← Quay lại trang sách

26 - Làng tôi

Ở các phố cũ, hầu như phố nào cũng có đình, có đền, có miếu. Ngày trước, đâu như các phố này cũng có việc làng và tế lễ cẩn thận. Nhiều đình thờ vọng - thờ thành hoàng làng ở quê. Đình Phất Lộc của người gốc làng Phất Lộc. Đình Đồng Lầm của người Đồng Lầm dưới Nam. Có những đình thờ nghề tổ: đình Hàng Đào của phường nhuộm ở Đan Loan. Bà con thợ bạc gốc Châu Khê xây đình Hàng Bạc. Đình Hàng Quạt của phường làm quạt, quê cũ ở Đào Xá...

Từ các đầu ô ra, mỗi đình đền đều có sự tích gốc gác. Nhưng đến lớp tuổi tôi cũng chẳng mấy ai biết rõ ràng. Lõm bõm nghe lỏm các cụ kể, biết chăng hay chớ. Tôi cũng chưa bao giờ rõ gốc gác nhà tôi, bên nội bên ngoại, các đời thế nào. Nhà tôi chẳng có gia phả. Tên ông nội bà nội tôi là gì tôi cũng không biết. Cho đến bây giờ tôi cũng không bao giờ cố gắng quan tâm hơn, không hiểu tại sao. Các gia phả, thần phả, câu đối, bia, hoành phi, trên bàn thờ nhà mình hay ở ngoài đình, cái gì thời trước để lại đều bằng chữ Hán. Tôi còn trông thấy những người có tuổi, chít khăn mặc áo dài tươm tất, quảy đôi bồ đi nhặt từng mảnh giấy bản có “chữ ta” vương ngoài đường về đốt. Người ta kiêng đem chữ thánh hiền làm giấy gói, giấy lau chùi bẩn thỉu. Chúng tôi mít đặc chữ nho. Cái lớp học “tam tự kinh” của ông đồ Huỵch, ông Tú Đễ kiệt học trò từ lâu, học trò trả chữ thầy, cũng chẳng còn hội đồng môn nữa. Ông ký Hài chuyển sang dạy một ít chữ nho và chữ quốc ngữ. Bác Cả tôi trong quê ngồi bảo học ở nhà cũng dạy quốc ngữ xen chữ nho.

Trong làng, tuy chẳng mấy ai biết mọi thứ gốc gác ra sao, nhưng ai cũng sợ ông thành hoàng làng thiêng. Làng có miếu quán, có đền, có đình tôi chẳng biết thờ ai, thần gì, mà vẫn sợ. Tôi cũng được có một lần vào hậu cung đình chỗ có ngai thờ. Một đêm năm ấy kẻ trộm lấy mất bộ áo thánh. Nhiều người vào xem, ông từ đuổi không cho đàn bà vào. Tôi chẳng biết tông tích thành hoàng làng và những vị thánh thờ ở đền, ở quán. Tướng võ, tướng văn hay người đánh giậm, người ăn mày chết bất đắc kỳ tử, chết đường được hiển thánh. Như ông Dầu, bà Dầu trên Yên Thái, ông thánh Chú bên Bái, chết đuối, ngã chết, đều được thờ đền, thờ miếu. Nhiều đứa trẻ cũng mù mịt như tôi, có lẽ đứa nào cũng thế. Nhưng mà đứa nào chửi nhau khi đã réo đến “tiên sư cái thằng thành hoàng làng nhà mày” là chửi ác nhất, đánh nhau to đến nơi.

Cứ xem những cái hãy còn, làng tôi trong vùng ven con sông cổ chảy quanh các phố xá ra cửa ô, chắc phải chồng chất dấu vết lịch sử. Từ những thuở đất nước còn trong truyền thuyết, Hà Nội đã là nơi phát tích, trên bến dưới thuyền sinh sống sầm uất. Tôi cũng chỉ biết đại khái những cái nhìn thấy như mọi người.

