ellen? - Cô hỏi.

- Cô Uma đang tới - Kapugen nói. - Cô cũng sẽ chăm nom đàn bò xạ khi chúng ta đi vắng.

Julie vẫn do dự.

- Ee-lie, cô bé Miyax - ông nói, mắt sáng ngời. - Bố đã nói chuyện với David Bradford. Ông ấy nói ông ấy đã thấy đàn sói Kangik ngày hôm qua.

- Chúng ở đâu ạ?

- Tít dưới vùng trũng đánh chén một con nai sừng tấm. - Ông mỉm cười. - Con làm cho chúng thành những con sói hạnh phúc.

Nghe những lời đó, Julie nhanh nhẹn mặc quần áo ấm, thật sự rất phấn khởi được ra biển băng, ngôi nhà tinh thần của những người Eskimo Yupik.

Bé Amaroq kêu la và cô bế cậu lên, vỗ vỗ vào phần lưng đầy đặn của em và khe khẽ ru bé. Dì Ellen vội vàng ra khỏi phòng ngủ.

- Cứ để nó khóc, con yêu - dì nói. - Nó phải học tuân thủ giờ giấc và kỷ luật.

Julie tôn trọng những yêu cầu của dì Ellen. Dì hôn em bé và đặt bé trở lại nôi, rồi vội vã đi vào gian qanitchak để đi ủng. Dì không thể chịu được khi nghe cậu bé khóc.

Trong ánh sáng yếu ớt của buổi chiều muộn, Julie, bố Kapugen, và chú Atik lên đường băng qua lãnh nguyên đông cứng. Đêm đó họ dừng lại tại một điểm cắm trại thường xuyên được sử dụng của các thợ săn Eskimo. Chiều hôm sau, họ đến khu vịnh.

Julie giúp chú Atik dựng lều ngủ trong khi bố Kapugen bò lên một cái gò phía trên bãi biển. Ông trườn về và nói ông đã đếm được chín con hải mã trên một tảng băng gần bờ.

- Chúng ta sẽ bắt bao nhiêu con? - Atik hỏi ông.

- Hai con - Kapugen trả lời. - Chúng ta chỉ cần vậy.

- Nhưng ngà - Atik nói. - Hai bộ ngà sẽ kiếm được một nghìn bốn trăm đô la cho công ty. Sáu cặp là bốn nghìn hai trăm đô la đấy.

- Hai thôi - Kapugen nói, đầu ngẩng cao như một con sói đầu đàn.

Atik hiểu vấn đề đã được ấn định và không nói thêm nữa.

- Miyax - Kapugen nói, quay sang Julie - bố cần con giúp nhé. - Có một con hải mã cái trên tảng băng có con non đang gặp rắc rối. Nó bị ngã vào một khe nứt. Khi chúng ta nổ súng, đàn hải mã sẽ nhảy xuống biển và con hải mã non sẽ bị kẹt lại. Chúng ta quá bận không thể cứu nó được. Con phải cố gắng thôi.

- Con sẽ cố gắng - cô nói. - Con không biết nói tiếng của hải mã, nhưng chắc chắn chúng biết tiếng Yupik. Chúng vẫn nghe từ khắp mọi phía của Bắc Băng Dương suốt mười nghìn năm rồi.

Kapugen mỉm cười với cô.

- Hải mã biết rống như bò - Atik nói, và nháy mắt.

- Ta đi thôi - Kapugen nói, nằm ẹp xuống để tránh tầm mắt của đàn hải mã. Julie và Atik theo ông. Ánh sáng vẫn còn đọng lại thêm vài tiếng nữa, mặc dù mặt trời đã lặn. Thời điểm này trong năm, mặt trời chiếu sáng mặt đất cho tới gần chín giờ. Nhiệt độ là dương năm độ. Họ trườn tới bờ dốc không một tiếng động. Đột nhiên có một tiếng rống rất lớn. Julie ngẩng đầu lên. Kapugen chống tay nhổm dậy. Đàn chó sủa khe khẽ như nói rằng chúng không dám chắc có chuyện gì trong ánh sáng nhập nhoạng. Có một tiếng rống đau đớn.

