24 - Lão Ba Sinh
Chuyện về lão Ba Sinh như chuyện thần tiên, chuyện cổ tích, chuyện ma. Mà thật lão là người làng tôi, cánh họ Nguyễn Bá hẳn hoi. Lão bỏ làng đi đâu, từ khi nào, những người vào khoảng mười lăm, mười bảy mới lớn lên như tôi, chưa hề biết mặt. Khi trở về, ông ấy đã già và giàu có nhất vùng. Không biết có phải tên lão là Ba Sinh. Hay là luật giang hồ đặt tên cho lão thế. Lúc tôi chưa trông thấy lão, hai chữ “ba sinh” cứ làm tôi nghĩ đến những thơ mộng Truyện Kiều. Hôm nào, các dì tôi cũng bói Kiều, ba sinh duyên nợ, ba sinh hương lửa, ba sinh, ba sinh... Cái gì như hò hẹn, như Kim Trọng, như Thúc Sinh, có con én đưa thoi, có mày ai trăng mới in ngần...
Nhưng đến khi trông lão sao giống Ngô Đình Diệm, cũng khăn vố, áo dài thế. Tất nhiên, phải mười mấy năm sau tôi mới trông thấy Ngô Đình Diệm ở Hà Nội năm 1945, nhưng mà thời gian trong trí nhớ người ta thường trộn vào nhau không phân biệt trước sau và xa gần. Lão Ba Sinh làng tôi cũng lùn lùn bè bè người, mặt sùi mụn đỏ như lão Diệm. Mặc dầu so ngược lại, tôi vẫn nhớ thế.
(Năm 1945, cách mạng thành công rồi, cơ quan tỉnh đem Ngô Đình Diệm từ Quảng Bình ra Hà Nội. Lão ở cái gác áp mái tầng chót tòa báo Cứu Quốc phố Hàng Trống - tòa báo Hà Nội Mới bây giờ. Những tầng dưới, nơi làm việc của Tổng bộ Việt Minh, của báo Cứu Quốc ra hàng ngày và nhà in. Tôi vẫn trông thấy lão Diệm lên xuống, đi ra phố. Lão được ở tự nhiên hay lão bị giam lỏng, rồi hôm nào lão được đưa đi chỗ khác, tôi cũng không biết và không để ý. Bởi khi ấy thành phố ngày đêm đỏ rực cờ và khẩu hiệu, những cuộc mít tinh và tuần hành của người nội ngoại thành rầm rập quanh hồ Gươm từ sáng đến tối.)
Cả làng tôi cung kính gọi lão bằng ông, ông Ba Sinh. Cái việc lão về làng không phải thường đâu. Bởi lão ta trở về có tiền bạc nhiều nứt đố đổ vách.
Chuyện kể về ông Ba Sinh “ba đầu sáu tay” cứ hoa cả mắt. Ba Sinh tay trắng bỏ làng đi lang thang từ thuở còn trẻ. Chẳng là có sức khỏe và hung bạo nên làm nghề du côn đứng bến xe. Các chủ xe đều thuê du côn kéo khách, tranh khách. Du côn bến Nứa, bến Nam Định, Thái Bình... bến nào cũng có các tay sừng sỏ đứng đầu. Xe Tư Đường, xe Hợp Thành, xe Mỹ Lâm, xe con thỏ, xe ngựa vằn... chẳng bao lâu, du côn Ba Sinh thành chúa trùm các đám đầu trâu mặt ngựa có sừng có mỏ ở khắp các bến. Thần thế đến độ đàn em đánh chết người, cũng chạy phá được án.
