← Quay lại trang sách

22 - Tìm vàng

Trẻ con thích nghe người lớn nói chuyện ma. Đã sợ, nhưng lại hay tò mò. Rồi nhìn ra chỗ nào cũng thấy có ma. Gốc gạo đường ngõ Noi, ngõ Cả. Mô đất gốc nhãn ao đình, cầu Điều, miếu Đôi, những cây muỗm trên quán, đâu cũng có ma. Đêm sáng trăng suông ma mặc áo dài trắng đánh đu trên cây. Ma ngồi cành nhãn, thò chân xuống. Ma cười khanh khách. Ma khách, ma xó...

Nhưng tôi trợn nhất những chuyện tìm vàng nửa thật nửa ma. Chuyện ma mà lại có vàng. Các chuyện về vàng ám ảnh u ám khắp làng. Ở trong làng, trông vào đâu cũng thấy những chuyện ấy. Lại sợ nữa. Người ta nói đương chân tay không, nghèo một xu không dính túi thế này mà bắt được vàng, sướng quá, thì phát rồ hay có khi chết ngay đấy. Lại càng ngẩn ngơ cả người. Sợ mà lại thèm.

Câu chuyện một cô thợ seo làng Đông thấy vàng thì lạ lùng nhất. Áp phiên chợ giấy tối hôm ấy, tàu nào cũng seo đèn đến khuya. Hết tàu rồi, cô thợ đi về trong ánh trăng rằm sáng vằng vặc. Đến chỗ cây đề rẽ vào đầu làng. Không biết run rủi thế nào, tự dưng cô lại không đi vào đường làng. Cô ra bến đãi bìa trên bờ sông. Chỗ miếu Đồng Cổ bên kia sông cũng có cây đề to như cây đề đầu làng cạnh dãy vạc nấu dó. Cô thợ seo trông ra dòng sông loáng ánh trăng, thấy một tòa nhà vàng ngời. Cô bước tới sờ tay vào cái cổng, tay cô mát lạnh. Rồi những bậc cửa vàng lồng lộng dẫn xuống. Chẳng còn thấy đâu những cái xóm làng Đông tiều tụy tường nhà nọ dựa tường nhà kia. Đây san sát từng tòa ngang dãy dọc, mái ngói vàng rồng leo phượng múa. Đâu cũng vàng, toàn vàng.

Cô thợ seo ngơ ngác bỗng nhìn xuống thấy xống áo mình cũng anh ánh vàng.

Và bóng cô đương tha thướt trên đường qua sân lát những viên gạch vàng lên hộc cửa. Bỗng nghe một câu hỏi êm ái:

- Cô kia đi đâu xuống đây?

Cô thợ seo ấp úng. Vẫn tiếng êm ru như rót vào tai:

- Này cô kia, cô chưa phải duyên phải số về đường cõi âm đâu. Ra đây chị dẫn em trở lại.

Chẳng trông thấy một bóng người. Tiếng nói cứ mơ hồ vời vợi. Cô thợ seo thong thả đi theo những lời hương lời hoa, không thấy người đi trước, mà vẫn cảm như mình đương đi với ai.

Một chốc, trông lên đầu thấy miếu Đồng Cổ, bóng cây đề, lá đề lấp lánh trên bến. Dưới chân, lung lay dòng sông ánh trăng vằng vặc. Như cô vừa rẽ nước đi lên.

Cô thợ seo ấy nhớ rõ ràng, kể lại như thế. Từ hôm ấy, ai ra cửa đình nhìn xuống bến cũng tưởng ra thấp thoáng mái tòa nhà vàng trong bóng nước sông Tô Lịch. Có người chép miệng nói:

- Chẳng hay hớm gì đâu. Được bạc thì sang, được vàng thì lụi bại, thì tuyệt tự. Thế là cái số con bé còn may đấy.

Tuy vậy, câu chuyện nghe xong, ai cũng thờ thẫn.

Cả một dạo, người các nơi nô nức lên làng Đông xem mặt cô thợ seo đã lạc xuống cái đình có vàng dưới sông đầu làng. Người ta về kể ít lâu sau cô sinh ngẩn ngơ rồi ốm. Lại nhiều người chép miệng: “Đấy, đấy, gặp vàng thì lụi bại mà”. Ai cũng cứ vừa sờ sợ, ghê ghê lại vừa ngơ ngác, ao ước, tiếc của. Nào ai trông thấy vàng bao giờ, mà biết thế nào là bắt được vàng thì rồi giàu có.

Lại rầm rĩ tin đồn có vàng chùa Hang ở Quán La. Hàng năm, Tết Nguyên Đán, người trong vùng hay đi chùa Hang trên Quán La. Ngôi chùa nhỏ gần đền Sóc bình thường như mọi chùa làng, không khang trang và nhiều khách thập phương lễ bái như chùa Láng, đền Trại. Chỉ tương tự chùa Dâu hay chùa trại Kho Than. Nhưng cái khác là đằng sau chùa có một ụ đất, tụt người xuống chui vào vòm gạch có đường hầm. Cái lạ là thế.

Nhiều người tò mò đã xuống xem. Vòm gạch cuốn thật kỹ, vẫn nguyên. Tối om mà khô như ngói, không một đám rêu ẩm. Thấy bảo đi mãi vào trong thì tới được tận làng Cáo, làng Dàn. Lại nói có thể xuyên ngầm cánh đồng sang các làng Noi. Chỉ nghe nói thế, người ta mới thập thò mon men hình như chưa ai dám chui sâu vào bao giờ.

