← Quay lại trang sách

35 - Hội làng

Trong làng, không kể nhà giàu nhà nghèo, có cái ăn hay không một đồng xu, cũng không tính các ngày giỗ và đám ma, đám cưới, bốc mộ, “dưng” sao, đặt tự ở đền chùa và ốm đau phải cầu cúng, từng nhà cũng như việc làng, việc xã và những ngày giỗ tổ của họ, chi họ, việc hàng giáp, chòm xóm - nghĩa là những dịp phải đóng góp và có động đũa động bát, cứ kể riêng các thứ lo tết nhất trong một năm, mỗi nhà theo cho có được bát nước cúng và nén hương, cũng đã nhiều, đã khướt, huống hồ lắm khi lại phải kiếm ra lẻ gạo nếp, miếng thịt lợn và cút rượu để lên giường thờ.

Con người ta làm và ăn đều khó nhọc cả.

Hãy đếm những cái Tết trong một năm. Trước tiên, tết Nguyên Đán, Tết cả. Kể cho kỹ trước và sau tết lớn này, còn có những ngày râu ria mà nhà nghèo rớt mồng tơi cũng phải có được gói hoa, nén hương. Hai mươi mốt giỗ tổ - tổ nghề giấy, tổ nghề lụa, chẳng biết tổ là ông bà nào, nhưng mọi nhà vẫn đầy đủ giỗ chạp. Hai mươi hai, ngày sắp ấn. Các quan làng hôm ấy cất triện, nghỉ việc. Làm người bạch đinh chân trắng thì chẳng bận gì, mà nhà nào cũng cúng lễ sắp ấn. Hai mươi ba, tết ông công - vua bếp hai ông một bà. Chiều ba mươi, lễ tiên thường rồi tối cúng trừ tịch. Cúng trừ tịch tiễn năm cũ và lễ tiên thường khấn mời các cụ dưới âm về sớm kịp mùng một ăn tết với cả nhà con cháu. Thế rồi, mùng một, mùng hai, mùng ba, đến mùng bốn lễ hóa vàng, mùng bảy lễ hạ cây nêu và động thổ, nhà nhà vào khung cửi đưa mấy nhát thoi lấy may. Đến rằm tháng giêng, ngày Phật lên chùa “lễ phật quanh năm không bằng rằm tháng giêng”, mới thật cạn những cái tết trong tháng đầu năm. Sang mùng ba tháng ba - tết bánh trôi nước, bánh chay cúng ông Giới Tử Thôi bên Tàu chết cháy trong rừng, phải kiêng lửa. Mùng năm tháng năm, tết Đoan Ngọ, mừng hoa quả mới. Mùa hè nắng nôi oi ả, toàn những cái khiếp đảm. Cửa đền miếu cúng quan ôn, cúng cháo vảy ra bờ bụi cho các âm hồn bơ vơ lang thang được hớp nước ngũ cốc, ngọc thực. Kịp đến tháng bảy, tết rằm vong nhân xá tội. Rằm tháng tám, trung thu của trẻ con và cả người lớn. Rồi gió heo may thổi giải đồng, vào tháng mười, mùng mười mùa gặt hái đến, tết cơm mới. Các làng làm lĩnh lụa, làm giấy chẳng gặt hái làm ra được một hạt thóc, cũng cúng mừng cơm mới.

Kể ra đến đầu cái tết, chứ còn có lo được mọi tết, đủ các việc làng việc họ cùng là các thứ giỗ chạp như thế, không phải nhà nào cũng chạy vay bằng nhau được. Nhưng mà “sống ở làng, sang ở nước”, đến ngày tết ngày kỵ, thấy hàng xóm bốn bên rộn rịch cũng áy náy, không yên. Rồi phải vay mượn, giựt nóng, bán tào bán huyệt. Cùng quá, không trông vào đâu được, đành nhịn. Nhưng thế thì không còn mặt mũi nào nhìn ai, rồi phải đến bỏ làng, tha phương.