Rồi Ba Sinh mở sòng bạc. Xóc đĩa to nhất Hà Nội là sòng Ba Sinh, hơn cả sòng Hai Cua, sòng Cả Vê. Thành phố nghiêm cấm đánh bạc. Bắt được cả quân cả cái đều bị phạt tiền và ngồi Hỏa Lò. Chẳng mấy hôm không thấy đội xếp dắt xe đạp, tay cầm cái thừng lôi một xô một xốc con bạc dưới bãi lên. Và báo hay đăng trang tin vặt người thắt cổ với đầu bài kiểu cách: “Thần đổ bác rủ rê nên nỗi”. Thế nhưng sở cẩm Hà Nội, sở Liêm Phóng Bắc Kỳ kể cả Tây đã ăn đút, chia lãi với các tay sụ, các sòng bạc kếch sù cứ việc lén lút nhưng mở cửa thả sức. Khách các tỉnh về đánh bạc có người, có xe đưa đón. Bắc Ninh, Sơn Tây, Tuyên Quang, Hải Phòng, Huế, các anh hai tay chơi Sài Gòn cũng ra đỏ đen tận đây. Bất cứ được thua, nhà sòng đều thuê săm có gái chơi hầu hạ và ăn cao lâu Hàng Buồm. Sòng bạc nửa kín nửa hở khắp nơi. Nhà tây ba tầng sát phạt giữa phố Nhà Hỏa. Có sòng cực sang cực to mà lại chui rúc trong dãy nhà tồi tàn bãi Nghĩa Dũng. Rỗng túi rồi, sạt nghiệp rồi, mà nhà sòng vẫn rước đi chơi cô đầu và tiệc tùng nhảy đầm tiệm “La Phê gat” (La Frégate) trên Thụy. Khoái thế, rồi hôm sau đứa nào rút thắt lưng ra treo cổ lên cành nhãn trong vườn Bách Thú, thì cũng mặc kệ đời.
Sòng bạc Ba Sinh ở Hà Nội đã nổi tiếng Trung Nam Bắc Mên Lào một thời.
Ông Ba Sinh, sòng bạc Ba Sinh, ông là người làng tôi đấy.
Đến khi lão Ba Sinh tìm về làng, không biết có còn làm chủ sòng hái ra tiền không, hay lão chạy làng. Chẳng mấy ai biết được. Cũng như ngày trước lão đã đánh chết bao nhiêu người, và bao nhiêu người mất nghiệp phải uống dấm thanh thuốc phiện, phải cắt mạch máu cổ tay vì cờ bạc, vì lão, làm sao đếm xuể. Chỉ nghe râm ran chuyện mãi không dứt.
Nhãn tiền bây giờ, thấy ông Ba Sinh lắm của, đêm ngày chuyên tu nhân tích đức làm phúc. Thời ấy những người làm giàu mờ ám và bọn me tây có tàn có tán đều như thế. Nhà me tây Ba Tý ở Hàng Bạc suốt mùa hè đặt vại nước vối ra hè cho người uống thí và sáng nào cũng phát chẩn gạo cho ăn mày. Và người các vùng quê ra ai cũng đến xem con gà ba chân, con lợn hai mõm, vợ chồng thằng lùn ở “bách thú” nhà, bắt người vào xem phải chào là “cô Ba Tý”.
Đường làng dốc chợ xuống ngõ Noi men bờ sông um tùm những bụi lau. Mùa hè, chỉ một trận mưa, đã úng võng xuống, lẫn với dòng sông Tô Lịch, lội lõm bõm ngang đầu gối. Có khi thuyền thúng hái rau muống bơi vào tận bậc cổng làng Tân. Chả trách nghe nói ngày trước đây là sông lớn có bến Giang Tân, giờ còn cái cầu Dừa bên mép nước.
