← Quay lại trang sách

20 - Thẻ thân

Thuế đò, thuế chợ, thuế xia

Bây giờ Tây bắt đóng thì thuế đinh

(Ca dao vùng Hà Nội)

Ở thành phố, mỗi nhà mỗi người phải đóng nhiều thứ thuế và nhiều cái thuế phải trả tiền hàng tháng, hàng buổi. Nhà bà cụ Hàng Mã tối ngày kêu ồi ồi, ối giờ ôi thuế, ối giờ ơi thuế. Thuế nhà đất và tiền điện, tiền nước hàng tháng, thuế đổi thùng xia, thuế môn bài cửa hàng, thuế hàng năm, hàng ngày, hàng chuyến, thuế nuôi chó, thuế xe đạp, xe kéo, xe bò, thuế người.

Người cũng phải đóng thuế, chỉ riêng đàn ông, như mọi thứ hàng hóa, đồ đạc và đất cát. Thuế một suất sưu được phát một cái thẻ thuế thân. Trai mười tám tuổi trở lên, hàng năm phải đóng thuế thân. Cái thẻ thân hạng bét màu xanh bằng một miếng bìa ngang ba đốt ngón tay, dài một gang, trong ghi họ tên, tuổi, quê quán, năm phát thẻ, những chỗ chỉ dẫn trên đều in kèm tiếng Tây. Lúc nào, đi đâu cũng phải gấp cái thẻ nhét hầu bao thắt lưng, giắt trong túi áo ngực. Cứ sau mùa thu thuế thân vào quãng tháng ba, tháng tư, đội xếp sen đầm, khố xanh, tuần đinh gác đầu ô, đầu làng, đầu phố, quây người lại, hỏi thẻ, khám thẻ ráo riết. Phạt tiền, phạt giam, xanh mắt. Bố con, anh em đi đâu cũng dặn nhau không được đi người không, nhớ phải “có cái thẻ giắt đít”.

Năm đầu tiên đến tuổi mười tám, tôi phải đóng xuất sưu hai đồng rưỡi, cộng với mọi khoản phụ thu của xã, vị chi gần ba đồng cái thẻ. Những năm ấy, tôi chẳng tìm đâu được việc làm. U tôi phải chạy chọt lo tiền thuế thân cho tôi. Không dễ dàng. Một suất sưu đong được hơn tạ gạo gãy Sài Gòn, không phải ít. Mà chớp mắt đã lại một năm, lại đến vụ sưu. Tu hú trên cây gạo kêu ra rả, mùa hè chứa chan nắng, đã bắt đầu mùa sưu thuế khắp thành thị đến thôn quê.

Mùa sưu thuế, phố xá xóm làng oi ả nặng nề, ngột ngạt. Cũng là nghe tiếng trống đình, nhưng không phải tiếng trống việc làng, cũng là trông lá cờ kỳ bay phần phật trước cửa đình, nhưng không phải cờ ông thủ từ sai anh mõ cắm sân đình ngày hội lệ tháng hai. Các ông lý, ông phó lý, ông chánh hội, ông thư ký, các bác trương phiên, khán thủ, tuần đinh ra vào trên đình dưới nhà hội đồng tấp nập, mùa sưu thuế, ai cũng bận.

Chẳng ngửi thấy hương đèn và mùi xôi gà như những ngày sóc, ngày vọng. Mới ủ ê làm sao! Sáng sớm, chập tối, các đầu xóm cuối xóm mõ rao ơi ới. Vụ thuế chỉ sát phạt trong vòng nửa tháng. Càng đến ngày cuối càng rợn gáy, xôn xao. Chốc chốc, một trai tuần dẫn ở xóm dưới lên một người bị trói giật khuỷu, mặt sưng húp. Người ấy rùng rùng bước vào, bị đẩy ngồi thụp xuống chân cột đình. Ngoài sân, ngoài tam quan, vẫn vang tiếng nạt nộ. Có hôm, chánh tổng Dịch Vọng cưỡi ngựa ra đốc thuế. Có khi, cả quan phủ Hoài Đức ngồi ô tô về. Nhốn nháo lên. Tiếng kêu khóc, tiếng nài nỉ. Có lúc khắp nơi lại im phăng phắc.

