25 - Bà Viết
Nhà bác cu Cách trước kia ở nhờ trông nhà ở làng cho bà ký Tân có cửa hàng dưới Hàng Thiếc. Cái nhà gỗ to đã dột nát và khoảng vườn rộng, trong đó có nhiều cây na, cây xoan, một cây dừa. Bà ký Tân bán nhà đất ấy cho lão Ba Sinh. Lão này phá đi tất, làm nhà tây. Cô Oanh, cô Ngó vợ lẽ lão ở dinh cơ mới ấy.
Thế là nhà bác cu Cách phải ra nhờ làng, làm cái lều trú chân ngoài vườn đền. Nheo nhóc quá.
Nhưng mà, cả khi ở cửa cao nhà rộng trong xóm hay bây giờ chui rúc bờ ao bờ chuôm, bà Viết vẫn thế. Bà Viết không nhờ con, mà vợ chồng bác cu Cách với một lũ con cũng chẳng có đâu đãi mẹ nổi lưng bát cơm. Bà Viết đỡ đần thêm nhà nó là đằng khác. Có khi xong buổi khâu vá, ăn cơm rồi còn được công vài ba xu, bà Viết cũng mua về cho các cháu cái bánh đa, bẻ chia cho mỗi đứa một miếng.
Khi gió bấc hiu hiu thổi xao xác lá đa, lá bàng rụng, người đi ra đường, mặt gây gây xởn xơ, biết thế là mùa lạnh đã tới. Lại đoán bà Viết sắp đến nhà tôi. Lưng bà còng rạp. Tay bà cắp cái thúng nhòi con con. Bà bước vào cửa, ngước khuôn mặt bé choắt, miệng móm mém như nhai trầu. Mỗi năm, đầu mùa trở trời thì bà Viết đến. Bà lần lượt đi các nhà khắp làng Tân, làng Nghè rồi khoảng ấy vừa đến lượt nhà tôi. Bà chẳng phải hỏi trước xem nhà có gì để khâu vá, mà nhà tôi cũng chẳng gọi bà đến hộ một vài buổi. Bà đến các nhà theo lệ.
Bà Viết cũng không phải thợ khâu. Vào khoảng một chạp, trong làng thường có các bác phó khâu ở Bằng Vồi lên. Các nhà có may quầo áo tết, váy lĩnh, tấm áo the hoa, cả chiếc mũ thóp và xống áo trẻ con, người ta đón bác phó khâu quen này về nhà. Không mấy ai mang vải lên các lò khâu trên chợ. Vì cuối năm, tự nhiên công khâu các lò lên đùng đùng. Bác thợ người Bằng Vồi, cơm nuôi, chiều ngày ngày phiên có cút rượu, công xá vẫn thế, không nhiễm thói bắt chẹt của phường chợ. Ngoài hai mươi, ăn cỗ sắp ấn xong, bác mới đi các nhà, tính toán. Sau, bác thợ khâu quê Bằng Vồi lấy cô Cọ bán hàng nước đầu chợ, bác phó ở rể bên trại Kho Than. Ngày hòa bình mới lập lại, tôi còn gặp.
Bà Viết không sánh được với bác thợ khâu Bằng Vồi. Chưa chắc bà đã đưa được kim cho khỏi toạc cái chân què đũng quần trẻ em. Bà là thợ đụp thợ vá. Quanh năm, bà Viết đi vá. Nhất những nhà lắm trẻ con, xống áo rách luôn, chỉ ít lâu lại phải gọi đến bà. Bà Viết đi vá khắp các nhà, từ đầu làng đến cuối xóm, lần lượt rồi lại bắt đầu lại.
Bà Viết đã vào ngồi đầu phản hè, như đợi. U tôi đem ra cái âu trầu. Bà Viết lấy cái cối đồng giắt trong thắt lưng, bỏ lá trầu, mảnh vỏ, miếng cau rồi ngồi ngoáy trầu, chờ tôi lấy cái chiếu thủng giữa trải ra ngoài hè nhà dưới. Bà Viết bảo có miếng trầu ăn sớm cho ấm bụng.