Lão Ba Sinh bỏ tiền ra làm đường cao ráo. Hàng trăm thợ đấu trên Phùng xuống đội đất. Lại thuê cai lục lộ, mặc áo tây đội mũ vàng đi xe đạp ngoài Kẻ Chợ về cắm thước mốc, căng dây, đo cả ngày. Chẳng bao lâu, con đường đã chắc chắn như con đê ven sông. Đường to bằng đường cái quan, chẳng những chỉ tới cửa đình, mà lão Ba Sinh còn cho lát gạch vào tận cổng nhà lão rồi lại đắp đường cao cao qua gốc Gạo ngõ Noi vào tận cầu Điều giữa cánh đồng Cổ Nhuế. Ngày ngày lũ lượt người các làng đi xem “ông Ba Sinh làm đường”.
Có cụ già độc miệng:
- Xem như người nào đắp đường, tô tượng, đúc chuông làm phúc thì biết ngày trước tất nhiên giết người cướp của, ân oán ghê gớm rồi. Bây giờ làm thế hòng mai kia xuống âm phủ khỏi bị quỷ sứ ném vạc dầu. Đĩ lữa về chiều thì chịu khó ăn chay lần tràng hạt là cái tích thế.
Lão Ba Sinh lại bỏ công đức làm chùa bên Bắc. Người ta đồn cái chùa bên Bắc còn cầu kỳ hơn cả chùa của chủ nhà máy gạch Hưng Ký dưới Mới Mơ. Cứ kể ngôi chùa nhà ông máy gạch Hưng Ký khoe mấy trăm kiểu gạch ngói đã nức tiếng. Năm hội khánh thành chùa, cả đất Kẻ Chợ rủ nhau đi xem. Tôi cũng đã đi, ngắm nghía từng mảng tường gạch khác nhau rồi leo lên gác chuông. Thế mà chùa ông Ba Sinh xây bên Bắc còn ghê hơn. Cũng là nghe nói, không biết thật hay người ta đồn đại mỉa mai. Bởi vì lại nghe bình phẩm dăng dăng:
- Trước nó chọc tiết bao nhiêu người, bây giờ mới rồ tiền ném xuống sông thế!
- Thì cứ nghề gá bạc đã là cái nghề lột áo, moi gan người ta, tổn âm đức rồi, chưa nói còn làm cho tàn hại mấy mươi đời con người. Bởi thế mới phải xỉa tiền ra lót đường xuống suối Vàng. Rồi xem sao nào, chẳng nhẽ giời không có mắt a?
Bọn trẻ con thì chỉ biết sướng điên lên vì “làng tao có ông Ba Sinh”. Đường ôtô lát gạch nghiêng vào đến tận cổng dinh cơ. Ông ấy ngồi cái xe ôtô mui gấp về đầu làng. Trẻ con chạy ra xem. Ông ấy tung tiền lên, toàn xu đồng, đồng “xanh căng”, đồng hào, đồng “ván” lấp lánh trắng, như rắc chấu. Cho trẻ con tranh nhau chạy theo xe, cướp.
Hai cánh cổng sắt mở ra. Những con chó lài mừng rít, nhảy víu ngang chấn song. Ôtô từ từ vào nhà chứa xe, chui dưới dàn nho thấp thoáng cạnh cái ao lớn.
Dinh cơ của ông Ba Sinh thật đồ sộ. Cái ao xây đá ôm bó bờ, có cửa cống thông trông ra ao ngoài, người dạo chơi đi vòng quanh được. Lũy tre bao bọc kín mít bốn phía. Lũ chó lài và bác cai vườn ngày đêm canh phòng. Bác cai vườn chỉ rình bẻ cần câu những đứa chui bờ tre vào câu trộm. Chẳng ai biết được trong vườn trồng những cây cảnh gì quý. Nghển lên chỉ thấy lá dừa trổ lủa tủa che mặt tường.
Tòa nhà giữa trông thẳng xuống bến ao cạnh cái nhà hai tầng. Chưa đủ, lão Ba Sinh lại tậu đất của bà ký Tân dưới Hàng Thiếc (khiến cho nhà thằng Cách ở giữ đất bị đuổi đi) để xây ngôi nhà nguy nga khác giữa xóm tôi. Trên hiên treo lồng chim bạch yến. Tường cao một đầu một với. Trong nhà ngoài sân lối ra ngõ, lát gạch bát liền không một kẽ hở.