Rồi vụ sưu thuế qua, tất cả cũng qua đi. Mùa vải, cái nắng cũng lây màu quả vải chín đỏ chót. Con tu hú vẫn kêu rạc người. Buổi chiều, ngồi hóng mát cửa đình, thấy tàn đốt rừng phía núi Ba Vì bay về từng mảng như lá bàng rơi. Đôi khi, chớp bể mưa nguồn xa xôi tận đâu lại phấp phỏng tưởng mùa thuế sắp đến nơi rồi. Cái thuế đánh vào người ghê rợn, lúc nào cũng ám ảnh.

Tôi ở ngụ bên ngoại từ thuở bé. Việc họ, việc làng, góp tiền cỗ hàng giáp, vào sổ đinh đều ở đây. Bây giờ đến tuổi đóng thuế, người ta gọi ra. Nhưng một điều oái oăm, u tôi bảo còn phải giam thuế cho tôi cả trong làng quê nội. Và trong làng nội, thày tôi vẫn phải đóng thuế thân đều đều. Dẫu thày tôi đi Sài Gòn từ năm tôi mới lên ba, nay đã ngoài mười năm. Chẳng có tin tức, chẳng biết còn sống không. Thế mà ở nhà vẫn phải hàng năm đóng thuế thân cho thày tôi. Đóng bóng đóng vía, bởi nếu không có thẻ thân, mai kia về, ông lý không cho vào làng. Lại còn làng nước trông vào, chịu mang tiếng bỏ làng à. Chỉ có bán xới đi thì chẳng cần biết thế nào, chứ còn có khi về làng, không ai dám bỏ đóng thuế quê gốc. Cái thẻ thân của người đi vắng thì người nhà không được giữ, mà phải để ở nhà lý trưởng. Bởi thế, có lý trưởng tham và liều thường cho thuê, bán thẻ thân cho những người cơ nhỡ, người buôn lậu, những người hội kín bí mật cũng hay mua thẻ giả thế.

Hai suất thuế hai mang ở quê, u tôi đều phải chạy. U tôi vẫn lặng lẽ, chẳng phàn nàn một câu. Cái số vất vả trời đã định rồi. Đã đành, trong âm thầm mà thật khốn khổ, cũng không dám cho ai biết, sợ mang tiếng. Tết nhất xong, còn tính toán chùng chình, u tôi chưa dám đem xống áo xuống nhà cầm đồ Vạn Bảo. Nấn ná tới vụ thuế mới đành bước chân ra phố Mới.

Những rồi đến một khi chẳng lo, chẳng chạy nổi nữa, năm ấy, u tôi không còn đào đâu ra tiền đắp vào suất sưu đóng hờ ở quê nội, năm nay lại thêm suất của tôi ở ngoài này, hai nơi. Trong quê, bác Cả vốn tính cẩn thận, năm nào cũng ra Bưởi vào những ngày sắp đến vụ thuế. Nghe u tôi kể nỗi khó, bác Cả thở dài:

- Thím ạ, nhờ trời còn có ngày chú ấy nhớ vợ thương con, chú ấy tai qua nạn khỏi mà về...

U tôi chẳng biết nói thế nào, nhấc giải yếm lau nước mắt. Giá mà còn cào cấu nổi vào đâu, chắc u tôi vẫn cố. Bởi vì cái tai tiếng thấm thía còn đau đớn hơn người ta chửi bới day dứt, không biết đến thế nào. Tết năm ấy, u tôi không đem tôi về quê. Sang giêng, bác tôi ra chơi. Cho đôi bánh tày, chục bánh gai nhà làm. Bác Cả nói:

- Thím nhớ cho cháu về quê. Để nó biết nhớ quê quán. Còn suất sưu của chú ấy năm nay tôi cũng đậy điệm được rồi.

