37 - Bánh chợ
Lên đến chợ, trẻ con chỉ hoa mắt vì hàng quà. Biết bao nhiêu thứ phải thèm. Quả khế cơm vàng hây, mới trông thấy xâu khế đã tứa nước dãi. Nói gì vô khối bánh trái hoa quả thế kia, nhìn đến ngốt ngát.
Những hàng quà chợ ngoại ô. Những quảy, những gánh loi thoi, dưới đuôi quang, trên đầu mấu đòn gánh giắt, lạt buộc dây chuối, cái rơm nếp với cả thúng lá gói trên mẹt. Lá sen khô, lá chuối gói bỏng, lá chuối tươi, lá bàng bọc bánh dầy, mo nang, mo cau cặp cơm nắm. Thời ấy chẳng làm gì có giấy báo, miếng giấy bóng nhựa, cái dây cao su gói buộc như bây giờ.
Đầu chợ, hàng cháo bột se khói um. Nhưng trẻ con chẳng thiết cháo. Dù đấy là cháo bột se, cháo giun nóng quánh lại hay là cháo đặc bột lọc nguội với miếng sườn lợn, đặt từng đĩa trên cái vỉ, mỗi miếng vào miệng ngon ngọt mát thun thút. Các bà bán cháo bột lọc nấu sườn trên Sù, trên Gạ xuống, một dãy vừa quảy qua.
Chợ đông chen người. Bốn cái cầu chợ, biết bao các thứ hàng mà những con mắt trẻ con chỉ thấy độc có hàng quà. Bún ốc dưới Thụy mới lên. Ốc nhồi béo nhẫy thả vào bát nước ngậy sao, hành mỡ phi vàng hây. Người gỡ cái bún rối, bún cối. Người ăn bún từng lá. Các cô hàng bún làng Thụy đông khách đã đẩy đi gánh ốc vặn các bà Kẻ Vòng với chiếc gai xam xọng nhể từng con. Cái gầu ống nứa múc dấm mật đựng trong một hũ sành mẻ miệng. Hàng ốc Vòng mọi khi vẫn ngồi chỗ này, bây giờ bạt đi cầu chợ khác. Chỉ ốc vặn, ốc bươu, chưa thấy ốc mút. Thế mà ngày ấy người ta không ăn cái ốc mút lắt nhắt, tanh miệng.
Thêm bác hàng phở gánh - món quà lạ ở Kẻ Chợ mới về. Hàng phở cầm cái ống tre cúi thổi lửa pho pho. Chưa mấy người đụng đến thứ quà tân thời này. Nghe người đi chợ về kháo nhau:
- Ăn bát phở rong cũng đắt bằng vào hiệu cao lâu mà chẳng biết thịt bò hay thịt trâu, mỗi miếng thịt mỏng bằng cái lưỡi mèo. Chả chơi.
U tôi cũng bảo thế. Bà tôi còn kể:
- Ngày trước không bún ốc, bún chả, phở phiếc gì cả. Chỉ có cháo bột se, bột lọc, cháo hoa mà ngon. Cứ bánh ngô, bánh đúc chén rền. Ôi dào, lại còn chai nước chanh cổ bi ve, nước dừa, bánh tây, bánh tai voi, các thứ quà Kẻ Chợ thật nhố nhăng.
Bà kéo cháu vào hàng bánh. Bên rìa cầu chợ, những cái lều cắm cọc, che phên dựng liền nhau. Suốt lượt từ đằng kia, bánh tẻ, bánh nếp, bánh mật, bánh khoai, bánh hỏi, bánh gai, bánh bèo, bánh bột lọc, bánh gio... Bánh giò nhân thịt băm với mộc nhĩ cùng là cái quà tân thời, cùng với thúng giò chả đằng cầu chợ cạnh phản thịt lợn - dạo trước, người đi Kẻ Chợ mới thấy bánh giò ngoài chợ Đồng Xuân. Dãy đầu này, hàng bánh đúc. Chẳng phải chỉ một hàng, mà nhiều thứ bánh đúc, những cái bánh quen thuộc. Ai ăn bánh đúc riêu cua, bánh đúc nộm thì ra phía tường đền. Bánh đúc dừa rắc vừng, bánh đúc lá giềng xanh ngắt đổ vào mẹt, cũng ra đằng ấy. Bánh khoái, bánh dày thì bên dãy các bà bán bánh rán. Chỗ này rặt hàng bánh đúc chấm tương. Các bà bánh đúc Kẻ Cót, có lẽ nhà đã mấy đời đi chợ. Đôi quang lên nước đen bóng, chiếc đòn gánh mòn cùn cụt. Gánh mẹ quảy trước, cô con gái thắt lưng con cón bước nhanh theo. Bánh đúc gạo tám trắng giòn. Bánh đúc gạo dự đỏ màu son già. Chiếc bánh đúc tròn xoe được lột ở bát ra, mặt bóng nhãy, xếp loạt lên mẹt như những chiếc bát đàn úp.