Những tang thương ấy, các làng ở đâu thế nào thì người thiếu thốn khó khăn ở làng tôi cũng tương tự. Lệ làng giỗ tết và hội hè đình đám, vừa bồi hồi, vừa nghiêm ngặt. Mỗi năm, làng nào cũng có một dịp việc làng. Tế thành hoàng làng, mở hội hay không, còn tùy. Có làng hội hè linh đình. Cho là có hèm, đói cũng phải làm vậy. Có làng chỉ xôi gà qua loa xong rồi ông từ đóng cửa đình, cửa đền. Cũng là cái “sự tích ông thánh” thế. Nhưng thật ra cũng chỉ vì từ xa xưa đã làng thì có, làng thì chẳng bằng ai mà thành lệ. Làng tôi không có hội, kể từ khi tôi biết. Cả đời chỉ đi xem hội thiên hạ.

Dưới làng Mọc Cự Lộc, Mọc Quan Nhân tháng giêng vào hội đánh cờ người. Riêng sắm sửa xống áo cho quân cờ cũng phải nhà khá giả mới lo được. Các làng này nhiều quan to và người làm việc nhà nước. Cả vùng cơm đùm cơm nắm trảy hội Mọc từ gà gáy. Đi nửa buổi đã tới cống Mọc. Tháng giêng, tháng tám hội đền Ghềnh bên kia sông. Khế cơm không chua không ngọt, bánh đa đường gấp, bà đồng khăn chầu áo ngự về đền, người xem hội càng nô nức. Đền Trại ở Thủ Lệ thì rước kiệu bò.

Kiệu bát cống sơn son thếp vàng nguy nga. Mười tám trai kiệu thong dong bốn phía. Người đô tùy nào cũng lực lưỡng cởi trần, đóng khố điều, đầu chít khăn nhiễu tam giang, mắt đeo kính râm. Một tay xòe mở quạt tàu lụa bạch. Lúc cất tiếng hí, kiệu bay kiệu bò, tay lại mở quạt che miệng.

Nhiều nơi rước xách, song chỉ đến đền Trại mới được xem kiệu bò. Đám rước kiệu bò từ cánh đồng lên cái gò dài song song với hồ nước trước đền mà người ta bảo đấy là lưng con rồng. Rước đến chỗ kiệu bò lên đồi mới là lúc hay nhất, thiêng liêng nhất. Các đô tùy nghỉ ở chân gò được đưa cho nhấp một chén rượu, mặt đỏ phừng cùng một loạt nhấc đòn kiệu lên vai, cất tiếng hí ran như cả đàn ngựa động đực rồi nâng “kiệu bay” xoay tròn trong cánh đồng. Các trai kiệu lần lượt người quỳ người đứng giữ bát nước cúng trên mâm bồng không đổ một giọt, cái kiệu từ từ bò lên mặt gò. Người xem hội đông nghịt khắp đến các chân tre. Trên gò cao đứng xa đến đâu cũng nhìn được cái kiệu bát cống lên gò rực rỡ lộng lẫy thật sướng mắt.

Các làng quanh làng tôi cũng có hội. Nhưng hội nhạt nước ốc, chẳng mấy ai nô nức. Hội bơi ở Đăm, mấy chiếc thuyền đã tróc sơn bơi rào rạt trong cái đìa đầu làng. Vui xem hát, nhạt xem bơi là thế. Hội Noi thì, quan viên đi rước quần nâu xắn móng heo. Chỉ đáng xem có mỗi cái kiệu bát cống mà cái năm Tây hạ thành, người Noi đã vào trong thành Cửa Bắc khiêng ra được. Hội làng Đông, làng Hồ được chờ đợi hơn cả.

Hội Đông, Hồ khoảng từ rằm tháng tư trở ra, kéo dài một phiên chợ. Nhưng làng Đông cũng chỉ có tế thần và mấy tối chèo hát sân đình. Bên làng Hồ vui hơn.