Bác Cả gan thế, bấy giờ mới cho u tôi biết.

Rồi đến khi bác Cả cũng không thể gắng năm nào cũng chạy đóng đậy thuế sưu cho bố tôi được. Dạo trước, bác còn ngồi bảo học trong Kệ trên châu Lương Sơn. Học trò đường ngược biếu xén mật ong, mật gấu, còn có của rừng mang về. Bây giờ chỉ dạy trẻ quanh quẩn trong xóm ở nhà, chẳng thể đắp tiền cho suất sưu đóng khống mãi. Phó lý xách gậy song đến hỏi, bác Cả nói:

- Chú cháu đi làm ăn đất khách quê người, bao nhiêu năm chẳng có tin tức về, không biết thế nào. Ông phó ạ, thôi đành anh em kiến giả nhất phận, năm nay thì tôi chịu.

Rồi không thấy các chức dịch làm lôi thôi. Chắc bởi bấy lâu món tiền sưu làng thu của những người đi xa vẫn chạy cả vào túi các ông chánh lý cũng nhiều. Các ông lấy tiền mà không phải đưa thẻ. Khi thu thuế, ông lý vẫn đằng hắng lên giọng nói mỹ tự:

- Cái thẻ đinh mỗ, đinh giáp, đinh ất kia, làng giữ.

Chẳng ai đòi về làm gì. Người ta chỉ nghĩ lo tròn suất sưu để khỏi tai tiếng, cho mát mặt với xóm làng.

Đến thời kỳ Mật trận Bình dân bên Pháp, tại Đông Dương, Tây cũng bày vẽ ra cải cách thu thuế người - cái thuế dã man nhất. Thật sự thì vẫn như mọi khi, thuế mới chẳng trừ ai, miễn ai, thuế mới chỉ chia thành nhiều hạng. Hạng có tài sản (đất cát, nhà cửa, buôn bán) và ruộng nương thì đóng từ hai đồng rưỡi trở lên. Người giàu có cũng chẳng quản ngại phải nộp nhiều tiền, như thế lại tỏ ra ta đây khác bọn khố rách áo ôm. Còn người vô sản thì xót ruột mất một đồng bạc. Đâu đâu cũng bàn tán. Thế này thì Nhà nước lợi to. Lại có dư luận đồn thổi không biết từ đâu ra. Cầm cái thẻ cùng đinh vô sản mỏng dính như mảnh lá chuối, chỉ tổ xấu mặt. Bởi thế, bài bổ thuế của làng ông lý trưởng bảo ai không bằng lòng là vô sản muốn đóng thuế hữu sản cũng được, Nhà nước cho làm thuế. Những lời đồn cứ tung ra.

Nhưng thanh niên làng tôi có phong trào chống thuế. Nói đúng hơn, chống bất công và các trò bịp trong việc đóng thuế thân. Ông chánh, ông lý làm sổ thuế không muốn nhận một đồng bạc thuế vô sản. “Hay hớm gì cái vô sản. Làng này lắm đứa không cửa không nhà thế? Chẳng biết xấu hổ với thiên hạ”.

Không phải chúng tôi nghĩ ra cách chống thuế, mà chúng tôi đã đọc báo Tin Tức. Thằng Điều với tôi đã ra tận Cửa Đông hỏi tòa báo Tin Tức. Các anh tòa báo nói mọi nơi vô sản chỉ đóng thuế vô sản, có nơi hăng hái còn kéo nhau lên huyện, lên phủ kêu hoãn thuế. Làng Vạn Phúc trong Hà Đông giàu có vậy, mà những nhà có một khung cửi cũng bảo nhau chỉ nộp thuế vô sản. Người ta sùng bụng đến thế mới giỏi.