Bởi vì lão Ba Sinh có đến ngót nửa tá vợ, những cô Tư, cô Oanh, cô Ngó vẫn nắm tóc đánh đuổi nhau táo tác từ dinh cơ ngoài vào dinh cơ trong - mỗi khi lão vắng nhà.
Đùng một cái, lão Ba Sinh bán tuốt tuột tất cả. Lão bán cũng nhanh như khi lão về làng xây các biệt thự. Rồi lão chết lúc nào, lão chết ở đâu không biết (hay là tôi không biết). Cái của phù vân, của thiên trả địa. Vừa mới hôm qua nói thế. Người ta chép miệng, chẳng bận đến mình mà cũng ngao ngán thay cho.
Những tòa nhà ngang dãy dọc dinh cơ của lão Ba Sinh rồi về tay chủ nhà pháo Phú Mỹ. Phú Mỹ có cái nhà kho chứa thuốc pháo giữa đồng Noi. Đảo chính Nhật, các làng vào phá kho. Thuốc pháo nổ, chết cháy chết bỏng thằng Cửu và thằng con đầu cậu Ba Phát với mấy người nữa. Về sau lại thấy nói cơ ngơi ấy thuộc về một nhà giàu có chân trong làng Tây ở Kẻ Chợ tên là Vũ Văn Hợi.
Cách mạng thành công, Chính phủ sung công nhà này và có cơ quan bí mật về đóng ít lâu.
Pháp trở lại chiếm Hà Nội. Bỗng dưng cả vùng đồn ầm lên Tây tìm thấy ấn vàng(1) của vua Bảo Đại chôn trong vườn dừa nhà Ba Sinh. Các báo ở Hà Nội, ở Sài Gòn hồi ấy đều đăng tin lễ rước ấn long trọng từ làng Nghĩa Đô về trao cho Quốc trưởng Bảo Đại. Nhưng người làng chẳng được xem đám rước xách nào ở đâu cả.
1. Ấn vàng (quốc ấn) của các vua nhà Nguyễn, Bảo Đại đã trao lại cho Chính phủ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nặng 10kg vàng (Theo hồi ký “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc” của Phạm Khắc Hòe - NXB Hà Nội, 1983).
Cùng khi ấy, có lệnh đổi tên mới cho làng tôi. Làng Nghĩa Đô được tên mới là làng Hoàn Ấn. Vua đã thấy lại được quốc ấn ở đây mà. Hoàn Ấn đăng đối với Hoàn Kiếm ngoài Kẻ Chợ. Người Tây muốn tô son trát phấn lịch sử cho lão vua bù nhìn. Kể chúng nó vừa thâm lại cũng vừa lờ ngờ.
Ở làng người ta thì thầm cái người tìm ra chỗ chôn ấn vàng trong vườn nhà lão Ba Sinh là ông tài Nền đã được Tây trả công cho hai trăm bạc Đông Dương. Khi hòa bình lập lại, tôi trở về làng, có hỏi ông tài Nền về việc này. Năm ấy, ông tài Nền già yếu, bước vài bước đã thở. Có vợ chồng người con gái thì đã di cư chạy đi Lào. Ông ở một mình, túng bấn. Ông tài Nền không trả lời tôi, ông chỉ thều thào:
- Anh ạ, các cụ nói chẳng bỏ đi câu nào, được bạc thì sang, được vàng thì... Nghiệm có thế.
Hình như ông tài Nền cũng chẳng bao giờ nói với ai chuyện cái ấn vàng. Thành thử, câu chuyện cứ thực thực hư hư. Chỉ biết, việc vua bù nhìn với cái triện vàng và đời lão Ba Sinh với cái dinh cơ ấy đều là của phù vân mà thôi.