← Quay lại trang sách

36 - Bắt chuột

Cánh đồng bọc sau làng tôi từ đằng hồ Tây, men Quán La sang Cáo, sang Noi rồi ngoặt về giáp các làng Vòng. Nhưng toàn ruộng xâm canh - chỉ thôn Yên Phú có một ít mảnh, còn thì toàn các làng xung quanh đến cấy hái cả. Chỉ có mùa gặt xong, người làng tôi hay ra đồng bắt chuột. Ở quê, có nơi ăn thịt chuột, có nơi không, nhiều người còn kinh là đằng khác. Nhưng những ai ăn được thịt chuột, thì nghĩ vơ vào thế này: chuột đồng không phải là chuột làng, chuột đồng khác. Chuột trong làng dơ dáy, chuột bẩn. Chuột đồng ở nơi đồng không mông quạnh, chỉ ăn thóc như con gà con qué, con chim sẻ trong vườn nhặt hạt cơm, con sâu. Cẩn thận hơn, tháng mười bắt chuột, người ta đi đồng xa, lặn lội xuống các đồng sâu thật xa làng. Không bắt chuột ở Mả Mái - có bãi tha ma, người săn chuột về tận xứ đồng lỗ Vàng, vào đồng Noi, ra bờ đìa Cáo.

Ai cũng biết, mà như không muốn biết, chuột đồng chẳng qua cũng là chuột trong làng. Đến mùa gặt, chuột đói trong làng kéo ra đồng ăn thóc, trú ngụ ở các đống cao. Mùa đông, chuột no ấm rồi lại làm ổ đẻ trong lỗ gò. Đến khi đồng ruộng vào làm mùa, chỗ nào cũng trắng nước, không còn gì ăn, không nơi trú ngụ, chuột lại kéo về làng. Như ông ngoại tôi nói, cơ chừng phải hơn: “Chuột nhà ra đồng vài hôm, ăn thóc, thế là thành chuột đồng sạch sẽ rồi”.

Và thói quen chén thịt chuột chẳng qua cũng là cung cách ăn uống của nơi thiếu đói. Mùa rét, đi bắt chuột đồng. Ngày tết ra bờ tre rình đánh chó chạy pháo. Phải nhếch nhác thiếu thốn thế nào mới ăn chuột, ăn châu chấu, cào cào nướng, ăn chẫu, nhái, ễnh ương như vậy.

Nhưng dẫu cho có là “phong tục”, cũng không phải phong tục nền nếp của những làng xóm no đủ. Làng tôi nhiều người ăn thịt chuột. Thịt chuột làm đúng món sở thích, tôi thấy cũng ngon như thịt gà, thịt chó. Đến mùa gió bấc rạt rào đưa cái lạnh về, người ngồi hàng nước chè tươi, lại tán chuyện thịt chuột rán ngon hay thịt chuột nấu vỏ quít ngon hơn. Rồi khi ngoài đồng đã gặt quang, bọn con trai và trẻ con, đôi khi cả các cụ, rủ nhau ra đồng săn chuột.

Từ từ tờ mờ sáng. Trời lạnh căm căm. Cứ sau tiết đại hàn, hôm nào rét nhất mới đi. Rét cóng cả chuột cũng ngại rét, chỉ nằm ổ trong hang. Người lạt xạt cái khố tải khoác, cái áo tơi lá theo chân đi như chạy. Mỗi người cầm chiếc nòm rơm, vung vẩy cho khói lên, đỡ rét. Mấy con chó vàng chó vện lẵng nhẵng nhô trước, tụt sau. Chẳng phải chó nòi, chó săn, chỉ là chó nhà nuôi, thau tháu lại bán, lại thịt. Không ai rủ, chó đương nằm móp bụng, thấy người đi đông, cũng tất tưởi, loăng quăng chạy theo. Người xách giỏ, xách thuổng, xách thùng, con dao phay. Người ôm một xâu hom nứa để đơm cửa hang. Các lão ông cẩn thận khi nào cũng nhớ mấy thứ vặt vãnh: cuộn thừng, sợi dây thép, đồng xu có lỗ to để bẻ răng chuột...

Mùa đông, ngay từ góc quán Ba Thành ra đã chơ vơ xám ngắt, gió ù ù thổi ngang đồng sâu sang Dàn, Cáo ra hồ Tây. Đằng làng Noi, đã thấy người quảy rơm cẳng ngô đem ra bán cho các làng làm giấy. Không nhìn rõ người, chỉ thấy lù lù như cây rơm, bó cẳng ngô dựng đứng biết đi.

Những con quạ xù lông đậu xuống nóc cầu Điều trên quãng đồng trống. Bọn người đi bắt chuột qua những bờ ruộng, gò đống trên đồng cao chân tre nở vàng hoa bánh khúc. Ở đấy, chỉ có những con chuột nhỏ, chuột nhỡ chẳng đáng bắt, và những con chuột cái gày lõ xương lừ đừ vác cái bụng chửa đi tìm hang đẻ. Vả lại, ở đồng cao đất rắn, không có nước đổ.

Chúng tôi thẳng xuống đồng sâu cạnh đìa Cáo, dưới đồng trũng hay gặp chuột đàn, lắm khi được cả tí ù - người trong vùng đặt tên “tí ù” cho con chuột to hơn cả chuột cống, tròn quay, béo nẫn như chiếc ống vầu.