Thanh niên chúng tôi không còn “xấu hổ” phải đóng thuế vô sản như bọn chánh lý sỉ vả thế nữa. Chúng tôi nhất quyết chỉ đóng hạng một đồng bạc. Nhưng thật không phải dễ. Những người chức việc nhiều mưu mẹo đã đành, mà người đóng thuế không phải ai cũng răm rắp một bụng. Có nhà con cái chưa có của nả riêng, bố mẹ còn cho ăn chung cũng rêu rao sẽ ra thuế hữu sản loại hai đồng rưỡi. Nhất là những nhà có máu mặt. Người ta vẫn băn khoăn muốn nghe lời ông lý và sợ xấu cái tiếng. Chim tu hú kêu inh ỏi trong tiếng ngũ liên gay gắt. Lúc nào ngớt tiếng trống, lại văng vẳng mõ rao: chiềng làng chiềng nước... ai chưa đóng thuế... ra đình đóng thuế... Lại nghe đồn ông lý Sùng đã tâng công với quan trên trình trước lên phủ rằng làng tôi không có ai đóng sưu hạng vô sản. Người không có đất cắm dùi cũng tình nguyện nộp hai đồng rưỡi. Nhưng chúng tôi quả quyết. Cả bọn hơn hai chục người. Nó trình phủ làng này không có thuế vô sản hả. Chúng ông không đóng. Cho mày sạt nghiệp. Chúng ông chỉ có một đồng bạc.

Hơn hai mươi người kéo ra đình. Nhiều người trong tay cầm tờ báo Tin Tức đã đăng tin thanh niên Nghĩa Đô chống thuế. Tôi đã viết tin ấy đem xuống tòa báo, được đăng ngay.

Ông lý Sùng quay ra, quát:

- Các anh kéo lũ ra đây làm gì?

Tôi nói:

- Chúng tôi vô sản, chúng tôi đóng thuế vô sản. Báo đăng như thế đây này.

Ông lý khôn ngoan, ngọt nhạt:

- Con trai làng ta ai cũng như các anh thì làng này đẹp mặt đấy. Đòi làm vô sản à? Ừ, đòi có máu mặt mới khó chứ làm thằng đóng khố vô sản thì dễ thôi. Thế thì đóng ngay đi nào.

Cả bọn lúng túng. Nhiều anh chẳng có một xu trong lưng. Chúng tôi ra đình diễu oai thế chứ chưa nghĩ đến việc đóng thuế ngay. Tôi còn khó nghĩ hơn. Trong họ, tôi phải gọi ông lý Sùng bằng cậu, cho nên ông mới hỏi mỉa mai tôi thế. Ở ngoài đình về, tôi thấy u tôi đã đứng đợi đầu ngõ. Vẻ mặt u tôi lo lo. Chao ôi, tôi cùng bè bạn đi cãi vã sát phạt thế, nhưng chạy cho ra suất sưu, dù suất sưu vô sản một đồng, vẫn một tay u tôi kiếm mà thôi. Bởi vậy, trông thấy u, tôi thương u. Bao nhiêu hăng hái lúc nãy nhụt đi đâu mất. Tôi len lén đi tới và nói:

- Ta chỉ phải đóng một đồng, u ạ. Các ông ấy dọa già dọa non thế thôi, u đừng sợ.

U tôi rụt rè nói:

- Đừng có đua đả đi cãi nhau với các quan. Mày phải gọi ông lý là cậu, ông lý cũng người họ Lê đằng nhà bà. Hay là cứ đóng hai đồng rưỡi như mọi năm. Sức u còn chạy được.

Tôi nói:

- Nhà nước đã định ra luật rõ ràng, báo cũng đã nói thế rồi.

U tôi hỏi lại:

- Sao u vẫn thấy nhiều đứa ở xóm ngoài, xóm trong cũng như mày, vẫn đóng sưu hai đồng rưỡi như mọi năm. Con ơi! Con cứ bướng thế, ngộ nhỡ bao giờ tìm được việc làm, người ta cứ bắt làm vô sản, không cho đóng hạng sưu hai đồng rưỡi, không được đi làm, thì có phải chết dở không? Con cứ để u chạy.

Những sĩ diện vớt vát theo đuổi cả đến người cùng túng. Như u tôi mà cũng nghĩ ra được cái lo xa oái oăm ấy.