27 - Người ngụ cư sau cùng
Nhiều làng xóm chen chúc, không cách sông, cách hồ, mà lạ, giọng nói thật khác nhau. Tiếng Đông, Hồ khác Sài, Bái. Tiếng Ba Làng, Yên Thái khác tiếng Nghĩa Đô. Mà bốn làng Nghĩa Đô giọng nói cũng khác nhau cả bốn. Cả làng đều làm nhiều nghề khác nhau. Nghề giấy phải mua liềm seo trên Cáo. Cây dó tận Yên Bái thả bè về, vỏ bo, kễnh làm giấy xấu hơn thì ở Bắc Giang, ở Hòn Gai. Nghề lĩnh lụa, tơ mái mua tơ ở Phùng, ở Hưng Yên. Từ Kẻ Noi lên Kẻ Phùng, tiếng nghe càng khó. Thế mà còn có những người rất lạ đến ngụ cư. Chẳng phải ở vùng khác, mà người nước khác. Tôi cũng có lần kể về người Ấn Độ và người Nhật(1) đến ở vùng tôi. Cũng chẳng lạ, bởi vì các làng mạc đều ở bên cạnh thành phố.
Những người Tàu đến ở từ bao giờ. Mấy đời nhà ông Sồi bán thịt lợn. Chú khách Lâm bán phở đầu dốc chợ. Có khi tôi còn xam tiếng, chứ con cái nhà chú Sồi cả đời ru rú xó làng, nói giọng Bưởi đặc. Những người Tàu thợ đập bạc làm vàng lá ở đầu làng Đông, ai cũng cao lớn, lực lưỡng. Hội tháng tư, chú khách Quang áo quần bi-da-ma (pyjama) lụa bảnh bao diện đi chơi khắp làng Đông, làng Hồ, các cô thợ seo mê tít.
Tháng Tám năm 1945, quân Tàu Tưởng làm quân đội Đồng Minh kéo vào miền Bắc nước ta nhận sự đầu hàng của Nhật. Đông vô kể. Bọn đổ bộ vào Hải Phòng. Bọn từ Quảng Tây, từ Vân Nam theo đường Lạng Sơn và Hà Giang đi bộ xuống.
Những toán ở Vân Nam đến Hà Nội trước tiên, từ phía Lào Cai. Người đi xem lính Tàu như xem hội có phường chèo đóng đường. Chẳng ra vẻ lính tráng gì cả. Hàng trăm người xốc xếch, mũ áo vàng đất thó, bắp chân quấn xà cạp, chân đi giày cỏ. Thỉnh thoảng mới có ông quan đeo khẩu súng lục hộp gỗ đã lên nước mồ hôi đen nhoáng. Đằng sau, loi thoi bọn quảy thùng, chảo, buồng chuối xanh, bắp ngô, một bó dây khoai lang, các thứ quơ được dọc đường. Hình như không phải là lính, các quan Tàu nhặt vội ở đâu được những người này rồi lùa đi.
Có người đau chân khập khiễng, rồi ngồi xụp tựa gốc cây. Ống xà cạp tụt xuống che bàn chân nhợt nhạt. Bởi thế, nhanh chóng, người ta đặt tên là “Tàu phù”.
Một bọn lính Tàu về đóng ở trường đạo La Cooc-đe gần Quần Ngựa. Ngày nào cũng đi chợ. Những ông quan đeo khẩu poọc hoọc hộp gỗ tụt ngang đầu gối cũng đi la cà trong vùng. Lính tráng thì la liếm, nhớn nhác.
Khí thế những ngày khởi nghĩa còn đương sôi sục trên đường cái. Các đoàn biểu tình trương cờ liên tiếp trong phố từ ngoài đầu ô vào. Người ra trụ sở ghi tên đi Vệ quốc đoàn. Tiếng trống liên hồi tối ngày. Nhưng cơn đói khủng khiếp vẫn còn phảng phất rã rời đâu đây. Lều chợ, cầu chợ rỗng không. Mà dẫu cho có miếng bánh, mớ rau, cứ thấy lính Tàu vào chợ, ai cũng vội giấu biệt. Giấy bạc quan kim xanh xanh. Đi chợ, người lính Tàu phải đeo từng bó, có khi quảy cả gánh tiền. Mấy chục tờ quan kim chưa chắc mua nổi mớ rau muống. Thế là cứ vơ bừa lấy. Lính Tàu cũng đói vêu vao, chỉ nháo nhác sục ăn. Cướp cả những bánh khô dầu của cái chợ đói còn sót lại. Vớ được thúng củ cải, một lũ ngồi duỗi thẻ hai cái chân quấn xà cạp, nhá rau ráu.