Bà Viết vừa thu xếp mọi thứ đâu đấy, trên mảnh chiếu rách đã thấy gọn ghẽ tươm tất. Thúng khâu đặt một góc. Bà nhặt trong thúng ra cái đê, một thanh tre làm thước, mảnh phấn lơ và cái kéo thưỡi một bên tay cầm. Cuộn chỉ đen chỉ trắng. Cả con chỉ vàng mua trên chợ của các cô bán chỉ người Tây Hồ. Kính của bà Viết chỉ có hai tròng mắt. Đôi gọng được thay bằng hai sợi chỉ xoe lại thành lỗ chòng lọng đeo vừa lên vành tai.
Bà Viết ngồi nhai trầu phóm phém - bà Viết chẳng còn cái răng nào, bà cứ nói những chuyện đâu đâu một lúc. Khi lẩm nhẩm một mình, khi có bà tôi ở đấy. Rồi bà Viết mới ngồi vào chiếu. Trước mặt đã lù lù một đống những quần áo rách, sứt chỉ, xổ gấu của mọi người trong nhà mà u tôi vừa khuân đến.
Thôi thì cũng là vừa hôm ấy trời se se lạnh. Cả nhà ai cũng lục lọi các xó xỉnh. Quần áo cũ trong hòm, trong chum, cũi bát, dây treo cuối buồng, ôm ra trông chết ngốt. Nhưng cũng không đến nỗi oi bức như mấy hôm trước. Lại vẫn còn đem ra thêm. Các dì tôi, u tôi, đủ thứ táp nham. Những cái quần của tôi rách tuông cả gấu, cả đầu gối. Cái áo dài chéo go thâm, hai bên khuỷu rách lòi, bà Viết đã vá chồng lên không biết tới lần này lần thứ mấy. Tôi vẫn phải lấy mực bôi vào hai khuỷu tay tôi. Cho thày giáo khỏi trông thấy lỗ áo thủng. Rồi cái dải áo, cái vạt, cái nách áo, chúng nó giựt lúc kéo co, đã rách mấy lần.
Tất cả bày ràn rạn trước mặt bà Viết, quanh bà Viết. Bà Viết nhấc lên, rũ ra từng thứ xem phải ríu chỗ sứt chỉ hay vá mảnh, rồi bà lại xếp lại, chồng lên nhau, thứ tự, ngay ngắn. Rồi mút sợi chỉ, xâu kim thong thả, bà Viết rút từng cái, lần lượt làm.
Bà Viết ngồi vá suốt ngày. Bà Viết thật khéo giật gấu vá vai. Cái áo nâu dài của dì tôi được đổi vai hẳn hoi, mà không cần thêm một miếng vải mới. Quần áo tôi, đít quần, đầu gối, khuỷu tay, chỗ nào bàn ghế mài mòn, đít quần đầu gối hay ngã rách, nách áo hay bị giằng kéo, bà Viết vá chằng lên. Bà Viết xẻo đằng trước đưa xuống gấu, rồi đột tà, lấp lỗ khuy thành giải buộc, tự lo liệu thu xếp lấy tất cả.
Bà Viết đeo kính lên, bắt đầu khâu. Cái lưng còng càng lom khom, rạp ngang, lẫn với đống quần áo. Thỉnh thoảng bà kể vè kể chuyện. Quanh quẩn, lần nào năm nào thường chỉ mỗi một bài vè dài. Đến đỗi tôi chốc lát ngồi xem bà khâu, mà nghe nhiều thuộc gần hết, đến chán ngấy.
Chao ôi, những câu hát ngơ ngẩn ngày xưa. Những câu vè về những cái chợ vùng Hà Đông, Sơn Tây, nhiều nơi tôi sau này đã có đi đến, nhưng không bao giờ tôi hiểu được trong người kể và trong câu vè ý nghĩa thế nào, những niềm mong ước vui sướng ngông nghênh và cười cợt nhạo báng ra sao.
Tưởng rằng chợ Sái mĩ miều
Chỉ lắm hàng củi với nhiều hàng cơm
Chợ Nủa hàng giậm hàng nơm
Chợ Trôi hàng vải hàng rơm dãi dầu
Chợ Nghệ thì lắm bò trâu
Thái đoạn cũng lắm, bò trâu cũng nhiều
Sơn Đông chợ họp về chiều
Chỉ lắm hàng xén với nhiều hàng dao
Chợ Phùng hàng xén xiết bao
Chợ Gạch cũng lắm thuốc lào, nhang đen
Chợ Bún nửa tháng sáu phiên
Có lắm hàng xén nguyên anh kẻ Phùng
Chợ Săn gần huyện gần sông
Kẻ buôn người bán nhưng không có nhiều
Tuy rằng chợ Hiệp mĩ miều
Chỉ lắm kẻ cắp với nhiều lái buôn
Chợ Cốc nửa tháng sáu phiên
Chỉ lắm ngô đỗ với nguyên củ từ
Thọ Lão chợ họp chán phè
Cầu quán chẳng có, y như ngoài đồng
Lờ đờ chợ Triệu mà đông
Tiếc rằng cả lớn mà không bán bồ
Chợ Mía mới họp mà to
Những thằng Mông Phụ cứ dò xuống chơi
Thế là bài chợ xong rồi
Thì em phải họa bài trời anh nghe...