Làng Hồ có rước to. Rước về đình từ đền Voi Phục bên kia cống Đõ hay từ cái miếu ở xế cổng xóm Đông Lân, không nhớ. Chỉ thấy người xem người cứ đông ngộn lên. Cái cô gái làng khiêng long đình. Mỗi cô một cái quạt đào. Chốc lại xòe quạt, che miệng, khẽ hí đều một tiếng. Các cô kén đâu được khăn sa tanh, áo dài hoa đào, quần lĩnh tía, giầy cườm. Con trai cầm tán, che lọng. Các ông trạc năm mươi, mới lên lão, áo the hoa khăn lượt, bưng đồ bát bửu dùi đồng, phủ việt thong thả bước sau phường bát âm, tiếng trúc thánh thót, sinh tiền réo rắt, tiếng nhị cò cư, người gõ cảnh, đánh tiêu...

Người xúm quanh xem anh đánh trống.

Chiếc trống cái hai người khiêng. Người thủ hiệu mặc diện khăn nhiễu tây, nón dứa chóp kền mạ bạc, quai lụa điều. Mắt đeo kính râm, áo the hoa cặp. Quần là ống sớ. Chân bít tất lụa đào xỏ trong đôi giày Gia Định mõm đen nhoáng. Tay lót mùi xoa lụa mỡ gà viền chỉ hồng, cầm cái dùi trống sơn đỏ. Khi đánh trống, múa dạo mấy vòng, đổi bên tay mùi xoa, rồi giơ cao, quay người uốn éo, nhô lên cúi xuống thấp thoáng qua lại, mắt kính nghiêng ngả nhìn ra hai bên người đương trầm trồ, tấm tắc khen thủ hiệu múa dẻo. Thế rồi, một tay chống nạnh, nghiêng nghiêng, thong thả buông một dùi vào mặt trống. Xong lại lùi ra, hoa dùi lên múa mấy vòng rồi mới đứng yên. Rồi lại đổi mùi xoa lót tay cầm dùi, bắt đầu múa lại. Tiếng trống nổi. Đằng kia, tiếng chiêng nhịp nhàng đáp. Tùng... bi... li... Tùng... bi... li... bi... li...

Nhưng người xem càng đông hơn quanh đám phường chèo đóng đường. Các đào kép phường hát đón bên Bắc về đi giễu ban ngày giữa đám hội. Môi son má phấn, mũ giáp, cờ cắm lủa tủa sau lưng. Có người đóng ông phễnh đeo chiếc mặt nạ gõ to bằng cái mẹt điệp bạc, áo thụng tay phe phẩy chiếc quạt mo. Trẻ con và bọn con gái thì xán đến trước hai anh trai làng mặc giả gái làm “con đĩ đánh bồng”. Áo the đổi vai cánh sen, vạt hoa lý thắt quả găng, quần lĩnh tía, khăn vuông láng thâm, cũng má phấn môi son trai lơ. Đôi vú độn to bằng chiếc ấm giỏ phồng lồi trong yếm, vai đeo quai chiếc trống cơm dài ngoẵng. Các “cô” bước núng nính, hai bàn tay tõe cong ngón, đập khe khẽ vào mặt trống. Tiếng trống cơm bùng bùng, xàm xạp, ngẩn ngơ. Những cô gái làng càng chen xô vào nhìn tận mặt “con đĩ đánh bồng”, như chưa biết bao giờ, rồi đấm lưng nhau cười rinh rích. Hai anh trai làng đóng đĩ đánh bồng, vẫn thản nhiên núng nính hai tay vỗ bập bùng hai mặt trống cơm, “các anh ả mặt chín lừ” - mấy cô bấm nhau thế.