Nhưng rồi có những cánh quân khác lắm súng hơn bọn Vân Nam. Cái hôm cả vùng kéo ra biểu tình tuần hành tiến đến vườn hoa Con Cóc bao vây rồi trèo vào phủ Thống Sứ, mà khí giới rặt dao quắm, tay thước. Đội tự vệ cũng chỉ tập súng gỗ, lựu đạn gỗ. Thế mà bây giờ bọn lính phù thũng kia có súng, cứ lừ khừ đi, ngứa cả mắt. Nghe nói ở trên bến Chèm, tự vệ tuần sông đã tóm lại rồi tẩu tán cả thuyền người thuyền súng. Chẳng may, một lính Tàu nhảy xuống sông, trốn thoát. Cán bộ cả xã còn đương bị ngồi Hỏa Lò đợi xử. Chết chém là cầm chắc. Súng và người quân Đồng Minh kia mà. Nghĩ kỹ đi, mà thó khẩu súng của lính Tàu đi chợ có thể khác. Nhưng biết đâu nhỡ nó chạy được, nó về gọi cả lò ra. Nó đốt chợ. Nó đốt cả làng. Làm thế nào?
Tình hình cả nước và ngay trong thành phố còn đương bối rối. Trong Nam Bộ, quân Anh đội danh nghĩa Đồng Minh vào đem lậu theo cả quân đội Pháp. Cuộc kháng chiến đã nổ ra giữa Sài Gòn. Trên nửa nước, từ Đà Nẵng ra, chỗ nào quân Tàu Tưởng đến treo cờ ru-lip(1) chỗ ấy có Quốc Dân Đảng núp bóng. Quốc Dân Đảng đã cướp các tỉnh lỵ Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên... Ở Hà Nội, đã chiếm khu Ngũ Xã trong bán đảo hồ Trúc Bạch. Quốc Dân Đảng còn ở rải rác nhiều nơi: trường Yên Thành, phố Hàng Bún, phố Quan Thánh, phố Ôn Như Hầu gần hồ Thiền Quang. Quân Pháp thì đóng trong thành, trường Bưởi, nhà Diêm. Quân Nhật bại trận giữ phủ Toàn Quyền chưa giao cho ai. Ngày ngày, lính Pháp đi gầm ghè với tự vệ các phố của ta. Có hôm, quân Tàu và quân Pháp bắn nhau quanh hồ Hoàn Kiếm ngay trước cửa tòa báo Cứu Quốc của chúng tôi.
(1) Cờ Tàu Tưởng Giới Thạch màu xanh có hình mặt trời tia trắng, trông giống cái líp xe đạp. Người Hà Nội gọi là cờ “ru-líp”.
Rồi một hôm người ta thì thào rỉ tai kể chuyện có một bọn lính Tàu quảy bồ đi chợ, lại theo người vào trong làng. Hình như đi mua lợn. Nhưng chẳng thấy đứa nào ra. Những người khác nói đấy là Việt Minh nhử chúng nó đi theo. Ra hiệu bằng tay, bằng mắt, vào đây, vào đây bán cho. Con gà gáy kéc ke ke. Con lợn kêu éc éc. Hai tay ta lùa vào miệng vờ và cơm. Cái cổ ngửa lên giả cách tu rượu. Cả cơm, cả rượu, mấy người lính cười chìa hàm răng vẩu, lững thững đôi bồ vào làng. Lính Tàu đi chợ, cứ mất tích cả bọn, cả súng ống, không ai biết.