- Đó là tiếng kêu tuyệt vọng - Kapugen nói, và cả ba, dùng cùi chỏ và ngón chân để đẩy, im lặng trườn lên cái gò ven bờ. Trên đỉnh gò, họ nhìn ra mặt biển đóng lớp băng mỏng và chín con hải mã trưởng thành trên một tảng băng gần bờ. Tám con đực; con còn lại là một con hải mã cái to lớn, cổ và vai nó nung núc những tảng mỡ. Nó đang rống và đập mạnh tảng băng. Những chiếc nanh của nó, hai chiếc ngà trắng to tướng sáng loáng, là những lưỡi rìu của nó. Những vụn băng to như những con ngỗng tuyết bay tung trong không trung khi nó tìm cách cứu con của mình thoát khỏi khe nứt. Những cái chân chèo sau rất linh hoạt của nó làm trụ đỡ khi nó vận động. Nó đang phá khối băng trước mặt.

Gần nó là hai con đực khổng lồ.

Kapugen nhìn Atik. Atik nhìn Kapugen. Mắt Kapugen nói, “Bắn,” và họ nổ súng. Mọi việc kết thúc rất nhanh. Hai con đực chết. Đúng như Kapugen dự liệu, số còn lại trong đàn nhảy ùm khỏi tảng băng và phá toang lớp băng xốp lao xuống một đợt nước màu tía. Tất cả, trừ con mẹ. Nó không chạy đi. Hoàn toàn chẳng chú tâm đến những phát súng hay những đồng loại đã chết của nó, nó tiếp tục phá băng để giải cứu con của nó.

Nó cứ tiếp tục vậy khi Kapugen và Atik chạy xuống mép nước với chiếc xuồng da. Nó cũng chẳng hề ngừng mọi nỗ lực điên cuồng của mình khi Julie bước lên xuồng cùng với các thợ săn và quạt mái chèo.

Kapugen nhảy lên tảng băng và cột con hải mã của mình. Atik thì cột con còn lại. Julie bò tới trước cố gắng tròng dây vào con hải mã con và kéo nó ra khỏi khe nứt. Thấy vậy, con hải mã cái trở nên lo lắng. Nó gầm rống với Julie và Kapugen, nó há rồi khép miệng rất nhanh đồng thời lại phát ra những âm thanh như tiếng búa khoan. Rồi nó vờ tấn công.

Kapugen và Julie đứng im. Con hải mã trừng trừng nhìn họ qua khóe mắt thê lương của nó, quay đi, và điên cuồng chém mé bên kia của khe nứt. Trong khoảng thời gian chưa bằng Julie buộc sợi thừng của mình để quăng tới, cặp ngà khổng lồ đã phá xong mé gần biển của tảng băng. Con hải mã non được tự do. Nó nhảy ùm xuống nước. Con hải mã mẹ cũng nhảy xuống theo nó, nâng nó lên trên lưng mình, và bơi đi.

- Công việc của con chỉ có vậy - Julie nói, nhìn con hải mã mẹ và con của nó. - Nó chẳng cần bất kỳ sự giúp đỡ nào.

Cô mỉm cười đầy ngưỡng mộ.

Kapugen đặt tay lên vai Julie. Cô ngước lên và thấy đôi mắt ông loáng thoáng những điều mơ màng khi ông nhìn theo con hải mã mẹ chẳng chút sợ hãi đang bơi đi. Ngay cả sau khi nó biến mất giữa những tảng băng, Kapugen vẫn không rời mắt khỏi đốm băng nơi nó biến mất. Cuối cùng ông lên tiếng.

- Có lần các già nói với bố thế này - ông chậm rãi nói. - “Tất cả chúng ta đều có liên hệ với nhau.” - Ông làm hiệu về phía con hải mã mẹ tận tâm. - Chúng đều ổn, thật vậy.

- Vâng - Julie nói. - Chúng đều ổn, đúng vậy ạ.

Có gì đó vừa xảy đến với Kapugen, Julie nhận ra như vậy. Ở đây trên vùng bờ biển vắng vẻ và trơ trọi này, con hải mã mẹ đã mang ông trở lại từ thế giới của người da trắng. Cô luồn tay mình vào tay ông, và những ngón tay run rẩy của cô ấm áp hẳn.