Trên một bờ cỏ dọc đìa - cái đìa tháo nước từ hồ Tây sang cánh đồng Noi. Mùa này đìa chỉ còn nước đọng từng quãng. Những cái lá trang già lát xanh kín mặt bùn. Mọi người chia nhau đi tìm hang chuột cạnh bờ nước.

Giữa địa phận đồng cạnh đồng sâu, trông lại những rặng tre cuối làng thấy mờ mờ lùn xuống đầm làn cỏ may xơ xác. Bốn phía gió giật từng cơn. Những con quạ trên cầu Điều bay lên, đương cố liệng qua cánh đồng, nhưng lông cánh cứ xởn ngược, đẩy trở lại. Quạ cất tiếng kêu quà quà thảm thiết giữa làn gió dữ thốc cả đàn dạt lùi vào bờ tre.

Cửa hang có chuột thì thoáng đãng, không ẩm ướt, không mạng nhện. Đôi khi mờ mờ vết móng lắt nhắt. Hang rắn có vết hằn trườn giữa cửa nhẵn gồ sống trâu. Những con chó cứ loăng quăng nhanh nhảu đoảng thế, chẳng thấy rít róng gọi người đến đích hang chuột chỗ nào.

Đồng xuống càng sâu, mỗi lúc một rét tê. Có người chạy đi vơ rạ - những chân rạ còn lại, nhiều khi chuột nhắt đi đàn, chuột đẻ cũng rúc vào trú trong gốc rạ. Rét quá, hãy đốt một đống sưởi. Gió tạt lửa reo phần phật. Khói lên khỏi mặt gò đã tan biến.

Ở một ụ cao cạnh đìa nước tìm thấy cửa hang có in chân chuột. Cả bọn xúm lại, lấp những cửa khuất, ngách thượng. Đơm hom nứa bịt tất cả các lỗ trống. Từng nhát thuổng buông thình thịch... thình thịch... Vừa nhấc thuổng, vừa nghe. Con chuột nào nhút nhát thấy động nhào ra, đâm thẳng vào hom nứa. Chỉ việc nhanh tay bẹp rọ lại rồi lôi đuôi, một tay chẹt cổ, chuột nhe răng. Lách lỗ đồng xu vào khe răng bẻ khắc khắc. Rồi thả chú chuột mõm lõa lợi máu vào cái giỏ to.

Đã được tới mười mấy con chuột. Những con chó nhà hèn đớn, chẳng đi đánh hơi đâu nữa, ngồi chầu hẫu rồi lại chạy quanh cái giỏ lúc nhúc những con chuột đương lồng lộn.

Người xuống đìa lấy nước đổ. Nước ứ tận ngách thượng. Một con chuột lướt mướt nhảo ra. Vẫn chuột nhỏ, chuột nhỡ. Tổ này có vết chân chuột to, chuột tí ù. Chuột tí ù thì chớ hòng bắt dễ. Đất chuyển, nước ngập đến khấu đuôi, tí ù vẫn đứng yên.

Đổ nước òng ọc xuống, vẫn thấy bốc nồng hơi chuột. Thế là lại đổi ra hun rơm. Gió ù ù lùa khói vào hang, sặc sụa. Mấy con chó rỗi việc xúm xít lại vẫy đuôi, cắm mũi xuống đám cỏ khô, vừa cào đất vừa sủa ăng ẳng từng hồi.

Ông lão vẫn cặm cụi chất rơm hun khói. Lại đứng dậy, cầm thuổng. Vừa hun vừa đào. Những mũi thuổng hạ xuống. Một nhát hất một tảng đất lăn ra. Bỗng một con chuột to chùi chũi nhảy theo tảng đất xuống đìa nước. Cả bọn đứng phắt, tay thuổng, tay dao, reo loạn xạ, đuổi. Những con chó sủa inh, đuôi vẫy cờ, chạy theo. Con tí ù bị thộp giữa đìa nước ướt sườn sượt.

Mùa đông năm trước, một ngày rét đậm giữa tháng mười, tôi đã rủ các anh Nguyễn Tuân, anh Kim Lân về làng đi bắt chuột. Anh ba Hĩ, anh cả Cương cùng đi, dắt theo mấy con chó nhà. Chúng tôi xuống đồng xa tận đìa Cáo, như mọi khi. Cũng là cho biết mùi một chút cái thú chó săn gà chọi còm, chứ quả tình dẫu anh ba Hĩ có giơ đũa mời và tán tụng cái thú vị trần đời của món thịt chuột rán già, rắc vỏ quít thái khô, thì hai bạn văn của tôi cũng chỉ lắc đầu cười. Xin phép nhắm miếng thịt gà.

Trời thật rét, thật gió, gió ù ù đâu trên vòm trời xám. Không nghe gió hú vào tai. Không cảm thấy đồng không mênh mông như ngày trước. Cũng chẳng còn nhìn xa thấy lũy tre. Trên cánh đồng làng, những dãy nhà cao tầng đương mọc lừ lừ, vàng rực, trắng hồng như những chiếc tàu đại dương vào đậu bến. Bây giờ thực sự chỉ còn chuột nhà, chuột cống mà thôi.