Chuyện chùa Hang trên Quán La cứ miên man đồn đại, ly kỳ rằng cái hang ấy người Tàu để của. Người Tàu để của có khác, chỉ con cháu người ta mới biết mở khóa. Nó đã chôn sống cả những người đào hang xây hang ở trong hầm, yểm thành những con ma giữ của. Đến khi nào con cháu người để của ở bên Tàu đem dấu, đem khóa sang mới lấy được vàng trong hang ra. Bao giờ thì con cháu người để của ở bên Tàu sang. Người ta sang thế nào hay người ta đã đến mà không ai trông thấy, làm sao biết được.

Thế rồi cái gì cũng đâm ra ngờ ngợ. Mỗi hôm thấy chú khách thuốc ê gày kheo khư quảy đôi thùng nan mây sơn then. Chú khách đội cái nón tu lờ màu cánh gián to như chiếc rổ sảo. Ống tay áo rộng ngoài láng thâm, trong nhuộm nâu, chắc chắn như áo giáp. Chốc lại cất tiếng: Thốốốc... thốốốc... ê... Chú khách bán thuốc ê ấy, ai trông cũng ngại, không tin. Những lão khách bán thuốc ê giả vờ, lân la vào các làng tìm nơi ông cha để của. Hay lão này là người nhà của người Tàu để của ở chùa Hang trên Quán La? Nào biết phải hay không.

Nhưng mà đến chuyện trâu vàng hồ Tây mới ghê. Cả vùng đều biết cổ tích dưới mặt nước hồ Tây kia có con trâu vàng. Hôm nào giở trời, trâu vàng nổi lên, vùng vẫy đánh sừng. Thấy bảo có người thật mắt đã nhìn thấy. Lại còn cái hèm từ xưa nhà nào có phúc sinh được chín con trai, đem ra bỏ chín con trai xuống hồ Tây thì trâu vàng nổi lên. Cứ việc dắt trâu vàng về, tha hồ giàu có ức triệu từ đấy. Nhưng chưa đời nào ở đâu nhà ai sinh được chín con trai đem đi ném xuống hồ.

Cứ cãi cọ lý sự loanh quanh suốt năm không dứt chuyện trâu vàng hồ Tây.

- Được trâu vàng lại mất chín con trai. Bố mẹ ăn vàng ăn bạc sung sướng lấy một mình à?

- Mới gọi là được vàng thì tuyệt tự!

- Thế thì thèm vào!

Nhưng mà rồi các làng xóm nghèo nàn, rách rưới vẫn cứ chuyện về con trâu vàng, chuyện tìm vàng, đào vàng. Ở xóm Cung đầu làng Tây Hồ sang đình Võng bên kia, có ngôi đền thờ trâu vàng. Đền nhỏ, kề mép nước. Như rồi có thể hôm nào sẽ gặp con trâu vàng lên nằm đấy. Sóng hồ mênh mông, ra chỗ mỏm xóm chỉ thấy trên trời dưới nước lúc nào cũng như có con trâu vàng sắp nổi lên. Đi giữa ban ngày mà cứ rờn rợn.

Thế rồi ngay ở trong làng người ta cũng nói đích rằng nhiều chỗ có vàng. Xóm bên nhà tôi phía làng Tân có cái gò. Không biết nguồn gốc thế nào, nhưng đã bao đời, cả xóm đến thắp hương và trồng những cụm hoa đơn đỏ thậm quanh gò đất. Đâu có búi hoa đơn, đấy đã ra vẻ đền chùa, có thánh, có ma, có cái sợ rồi. Bà ngoại tôi kể khi trời nhập nhoạng tối vào mùa đông trời mưa hay có đàn vịt vàng trong gò chạy ra tắm. Bà tôi quả quyết rằng đời các cụ đã có người trông thấy đàn vịt này. Nhưng bây giờ thì chưa ai thấy.

Cả đến trong nhà ông bà ngoại tôi ở là nhà ăn hương hỏa người ta cũng bảo ngày xưa các cụ đã để của. Thỉnh thoảng, ông tôi lấy thuổng moi các góc nhà, các chân cột. Ông tôi đào như thế từ năm nào, đến khi ấy đã ngoài sáu mươi tuổi, mà chưa thấy gì. Ai cũng kêu: “Được bạc thì sang, được vàng thì lụi bại”, nhưng lại cứ mơ màng giá thử được vàng một cái xem sao.

Một đêm tháng tư, chúng tôi đi hội làng Hồ về khuya đã quá nửa đêm. Giữa đường bỗng đổ mưa to. Mưa rào đầu mùa hạ, tiếng mưa sầm sập xuống. Cả bọn vào trú mưa cửa đình Thọ. Trông sang bãi tha ma bên kia, thấy những đốm xanh lập lòe, chớp lướt mướt trong mưa - hay là đàn vịt vàng ra tắm trời mưa?

Một đứa trong bọn hét to:

- Ma trơi, ma trơi ra chơi mưa trên mả mới!

Những đứa khác kêu lên:

- Vịt vàng! Vịt vàng!

Trên bãi tha ma, vẫn lập lòe xa gần những ánh xanh rợn tóc gáy. Không biết ma trơi hay vịt vàng.