47 - Tú Mỡ bị Tây bắt
Năm ấy, cơ quan hội Văn nghệ tản cư lên chân dãy núi Tam Đảo ở làng Yên Dã huyện Đại Từ trên Thái Nguyên.
Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quân lần thứ nhất họp tại Chiêm Hóa ở Tuyên Quang năm 1949.
Tú Mỡ được phong chiến sĩ thi đua ngành văn hóa, đi dự đại hội. Sau đại hội, tôi về cơ quan, Tú Mỡ về gia đình đương tản cư ở Bắc Giang.
Có đến mấy tháng đã qua, chưa thấy anh Tú Mỡ về cơ quan và cũng không có tin tức. Cũng không ai để ý. Bên Bắc Giang, khu vực gia đình anh Tú Mỡ ở còn có nhà anh Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Kim Lân, Trần Văn Cẩn, Tạ Thúc Bình. Trong kháng chiến ở miền Bắc, các nhà ở khuất nẻo và công tác phân tán các vùng Phú Thọ, Bắc Giang, Thanh Hóa. Mọi việc nhanh chậm đều do đôi chân, thật “ngày rộng tháng dài”.
Một hôm, thấy ai như Tú Mỡ đi từ ngoài cánh đồng vào lối cơ quan ở trong đồi. Anh Tú Mỡ người bé nhỏ, bước nhanh nhẹn. Đúng Tú Mỡ. Nhưng cách ăn mặc thì khác lạ quá, không phải Tú Mỡ quần áo nâu với cái nón lá mọi khi. Người này đội chiếc mũ sắt tùm hụp. Bộ quần áo xám xịt, nhiều túi, có cả hai cái túi bắt gà to kềnh trên đầu gối - áo mũ của bọn com-măng-đốt (commando) Pháp. Đôi khi, thường thấy người vùng tề ra mặc như thế.
Người ấy đi gần đến nơi. Thì rõ đích anh Tú Mỡ.
Bấy giờ chúng tôi mới biết trong ngót hai tháng qua anh đã bị Tây bắt. Thoát ra, Tú Mỡ đến thẳng đây. Nghe anh Tú Mỡ nói, ai cũng choáng người.
Rồi Tú Mỡ kể.
o o o
Ở hội nghị Chiến sĩ thi đua toàn quốc về, tôi xuống Bắc Giang. Trên đường, ghé lại ty Thông tin Bắc Giang. Đội chèo của ty đương dựng một vở của tôi. Đội chèo ấy vừa biểu diễn vừa giúp đỡ cơ sở hoạt động văn nghệ dưới sông Đuống, vùng giáp ranh địch.
Tôi xuống ở với đội chèo. Hai bên sông Đuống đã là mặt trận. Bên kia sông, Tây chiếm rồi. Bờ bên này vẫn là làng mạc của ta. Thỉnh thoảng, Tây càn sang. Nhưng người bên kia vẫn sang bên này đi chợ, thăm hỏi nhau và người tản cư vẫn theo lối đấy ra vào Hà Nội, đi cả ban ngày. Ở bên này sông, lúc nào phải chạy Tây thì chạy, còn vẫn đi cày, vẫn chợ búa, tối tối vẫn gióng trống chèo hát. Đội chèo của ty đóng ở một làng ngay bờ sông. Tối biểu diễn, tiếng sáo tiếng nhị rung lên, trong khi pháo sáng và súng các đồn địch dọc sông, lên tận bến Hồ, bắn cầm canh suốt đêm.
Tôi ở với đội chèo đã được mấy hôm. Lúc đầu cũng ngại gần địch, rồi quen dần.
Một buổi sớm, thấy người chạy táo tác ngoài ngõ. Tiếng người kêu: Tây! Tây! Một lát, biết tin có một toán Tây đi thuyền sang phục từ gà gáy, bây giờ ca nô nó sang tiếp và bắt đầu lùng vào xóm.
Tôi theo người làng chạy ra đồng. Cũng chẳng phải lần đầu Tây sang vùng này. Cũng không phải Tây tìm bắt cán bộ hay đánh nhau với du kích, với bộ đội. Mà người ở đây đã biết chúng đi ăn cướp. Đến trưa, trở về, trên ca nô trên thuyền ngổn ngang gà lợn, rau cải, cà chua, những buồng chuối và cả củi đun với một vài người chúng lôi theo để bắt khuân vác. Biết thế, người ta chỉ tránh đi.
Tôi nấp ở một đầu gò. Mấy người khác, người trong xóm, người qua đường, người của đội chèo, cũng ngồi gần đấy. Anh em chạy lẫn lộn với mọi người trong các ngõ đổ ra. Chúng tôi nghe ngóng, rình xem liệu Tây vào hướng xóm nào để liệu.
Cứ tưởng chỉ có Tây trước mặt. Bất đồ một bọn Tây và ngụy lố nhố ở xóm ngay sau lưng ùa ra. Tôi lúng túng, ngồi thu lu lại sau một gò đất.
Cũng có phần bình tĩnh. Đi công tác vùng giáp địch đã được phổ biến kinh nghiệm đối phó. Cách ăn mặc và dáng vẻ tôi cũng như bao nhiêu người thành phố tản cư, chỗ nào cũng gặp. Còn giấy tờ trong người, tổ chức đã sắp sẵn cho cả cách đối phó ăn nói. Tôi có giấy chứng minh là giáo viên bình dân học vụ. Có bị hỏi thì nói ở Hà Nội tản cư ra, rồi liệu mà nhận trước kia đi buôn hay có làm công cho hãng buôn cũng được, bây giờ đương đi tìm vợ con tản cư bị lạc.