Trẻ con chạy theo à à. Đám rước rồng cuốn hút hai người hơn cả. Con rồng nhấp nhô mỗi khúc một người đỡ, có đến hơn chục khúc. Người cầm đuôi, người cầm đầu, người múa ngọc và người đánh trống, bốn người được cắt chân quan trọng nhất đám, diện bảnh chọe giống hệt nhau. Khăn nhiễu thiên thanh, áo cánh lụa thâm, thắt lưng điều, quần túm ống vào trong xà cạp hoa đào. Chân đi đôi giày tàu nhung đen. Và, lại như những chàng trai ăn diện đương thành mốt, mỗi người một đôi kính râm mắt kính đen kịt.

Chiếc xe trống cái một người kéo thong thả. Người đánh trống xe, một tay chống nạnh lấy điệu, ngả người nện liên hồi. Con rồng vươn lên vờn ngọc, đầu bắt đuôi vẫy vùng, rồi đuổi ngọc, nhấp nhô trong tiếng ngũ liên dồn dập.

Trong sân đình làng có hội thi cây cảnh. Cây cảnh người đem về thi treo quanh hiên ngay cạnh các giải thưởng: vuông vải điều, bánh pháo, chùm dừa. Những quả hồng, quả na, quả bưởi, quả cam bằng sáp nhuộm khéo như thật. Người xem tha thẩn, ngắm nghía. Gần đấy, bên góc sân đình, cánh đu tiên tròn xoe cao hơn ngọn cây ngọc lan. Những người đánh đu trai lẫn gái ngồi trong vòng quay bổng lên, trầm xuống như guồng vè cây suốt. Tiếng mây tre trên đu cọ vào nhau cót két, kĩu kịt giữa tiếng cười tiếng hát inh ỏi. Rạp chèo rung trống từ lúc lên đèn đến nửa đêm. Người chen ra chen vào, đông như nêm cối.

Mấy ai biết mỗi năm, bên trong đám hội diễn ra biết bao cảnh ganh đua, tranh giành, những cái khổ đóng góp hàng phe hàng giáp nặng nề đến từng nhà. Người chững chạc vai vế thế nào mới đáng kén vào cầm bát bửu, cái kích đồng, quả chùy... Con trai nhà ai được vào chân thủ hiệu đánh trống, con gái được khiêng kiệu vai trước vai sau. Cũng phải ngôi thứ mới được cầm tàn, cầm lọng và người được chọn múa đầu rồng, cầm đuôi rồng cũng khác những chân cầm độn các khúc giữa. Anh độn vai kéo xe trống với anh thủ hiệu đánh trống thì giàu nghèo khác nhau trời vực rồi. Chỉ có mấy gã đeo mặt nạ làm ông phễnh, cầm quạt mo, và người đóng đĩ đánh bồng, đấy là những anh ả trơ trẽn ăn chơi đã có tiếng, thì không kể thứ bậc gì. Rặt những người lép vế mới phải cáng chân khiêng trống, cầm cờ ngũ hành đuôi nheo. Lại còn công phu sắm hay đi mượn, đi thuê đâu kỳ được, xoàng ra cũng phải có tấm áo the mà xỏ tay. Chẳng có phải chân trắng, không ai ngó ngàng tới, đóng vai phất phơ len lén đi xem thì xấu hổ.

Tôi xem hội làng Đông, làng Hồ từ khi còn nắm váy bà, đòi bà cõng. Chín mười tuổi, theo các dì đi hội. Lớn nữa, cùng bạn bè đua đả, đi chơi, đi chim gái, đi đánh nhau. Trong ngày đám, con trai thường xô xát gây gổ như những con gà chọi hay con họa mi sĩ diện có mái xùy. Trai làng choảng trai lạ đến ve vãn gái làng.

Làng này đánh nhau với làng khác. Chẳng tối nào không có tiếng hô hoán, người chạy ầm ầm. Nhưng ác nỗi vác gậy đi giữ mình, khác nào bảo chúng mày ra đây đánh nhau với ông. Như thế, có thể vừa tới cửa đình đã bị ăn đòn vỡ đầu. Thủ thân trong túi mấy hòn đá đường tàu, hòn gạch củ đậu. Hay con dao. Hay để sẵn gậy gộc ngoài bờ bụi đường cái. Nghe đâu ồn ào, chúng tôi xô đến. Không bận đến mình cũng vào đánh hôi. Chẳng biết thằng ấy thằng nào. Đòn hội chợ, phang lung tung rồi không phải đầu cũng phải tai.