Bà hàng bày hai chiếc bánh đúc vào mảnh lá chuối lót. Rồi nghiêng hũ tương để trong thúng, rót sớt ra các cái chõng. Chỗ tương rót chỉ loáng chôn bát, tương rây rớt trên miệng, bà hàng chìa ngón tay vét khoanh miệng hũ rồi đưa lên mút chùn chụt. Người ăn bẻ miếng bánh mỏng mảnh, nhấm nháp. Sao mà cái tương chấm bánh mát ruột đến thế, cứ ngọt lịm, chẳng thế mà người ta chỉ rót một mảy. Loáng cái đã nuốt veo hai chiếc. Bà tôi bảo bà hàng lấy thêm chiếc nữa cho tôi. Còn bà tôi ăn bánh ngô, cũng của hàng bánh đúc. Bà tôi bảo: “Chiếc bánh đúc gạo như cái lưỡi mèo, tao ăn cả chục cũng chưa đâu vào đâu”. Đôi thúng nhà hàng, bên bánh ngô, bên bánh đúc. Chiếc bánh đúc ngô vàng hoe tròn to, đầy tú ụ. Giữa mỗi chiếc hõm chỗ rốn bánh, đắp miếng cháy vàng rộm.
Bà tôi bẻ bánh ngô ăn nhẩn nha. Cái bánh ngô vàng nhai kỹ càng bùi càng đậm, ai cầu kỳ thì ăn với kẹo bột bở chẳng phải chấm cháp mắm muối lôi thôi - bà tôi lại bảo thế. Tôi đã lẻm hết chiếc bánh đúc nữa rồi. Bà nói:
- Tấm bánh bằng cái lá đề thế này, nửa thúng cũng chưa lửng bụng. Ăn quà không như ăn cơm, chỉ ăn thòm thèm hương hoa thế thôi.
Bà cháu tôi đứng dậy. Hàng bánh đúc bấy giờ mới rỡ mấy mảnh tre làm ghế dắt ở quang thúng ra. Thì ra bà hàng vừa đến, đông người đã xúm lại, vội quá, mà tôi cũng mải ăn. Hai bà cháu cứ ngồi xổm thế, cũng không để ý không có ghế.
Đi chợ với bà toàn ăn quà bánh đúc và tôi cũng chỉ muốn ăn bánh đúc trên chợ. Cái chĩnh tương của nhà đội chiếc nón rách đứng giữa sân, vừa mặn vừa mùi thum thủm. Khi ngả tương phơi màu không được nắng, bị mốc. Thế mà bà tôi chê tương hàng người ta pha nước lã với đường, ăn ngay ngỡ ngon, để mai nó thối có ròi bò ra, chứ được nặng mùi như tương nhà đã phúc. Tôi cũng chẳng biết thế nào. U tôi mà cho đi chợ, lại ăn quà khác.
- Ra đằng hàng bánh đa ướt.
Bà hàng bánh cũng người cống Cót. Bánh đa ướt xếp từng chiếc trồng nhau dầy bùng bục, trên rắc mấy đốm hành lá.
Bánh đa ướt - thứ bánh cuốn xưa nhất, chợ nào cũng có. Ăn chấm nước mắm với đậu phụ rán, từng miếng đậu dài, phồng lên. Bánh cuốn Thanh Trì ăn với giò lụa chỉ thấy ở ngoài Kẻ Chợ.
Bà hàng bánh đa ướt ngồi cạnh gốc cây đề cổ thụ, có hai cái ghế dài quây quanh. Một bên, dựng mảnh thùng sắt tây che gió, trong đặt chảo. Những miếng đậu rán nổi xèo xèo trên mặt nước mỡ dầu lạc bốc mùi beo béo. Chiếc bánh đa ướt cuốn lại, chấm nước mắm đậu rán nóng vừa nở vàng xuộm.
Các dì tôi đi chợ không ngồi hàng bánh đúc, bánh đa. Con gái lê la ăn quà chợ, ngại người làng trông thấy. Các dì hay đem bánh đa về. Bánh đa khoai ăn với kẹo mạch nha. Cũng có khi mua bỏng nếp mật, ngô mật, bánh bỏng gói cái lá sen khô.
Ngày tôi ra ở Hàng Mã, vào chợ Đồng Xuân, u cho ăn nem chả - nem Sà Goòng. Ngon quá, quên tiệt mọi thứ quà chợ làng.