Đột nhiên họ gặp nguy hiểm lớn. Một nửa của tảng băng đã biến mất, và cái nửa nơi họ đứng trên đó đang nghiêng đi. Mấy con hải mã đực đã được buộc dây trượt về phía biển. Kapugen nhẹ nhàng thả một con xuống nước bằng sợi dây, cố gắng ổn định tảng băng, nhưng đã quá muộn. Nó bắt đầu lật ngược. Atik nhảy xuống xuồng và kéo con hải mã của mình xuống biển. Kapugen bế bổng Julie lên, tung cô xuống xuồng, và nhảy theo sau.

Họ chậm rãi chèo về phía bờ, hơi vất vả bởi mấy con hải mã nặng cả tấn. Phía sau họ, tảng băng tiếp tục nghiêng đi cho tới khi nó thẳng đứng như một con cá voi vọt lên khỏi mặt nước. Rồi nó đổ ụp xuống. Julie nhìn thấy nó sắp bổ nhào xuống con hải mã của Atik và kéo chiếc xuồng cùng những người thợ săn xuống biển. Với động tác rất nhanh, cô cắt phăng sợi dây bằng con dao ulu của mình. Tảng băng đổ rầm xuống con hải mã đực, nó biến mất khỏi tầm nhìn. Kapugen nhìn Julie vẻ biết ơn.

Họ cho thuyền lên bãi biển. Kapugen và Atik nhảy lên bờ và kéo con hải mã còn lại tới chỗ an toàn. Nhất thời, ba người thợ săn đứng im lặng nhìn con vật khổng lồ, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình.

Sau một lúc im lặng đầy kính trọng, Kapugen rút con dao của mình ra và bắt đầu mổ bụng nó. Ông thò tay vào trong cơ thể ấm nóng, tìm quả tim, rồi mang tới mép biển.

- Hỡi aiviq vĩ đại - ông nói. - Ta mượn thân xác của ngươi. Thịt của ta sẽ là của ngươi. - Ông ném trái tim xuống những con sóng. - Ta trả lại linh hồn ngươi cho biển. Ta lại sinh ngươi lần nữa.

Khi nghi thức tôn kính xong xuôi, Kapugen và Atik bước lên xuồng và chèo ra để vớt con hải mã kia. Giết một con vật mà không sử dụng nó là điều không hay. Họ chèo quanh tảng băng tìm kiếm dưới nước nhưng không tài nào tìm được con hải mã đã chết.

- Ta xin lỗi, aiviq - Kapugen nói bằng giọng trầm thấp, chậm rãi. - Ta xin lỗi đã bỏ phí ngươi. Ta sẽ đi quanh nhà bốn lần khi ta trở về để tự trừng phạt vì đã để mất ngươi.

Julie lắng nghe và cảm thấy bình yên hẳn. Đây chính là người cha mà cô vẫn nhớ.

- Ta cũng xin lỗi, aiviq - Atik nói. - Da của ngươi đáng ra là lớp bọc thuyền tuyệt vời, bộ lòng của ngươi là đồ đi mưa, thịt của ngươi thành thịt của ta. Ta xin lỗi.

Khi họ lên bờ lại, Kapugen và Atik gỡ lấy cặp ngà trắng nhẵn thín, rồi xả con vật khổng lồ thành từng phần cho làng Kangik.

- Anh vẫn có thể làm được bộ bọc thuyền đấy - Kapugen nói với bạn mình khi họ khiêng tấm da tới chỗ xe trượt. - Món này dành cho anh.

Atik mỉm cười cảm ơn. Ngôn ngữ người Eskimo vốn không có từ “cảm ơn.” Người ta không cho đi để được cảm ơn. Người ta cho đi để làm vui chính mình; việc đó không cần đến sự cảm ơn.

Khi tấm da đã ở trên xe trượt và thịt đã gói ghém xong, Atik nhặt bộ lòng và bọc lại.

- Uma sẽ làm cho bé Amaroq một cái áo mưa từ bộ lòng này - ông ấy nói. - Cô ấy sẽ làm vậy nếu tôi mang được một con aiviq về nhà.

Trong màn tối như bưng, Atik nhóm chiếc bếp Coleman đặt một tảng thịt hải mã lớn vào nồi để chuẩn bị bữa tối thu hoạch. Julie cho đàn chó ăn khẩu phần của chúng. Chúng ăn một cách vui vẻ, đuôi ve vẩy. Những vì sao chiếu sáng như những ngọn đèn bạc khổng lồ khi đoàn thợ săn ăn uống và mặt trăng di chuyển vòng tròn trên bầu trời. Kapugen ngước nhìn với vẻ im lặng trầm tư.