Nhưng có một điều không nghĩ ra trước. Mà đương lúc chơ vơ giữa đồng không mông quạnh thế này thì biết làm thế nào. Tôi có cái cặp da còn tốt đem theo từ Hà Nội. Trong cặp có giấy tờ và bản thảo mấy bài thơ mới làm với một quyển sổ tay đẹp mới nguyên được đại hội thi đua thưởng. Trang đầu sổ tay chữ ký và lời Hồ Chủ tịch đề tặng chiến sĩ thi đua Bút Chiến Đấu(1). Làm thế nào bây giờ?
1. Bút Chiến Đấu, bút danh của Tú Mỡ dùng trong thời kháng chiến chống Pháp.
Xung quanh, những thửa ruộng mới gặt, càng thấy trống hơn. Bọn Tây đã lùa những người ở đầu gò đằng kia lại. Một Tây đen chạy cồm cộp đến chĩa súng bắt tôi đứng dậy.
“Tôi là thầy giáo... Tôi đi tìm gia đình”... Chẳng biết người lính da đen ấy có nghe thủng được câu tiếng Tây tôi nói. Anh ta lẳng lặng giật cái cặp của tôi. Anh ta mở cặp, mở ngăn cặp. Người lính da đen moi các thứ trong cặp ra, cả quyển sổ tay có chữ ký của Hồ Chủ tịch.
Người lính xếp đống giấy má và sổ sách trên mặt ruộng. Rồi rút bật lửa. Người lính châm lửa đốt. Các giấy tờ và quyền sổ tay cháy tiệt.
Rồi anh ta đẩy tôi đi, nhưng tay anh ta vẫn cầm cái cặp không của tôi. Tôi đã hiểu. Người lính ấy, người nông dân ở một nước thuộc địa nào đấy của Pháp ở châu Phi. Có lẽ anh không biết chữ. Anh cũng chẳng cần biết các thứ giấy tờ sổ sách ấy thế nào, anh đốt tất cả đi cho xong chuyện. Anh lấy cái cặp. Cái cặp ấy đem về Hà Nội bán, cũng được vài đồng bạc. Có thể là như thế.
Tôi cất được cái lo đầu tiên. Nhưng sau đấy một việc rắc rối nữa xảy ra.
Những người phải bắt cùng tôi ra bị tập trung lại. Bọn lính điệu chúng tôi ra đường cái, rồi đem về đồn gần đấy.
Nhiều người trong đám đã biết những chuyện và cách như thế nào của lính đi càn. Người ta nói, lúc đương càn chúng nó cứ bắn giết thả cửa. Còn tóm được người thì chúng đem giao cho một đồn nào ở gần. Đến đấy, đợi xe tải rồi tống cả lên xe, đưa về trại giam Nhà Tiền bên thành phố. Ở Nhà Tiền, mật thám mới hỏi cung và tra khảo, rồi bỏ tù ai, thả ai sau.
Tôi lại trải một cơn lo. Tôi mà bị về Nhà Tiền, không biết sẽ ra thế nào đây. Nhà tôi đã mấy đời ở Hà Nội. Tôi được sinh ra ở phố Hàng Hòm, giữa băm sáu phố phường. Bấy lâu, đi học đi làm và viết báo, làm thơ cũng ở Hà Nội. Thế nào chẳng có người, nhiều người biết mặt, biết rõ tông tích tôi. Mới đây, các báo kháng chiến đều đăng nhiều thơ đả kích địch của Bút Chiến Đấu. Biết đâu chẳng có người đã đọc, đã biết Bút Chiến Đấu là Tú Mỡ.
Cả bọn bị bắt ngoài cánh đồng đều bị giải về bốt Phù Lưu.
Bót Phù Lưu gọi từng người hỏi qua loa. Tôi cũng nói lại những câu như nói với người lính da đen lúc nãy. Thấy tôi biết tiếng Tây, viên quan ba đồn giữ tôi lại làm thông ngôn. Thế là, tôi không được thả, mà cũng không phải đi ngay chuyến xe tải hôm ấy sang trại giam Nhà Tiền.
Tôi chưa bị đem về bên Hà Nội. Công việc của tôi hàng ngày ở bốt Phù Lưu là dịch công việc cho quan ba. Lão quan ba ấy, rồi ít lâu sau bị chết trận. Quan ba mới được bổ đến, vẫn giữ tôi làm thông ngôn. Một hôm, quan ba gọi tôi hỏi:
- Vợ con anh hiện ở đâu?
Tôi đáp:
- Tôi đã trình với ông rồi, vợ con tôi tản cư ở Thái Nguyên.
Lại hỏi:
- Anh có muốn làm việc với tôi không?
Tôi nói:
- Tôi đương làm việc với ông.
Lại nói:
- Làm việc mãi mãi kia. Tôi sẽ cho anh đi tìm vợ con về. Tôi sẽ xin cho anh ở hẳn bốt này với tôi. Anh bằng lòng không?
Quan ba lại nói:
- Tôi cấp giấy cho anh đi qua bốt Chờ của chúng tôi. Còn từ đấy lên Thái Nguyên, anh tìm cách đi được chứ? Anh đã là người ở vùng Việt Minh mà.
Tôi lại gật đầu.
Hôm sau, tôi đi qua bốt Chờ, đưa giấy trình quan đồn Chờ đàng hoàng.
Rồi tếch thẳng lên Thái Nguyên, về đây với các cậu.