Thế mà có người lính Tàu ấy vẫn đi chợ. Làng nước xì xào. Người này có vẻ quan, không phải lính. Ông quan Tàu mặc áo rộng ống tay, đội mũ cái lưỡi trai bóng nhoáng. Khẩu súng poọc hoọc bao gỗ đeo lủng lẳng đằng lưng áo. Chân đi giày vải xám. Mặt mũi trắng trẻo, nho nhã.
Ông quan Tàu không vào chợ. Không phải ông ấy đi chợ. Ông ấy lên dốc Sài. Không biết từ bao giờ và chẳng biết ai mách, ông ấy đã biết cái nhà thổ mụ Tìu ở trên ấy.
Phố chợ Bưởi không có nhà hát cô đầu như dưới ô Cầu Giấy hay ở mả ông Năm. Bởi hầu hết chỉ có dân thợ ít tiền, lại đương đói. Cảnh ăn chơi ở đây cũng đìu hiu. Ấy là hàng phở Trương Hàm, phở trâu ở dốc Sài, bên này đê có cái lều nhà thổ mụ Tìu. Nhà Tìu chứa gái, lại cả bàn đèn thuốc phiện. Đấy là cái bẫy mấy anh thợ cửi làng Nghè, thợ thâm trong Võng, thợ cưa xẻ ở xưởng nứa dốc Tân và bến tàu điện. Cái lều nhà thổ mụ Tìu im lìm hệt đống rạ nát. Đêm đến, đèn đóm lom đom, người bước vào vội, chập choạng, thấp thoáng như con dơi đảo cánh bắt muỗi.
Cũng không mấy ai trông thấy các cô nhà thổ mụ Tìu. Người đàn bà khốn khó ngã vào nhà Tìu chắc không khi nào còn ló đầu ra khỏi cái cửa khép có cành rong rấp cả ngày. Dạo sắp khởi nghĩa, anh Tĩnh với tự vệ cứu quốc làng Bái đã kề súng lục vào khe liếp, bắn chết mật thám ba Lự nằm hút thuốc phiện trong ổ rơm nhà mụ Tìu. Có người nói anh Nghĩa làng Bái bắn ba Lự. Anh Tĩnh bảo anh Tĩnh bắn. Tôi không rõ thực hư thế nào.
Ông quan Tàu này chẳng biết những việc dữ dội ấy. Ông quan cứ kéo cành rong, bước vào nhà Tìu giữa cả ban ngày. Khắp vùng đã biết ông quan tàu mê một cô gái nhà thổ. Ngày nào ông quan Tàu cũng đến. Không hiểu sao ngon ăn thế mà chẳng có du kích làng nào tìm cách cướp súng của ông quan này.
Một ngày kia, đám quân quan đóng trên trường La Coóc-đe ở Quần Ngựa kéo đi hết. Thế mà vẫn thấy ông quan ấy ngoài chợ. Vẫn cái áo vàng lụng thụng. Nhưng lạ sao, ống quần xắn lửng thửng ngang đầu gối. Mũ lưỡi trai vứt đi đâu, lộ ra cái đầu trọc tếu.
Ông ấy đi với cô nhà thổ, hai người ra chợ. Người ta mới tường mặt cô này. Cô nhỏ bé, mặc áo cánh nâu. Cô xách một bó củi. Nét người dịu dàng, hiền hậu. Nếu chẳng biết là gái điếm ở nhà mụ Tìu, người ta ngỡ cũng như đấy là cô hàng bán cau khô ngồi trong cầu chợ.
Cả vùng đồn ầm ông quan ba hay ông quan tư này trốn lại, đến ở nhà mụ Tìu. Ông quan Tàu mê cô nhà thổ, đưa tiền chuộc cho nhà chứa. Mấy hôm sau, hai vợ chồng ra thuê một gian ở dãy nhà cuối phố chợ. Sớm sớm, ông quan Tàu xách đôi thùng lên giếng Yên Thái, quảy nước thuê đổ vào các tàu seo. Ông quan Tàu làm nghề quảy nước. Đến khi kháng chiến, người các làng trong vùng tản cư lên Phú Thọ. Không biết vợ chồng nhà ấy đi theo, hay đi đâu, không gặp nữa.
Chú thích:
(1) Tự truyện, hồi ký (đã in lại nhiều lần).