Sáng hôm sau, nhóm thợ săn gói ghém thịt, ngà, lều và đồ đạc rồi cho đàn chó hướng về Kangik.

- Hut - Julie hô, CB dẫn đầu, cất tiếng sủa và nhảy cẫng lên, rồi họ khởi hành về Kangik tràn ngập sinh lực của con hải mã.

Ngày trở nên ngắn hơn rất nhanh.

- Taggaqtugik - Julie nói với dì Ellen hôm mùng một tháng Mười Một. - Thế nghĩa là tháng mọi hồ nước đóng băng và dì có thể nhìn thấy bóng mình trên băng!

- Đẹp lắm - dì Ellen nói, vỗ vỗ lưng Amaroq nằm trên vai mình.

- Đó cũng là tháng - Julie nói - khi tất cả cá voi ở phương nam trong biển Bering, khi những con gấu vùng cực có mang vào đất liền để đào hang trong tuyết. Đó là tháng hải cẩu bơi dưới băng biển và những loài chim duy nhất còn lại với chúng ta là cú tuyết và chim uria [14] .

- Ngoại trừ bắt cá trên băng - dì nói - thời kỳ thu gom thức ăn đã kết thúc.

Mặt trời không mọc vào ngày mười tám tháng Mười Một, và mọi thứ chuyển sang màu xanh lam - tuyết, các dấu chân, và những bóng râm. Đêm Bắc Cực là một bảng các gam màu lam.

Julie, dì Ellen, và bé Amaroq đến trường các ngày trong tuần. Dì Ellen để em bé vào một tấm da gấu bắc cực rất ấm trên bàn, và các bài học bắt đầu.

Có bé Amaroq truyền cảm hứng cho giáo viên, mười đứa trẻ đủ mọi lứa tuổi học những câu tiếng Anh như “Em bé nhìn ngón chân mình” và “Em bé cần thay tã”. Từ Julie, chúng học cách nói câu tương tự trong tiếng Inupiat và Yupik. Julie cũng cho chúng xem cách cộng năm ngón tay em bé với năm ngón tay em bé để thành mười. Sau phép tính này cô dạy tiếp bài học về cách trừ bốn ngón chân em bé từ năm ngón. Dì Ellen dạy chúng hát bài “Miền Viễn Bắc.”

Một bài học quan trọng được Sở Giáo dục Dốc Bắc nghĩ ra. Mỗi trẻ được nhận mười đô la. Với số tiền này, chúng mua tất tại Công ty Trường học Kangik. Rồi bà Marie đến trường kinh doanh bánh rán Eskimo. Bà trả tiền bột và nguyên liệu bằng cách viết ra một tờ hóa đơn công ty, trả bằng tiền đầu tư của bọn trẻ. Bà và bọn trẻ trộn và làm bánh rán. Khi làm xong, bọn trẻ chạy khắp các phố trong làng, cứ bám theo các ngọn đèn đi xuyên màn tối về nhà, và bán bánh rán cho các gia đình Kangik. Với số tiền thu được, chúng trả cho công ty tiền nguyên liệu. Rồi mỗi đứa trẻ được trả năm xu hoa hồng. Số còn lại là tiền lãi. Nó thuộc về công ty. Bằng cách này, chúng học về cách công ty bản địa vẫn đang hỗ trợ người Eskimo và người da đỏ ở Alaska kể từ năm 1971.

Một lá thư của Peter gửi cho bọn trẻ làng Kangik về đến trường vào một ngày tháng Mười Hai, và dì Ellen đề nghị Julie đọc to lên.

Các bạn thân mến - bức thư mở đầu. - Tôi ở Fairbanks trong một phòng sinh viên ở khuôn viên Đại học Alaska. Chúng tôi ăn trong một phòng ăn lớn và lên lớp học. Tôi học bốn môn - tiếng Anh, sinh học, toán, và xã hội học. Mỗi môn là một lĩnh vực khác nhau.