Thời nhiễu nhương, khi Tây mới sang, được nghe kể nhiều nhất. Vườn Bàng cạnh đầu chợ - nhưng chẳng còn cây bàng nào, nơi bãi Tây đem chém người. Đồn lính khố xanh và những cầu chợ mái xi măng Tây xây, hãy còn cây đề to cạnh đấy. Thấy bảo ở cầu chợ trước có mở đố chữ và một năm đã thi khóa sinh tại chợ. Những cánh cửa nhà ông bà tôi còn vết quân Cờ Đen đốt. Nhiều nhà ở xóm Ngoài có cái giỗ cùng ngày. Xóm ấy cậy có cổng vững và lũy tre ken mấy tầng, không chạy loạn. Quân Cờ Đen trèo lọt được vào, bắt đi gần hết đàn ông khỏe mạnh, không có người nào rồi trở về.

Bậc đá cửa đình trông ra sông. Chỗ đường dốc võng xuống ở đầu làng Tân cạnh cầu Dừa đã là bến nước. Trên cổng cái đầu làng nay còn mờ mờ hai chữ Giang Tân. Sông Tô Lịch thuở ấy thuyền bè xuôi ngược như lá tre. Dòng Tô Lịch đến ngã ba góc thành gặp sông Thiện Phù phía Quán La đổ về.

Bây giờ, dọc đường ven hồ Tây, trên cánh đồng từ Nhật Tân xuống tới áp làng Bái, lòng sông Thiên Phù từng quãng còn sót lại rải rác thành những đầm nước. Lại từ cống Bưởi đổ xuôi, sông Tô Lịch chảy giữa hai bên ruộng rau muống, liền nhau đến Cầu Giấy, qua Cót, qua Mọc sang Lủ, đấy là dòng cũ của con sông rộng xưa kia.

Chắc ngày trước làng Tân, làng Nghè là một làng. Đình làng Tân nhỏ bé, làm sau. Cũng như làng Dâu, làng Yên Phú một làng, vốn vẫn thờ chung một đình. Những năm xưa làng nước còn phong lưu giữ phong tục rước thần đình dưới lên đình trên. Các cụ thường nói “làng trên chạ dưới”, “quan viên chạ Yên Phú, quan viên Nghĩa Đô”. Người ta cũng gọi làng Yên Phú là làng Nghĩa Đô, lồng chung với tên xã, một xã bốn thôn. Trong ba ngôi đình hàng xã, đình Yên Phú cổ kính, tọa lạc nơi địa thế phong quang nhìn xuống sông. Có thể Yên Phú là gốc của bốn làng. Đình Yên Phú bị phá hồi kháng chiến không còn nữa. Một phần, ta “tiểu thổ kháng chiến”, còn bao nhiêu cây cổ thụ, đền miếu thì Tây phá nốt. Tây đã đốt rừng ông Cụ và rặng si cửa đền Trại ở Thủ Lệ. Triệt cho du kích không chỗ ẩn náu.

Một làng mà có các nghề thật khác nhau. Nghề nấu kẹo mạ ở Yên Phú đã vào ca dao cổ: “Yên Phú nấu kẹo mạch nha ngọt lừ”. Làng Dâu (Vạn Long), làng Tân (Tiên Thượng), làng Nghè (Trung Nha) dệt lĩnh: “Trai làng Nghè dệt cửi kéo hoa”. Riêng họ Lại làng Nghè chuyên làm giấy sắc cho các đời vua, mặc dầu làng làm giấy nào cũng có thể seo được giấy dó. Cả khi nhà Nguyễn đã rời đô vào Phú Xuân, giấy cho nhà vua, phong thần, viết sắc, sau này nhà thầu Tài Ngọc vẫn về mua ở làng Nghè tải đi Huế. Bà ngoại tôi cũng đã được đi tàu hỏa vào tận Huế đòi tiền bán giấy sắc, mà tôi đã được nghe bà kể bao chuyện đường trường và chuyện kinh đô ly kỳ xa xôi, nhất là chuyện phải cởi váy, mặc quần trắng vào xem các lăng vua.

Đình làng Nghè ở ven sông rậm rạp, um tùm những bụi cây duối, cây si, cây móc diều, lại càng âm u dưới bóng cây đa, rễ vắt chằng chịt thành hai cây bá vai nhau. Có một cái miếu trong thờ một con hổ bằng đá. Người ta gọi là “rừng ông Cụ”. Rừng ông Cụ, Tây sợ du kích đã đốt quang. Nhưng hai cây đa vắt vai nhau, bao nhiêu trăm năm trôi qua vẫn như nguyên. “Ông cụ” hổ đá thì lưu lạc xuống chùa Dâu nhưng rừng cây mất rồi, cũng chẳng ai buồn rước cụ về đâu nữa.