Nhưng trai các làng cứ đi hội, không biết hãi. Còn tập võ để đi đánh nhau là đằng khác. Trong vùng có nhiều lò võ, ở làng tôi có lò ông lang Dương, đêm nào cũng đông người đến tập. Đinh tấn, trảo mã tấn, tối tối đái vào bẹn rồi bóp cho chóng săn gân, tập cả mấy tháng vững thế đứng tấn rồi mới đến các món quyền cước. Tôi cũng tập võ. Nhưng tôi theo ông Tâm đi tầm sư học đạo bí mật tận lò xa. “Để cho chúng mày thấy ông giỏi võ lúc nào mà không biết”, thế mới đặc biệt. Tôi xuống học lò võ ông Hồ ở Thể Giao, cái xóm giữa đầm lầy cạnh hồ Bảy Mẫu.

Hội quanh vùng tôi như thế. Riêng làng tôi chẳng bao giờ có hội hè gì. Chỉ mang máng nhớ đã lâu, tháng hai dưới làng Dâu, Yên Phú các quan viên khăn lượt áo the lên chạ Nghè, chạ Tân rước thần khênh xuống cái long đình. Mỗi năm vào mùng mười tháng hai, làng “có tiệc”, ông từ ra mở cửa đình. Anh tư Mít vào vườn tre bà hương Nhầm xin cây tre còi chặt về, phần đóng cọc, phần làm cột cờ. Lá cờ may bằng vuông nỉ đỏ có chữ thần to tướng, bay lất phất trên bờ sông. Trẻ con đầy sân đình, đánh trống tòm tòm cả ngày. Năm trước, còn có tế, có việc làng. Mỗi giáp mổ lợn, có năm tậu bò về thui mổ, chia phần. Những năm sau cũng bỏ.

Rồi còn kém nữa, sơ sài nữa. Cái năm mất trộm bộ áo thánh, rồi làng chẳng sắm nổi cái áo mới cho ông thành hoàng. Lạy thánh mớ bái, phải lấy vạt cờ đuôi nheo chùm lên ngai làm áo khoác cho thánh. Năm có chèo hát, năm không. Làng Tân, làng Dâu lại chẳng mấy khi gom nổi tiền đón phường chèo, chỉ đi xem kẹ hội hát làng bên. Làng Yên Phú đút nút phường tuồng vào cái cầu giữa làng. Phường kiết xác, không đủ hơi ra diễn rạp giữa trời. Một bó giáo thanh gỗ đã tròn vẹt đầu, tróc hết sơn. Có mỗi một cái hòm mộc đựng áo quần, mũ mãng. Anh kép gánh đồ, phải quảy một đứa bé một bên cho cân.

Chúng tôi chen hẳn vào trong cầu lúc chặp tối đã rung trống giáo đầu rồi. Thế nào mà chui ngay chỗ buồng trò nhìn ra. Không biết đương diễn tích gì. Thấy một bác kép đóng tướng, nách cài hai miếng gỗ, cắm sáu lá cờ con con, sặc sỡ như trẻ con đeo bùa túi ngày tết mùng năm tháng năm.

Bác kép vừa nghỉ vai, nhảy phắt một phát vào buồng trò che cái chiếu. Bác ấy cởi phăng giáp trụ lôi thôi, hở trần lưng, mồ hôi nhễ nhại. Bác vội rút miếng gỗ cắm cờ đằng lưng, gõ cạch cạch mấy cái xuống mặt hòm. Một lũ rệp đói lép kẹp to bằng móng tay đen mờ rơi lả tả trong ánh đèn hoa kỳ nhạt nhẽo. Rệp đốt bác từ lúc còn đứng múa hát ngoài kia.