Miyax đề nghị tôi kể với các bạn về làng tôi ở Siberia. Đến đó bạn sẽ thấy như ở nhà. Nó rất giống làng Kangik. Bố tôi mặc áo maklak và áo trùm parka, săn gấu bắc cực và hải mã. Mẹ tôi mặc trang phục truyền thống và nấu đồ ăn cho chúng tôi. Ở Nga, chúng tôi phải mượn súng từ chính phủ khi chúng tôi đi săn. Chúng tôi phải mang vỏ đạn rỗng về khi chúng tôi trả lại súng. Vì lý do ấy, bố tôi dùng bẫy và giáo đi săn.

Tôi nhớ tất cả các bạn. - Julie chưa kịp dừng lại thì cô đã đọc: Nhắn Julie rằng tôi yêu cô ấy và rằng tôi là đối tác mãi mãi của cô ấy. Bạn của các bạn, Peter.

Cô đỏ mặt và bế bé Amaroq lên để giấu đi sự bối rối của mình.

- Anh Peter yêu chị Julie - đứa con nuôi tám tuổi của bà Marie là Bessie nói, và đám trẻ cười khúc khích rồi cùng hát vang.

Dì Ellen vỗ tay, thế là buổi học kết thúc. Julie vội vã mặc cho chúng quần áo thật ấm trước những lời trêu trọc và cười đùa rồi cho tất cả về nhà.

Sau khi đứa trẻ cuối cùng đã kéo khóa áo trùm parka, bước ra gió lạnh và đêm tối, buổi học nữa bắt đầu. Dì Ellen dạy Julie lịch sử thế giới và toán, còn Julie dạy dì Ellen tiếng Yupik và Inupiat.

Julie gập cuốn từ điển Inupiaq-Anh vào cuối buổi học của họ rồi lấy lá thư của Peter ra khỏi áo. Mỉm cười bẽn lẽn, cô nhìn lá thư.

- Dì nghĩ sao về Peter, Aaka? - Cô hỏi.

- Dì quý cậu ấy - dì Ellen nói.

- Sao anh ấy lại cứ nói anh ấy yêu con?

- Dì nghĩ đúng là cậu ấy yêu con.

- Anh ấy còn phải đi học, và khi tuần lộc trở lại Kangik, con phải đi học. Chúng con chưa sẵn sàng để làm iglu.

- Con có yêu cậu ấy không?

- Chưa ạ - Julie nói. - Bố Kapugen sẽ không để con như vậy.

- Julie này - dì Ellen nói vẻ ngỡ ngàng - tại sao con lại nói vậy chứ? Con biết bố Kapugen muốn con lớn khôn, biết yêu và lấy chồng. Con biết điều đó mà.

- Đúng vậy, nhưng bố ngăn con. - Cô đặt cuốn từ điển lên bàn. - Con phải ở đây tại Kangik để bố không giết đàn sói. Con không thể nghĩ về Peter hay đi học chừng nào bố còn nghĩ về luật Minnesota.

- Ôi Julie - dì Ellen nói, nhìn xuống bé Amaroq đang líu ríu. - Dì rất tiếc nghe con nói vậy.

Julie nhìn vợ của cha mình. Người mẹ kế cô rất yêu quý này không hề biết điều mọi người Eskimo đều biết từ lúc chào đời: rằng con người và động vật cùng tồn tại vì lợi ích của cả hai.

Đầu tháng Tư, một đợt gió ấm từ phía đông mang theo mưa biến tuyết thành bùn nhão. Dân làng cởi bỏ những tấm áo trùm parka nặng trịch và tới khu sân chung cũng như dọc bờ sông. Họ tự hỏi không biết xuân sớm có đưa tuần lộc về Kangik không.

Rồi một đợt không khí dưới không độ ập đến như một cái ngòi bọ cạp đốt. Đất, bùn nhão, và nước đóng băng chỉ trong một giờ. Một trận mưa băng trút xuống cả lớp băng phủ. Làng Kangik, những ngôi nhà, xuồng, và xe trượt đều chìm dưới một lớp gương. Những khuôn cửa đóng cứng. Việc đi lại rất nguy hiểm, và các chỗ cất giữ thực phẩm gần như không thể mở được. Đây là tình hình thời tiết khắc nghiệt nhất có thể chịu đựng được ở một vùng đất toàn những điều kiện thời tiết không thể chịu đựng nổi.

Tiết giá lạnh tụt xuống âm ba mươi độ và duy trì suốt gần một tháng trời. Máy bay của Kapugen không thể bay