Lúc nghỉ tay đi ăn cơm hay đến chập tối xếp dọn lại để mai làm, bà Viết lặng lẽ như vẫn thế. Hôm sau vừa nhai trầu ngồi xuống, tôi đến xỏ hộ bà kim, bà lại bắt đầu cặm cụi, một chốc, lại cất tiếng ti tỉ kể cái bài vè về chợ hôm qua. Thế nào nhỉ? Ờ, cũng sắp hết... Những thằng Mông Phụ... thì em phải họa bài trời... Thôi, kể lại từ đầu...
Chỗ ngồi vá của bà Viết ở đầu hè nhà dưới. Gió bấc cứ rập rờn to dần đã nghe rào rạt trên tàu dừa. Tôi vác đến mấy chồng giấy phèn chặn đằng trước, che gió. Bà Viết nói đã đại hàn tiểu hàn đâu mà lo rét. Rồi đến lúc rét cóng cá thì tính làm sao. Cái áo bông tao vẫn nhét đáy thùng kia, chưa phải xỏ nửa ống tay vào. Đúng vậy, chiếc áo bông ngắn lép kẹp mỏng dính của bà Viết vẫn để trong thùng cùng đôi dép kẻ Noi quai một lỗ ngón chân giữa. Chẳng hiểu bà không biết rét hay bà vốn khỏe chịu rét, quanh năm bà đi chân đất. Bà nói đôi dép ấy bà mua từ ngày còn con gái. Chẳng như các cô các cậu bây giờ, dẫm phải cứt Kẻ Chợ một năm lê mòn mấy đôi guốc sơn tân thời. Phí của làm sao! Một người chế: “Dép bà Viết hỏng thế nào được, bà có đi đâu mà hỏng!”. Quả là bà Viết không đi dép, không đi guốc. Đi khâu, ngồi chiếu nhà người ta, bần cùng bà mới đem theo đôi dép đến để rửa qua cái chân mà ngồi. Bà Viết nói đi chân đất nó mát, quen từ đời các cụ rồi.
Bấy giờ bà Viết kể sang cổ tích. Không phải chuyện Tấm Cám, chuyện bà Chúa Ba. Bà Viết và bà tôi có một kho chuyện trong làng từ đời xửa đời xưa. Nhớ lâu nhớ mới, không biết bao nhiêu là chuyện. Chuyện ma, chuyện áp tết, từ gà gáy kéo nhau đi buôn tranh gà Kim Hoàng trong Canh. Chuyện hội cờ người ở Mọc, chuyện kiệu bò đền Trại. Chuyện các ông đề, ông lãnh nổi quân ngoài đồng. Ai bỏ làng đi đâu. Quân Cờ Đen bắt những ai đi khuân vác rồi mất tích, cả xóm Giếng có cái giỗ chung. Cái năm vỡ đê Hoàng Mạc. Chuyện chẳng khi nào dứt. Sau này, làm nghề cầm bút, trong tưởng tượng của tôi, cái làng Nghĩa Đô xa xôi từ bao giờ lại trở về tôi, có lẽ những hình ảnh ấy đã chồng chất in xa từ những câu chuyện ngày xưa này.
Trẻ con cả mấy nhà đến xúm quanh chiếu khâu của bà Viết. Chúng nó cấu nhau, vật nhau chán rồi lại ngồi im nghe bà Viết kể vè các chợ và chuyện ma.
Bẵng đi ít lâu, một hôm nghe tiếng phèng phèng đám ma ngoài đầu làng. Bà tôi về bảo:
- Đám ma bà Viết. Sao bà ấy đi nhanh thế, như đi ngủ. Thôi, cũng may.
Mỗi khi gió bấc hiu hiu thổi, tưởng lại thấy bà Viết cắp cái thúng khâu, lưng còng rạp, lom khom bước vào cổng.