Chùa làng Tân là chùa họ. Chùa Dâu của làng, giữa vườn nhãn to cạnh ngõ Noi. Cái văn chỉ bây giờ người ta chiếm đất làm nhà rồi. Mọi xó xỉnh đều có thần đất, có ma cây gạo. Những cái bình vôi trắng tởn, trông đã rợn, buộc thòng lọng vào rễ đa, rễ si. Ở xóm Trong và đầu làng Tân, có ngôi đền. Đền xóm Trong bên cái giếng đất, nghe nói thờ hai bà - hai chị em lấy một chồng. Rằm, mồng một suốt ba tháng hè, cúng cháo. Tiếng tiu, tiếng cảnh, ông trùm Dưỡng cất giọng đọc bài cúng cháo ê a. Trẻ con đứng xúm xít đợi cướp quà. Đền đầu làng Tân, trong bóng cây hoa ngọc lan, gọi là đền Tam Thánh. Bên cổng làng Nghè còn có cái quán, bệ thờ xây lộ thiên trên gò cao. Giờ chỉ còn hai cây muỗm. Ngày trước, ở đây um tùm những muỗm, nhãn cổ thụ trên gò đất hoang vu. Tường hoa phía trước dựng tấm bia khắc hai chữ hạ mã rêu phủ xanh đen.

Cuối làng Yên Phú, ngay bờ sông trong bóng cây si âm u, có cái miếu Đôi. Tiếng đồn miếu Đôi thiêng. Người mất của, người cờ bạc hay ra miếu Đôi cầu xin. Đứng cửa miếu Đôi, trông sang bên kia sông thấy một miếu nhỏ dưới gốc đa. Vòng tròn bờ cỏ cao quanh Đấu Đong, “cái đấu ông Cao Biền đong người đem về Tàu”. Tay phải, đền thờ ông Đại Điên trông ra cầu sang Cống Vị. Nhưng đấy đã sang địa phận các làng khác.

Cánh đồng sau làng vào giáp trong Vòng, trong Noi, trên Cáo. Phía làng Dâu, còn cái quán Ba Thành. Bệ thờ và tường xây quanh, giữa ruộng. Trong sân quán, những quả chàng ràng rụng hạt đỏ lóng lánh.

Nhiều gò đống trong cánh đồng cũng có tên riêng không biết được từ đâu thành những tên ấy. Đằng kia, đồng Lỗ Vàng. Đằng này, gò Mũ Đồng Cân. Ngay trước mắt, có thế đất thanh đao. Ai để mả trúng huyệt vào đấy, con cháu không nổi tướng thì thành kẻ cướp, người làng ngại thế cho nên vùng xứ đồng ấy trống trơ không có cái mả nào.

Qua cánh đồng sau lưng làng Nghè sang Mả Mái, nhìn thấy chỏm cây muỗm ở quán Cây đầu làng Bái. Lại một cái quán. Gò đất quán Cây bên cạnh ao Cá. Ông tôi nói quán Cây thờ đức thánh Chú. Khi ông Dầu, bà Dầu bị lính đẩy xuống ngã ba sông Thiên Phù để vua Lê được khỏi đau mắt, lúc ấy ông em đương ở nhà trên Dàn. Nghe tin dữ, chạy vội về đến đấy thì vấp ngã rồi hóa. Quán Cây thành miếu thờ thánh Chú. Quán ở trên gò bên ao Cá. Ao có con cá thần, lúc nào cũng bơi cựa quậy cho nên tường quán và bệ thờ đều long lở, rạn nứt. Chữa lại, cũng vẫn thế. Người ta bảo tại con cá thần quẫy.

Bãi Cơm Thi ở đồng Vân bên kia sông, đầu làng.

Qua gốc đa, rồi cái giếng ven đường, cây ngọc lan trên sân đền cạnh giếng thơi, những búi hoa đơn đỏ. Chỉ vài bước chân quanh mấy xóm cỏn con, mà chỗ nào cũng chằng chịt, chồng chất sự tích các đời.