48 - Đào hát, đào rượu
Đến thời tôi biết thế nào là “đi hát cô đầu” thì không còn nhà cô đầu ở phố Hàng Giấy - phố ả đào cổ nhất Hà Nội. Tiếng đàn, nhịp phách, câu ngân dọng má “ứ hự” chỉ còn phảng phất trong ca dao: Trải qua Hàng Giấy dần dần. Cung đàn, nhịp phách nên xuân bốn mùa.
Đi qua phố Hàng Giấy, tôi không hiểu những cửa hàng một gian, tối ẩm sâu, bên chồng cánh cửa hạ ngang, xếp vài ba trăm giấy bản, giấy moi, ấy thế mà xưa kia đã từng là chốn khách phong lưu “sớm đào tối mận”. Có thể là tôi cứ ngỡ theo cái thuở chơi bời nhầy nhụa bây giờ. Ngày trước, các cụ làm được bài thơ rồi mời nhau thưởng thức, đến nhà hát nghe đào nương ngâm bài thơ của mình. Tiếng đàn đáy tưng tửng. Lá phách buông giòn tan. Giọng hát nỉ non. Ngọn roi chầu tom chát, tom tom chát. Làng chơi khi ấy còn thanh tao chăng.
Nhưng chắc chắn không phải cảnh nhà hát cô đầu nhố nhăng như thời sau.
Thời tôi cũng còn trông thấy các cô nhà trò mặc áo the thâm, tóc bỏ đuôi gà, tay xòe quạt che miệng đứng hát cửa đình, các cô nhà trò vào lễ tiến hương tiến hoa múa bỏ bộ mà cả tháng trước khi đi hát cửa đình như thế các cô phải kiêng khem và công phu tắm táp, ăn chay nằm mộng. Các làng có nghề hát cửa đình, ở Thanh Thần, ở Lỗ Khê, ở Kim Bảng, ở Phú Mỹ, có chi họ chỉ truyền nghề cho con cái trong họ. Khi nông nhàn, đến dịp đình đám, mà người ta đã giữ đám hàng năm, đào kép lại khăn gói rủ nhau - hoặc có làng về tận nơi mời đi hát thờ.
Cho đến sau này thú vui ả đào tao nhã thời các cụ không phải đã mất hẳn. Mà bao giờ cũng thế, cô đào hát và chú kép đàn vẫn là chủ trò đêm hát. Bài hát và khổ đầu được khách và chủ nhà trả tiền, thưởng tiền như những người đi làm ăn công việc tử tế và làm giỏi thì được khen. Cô đào hát cầm lá phách và chú kép đàn hát cho nhiều nhà trong một đêm. Rồi người đào hát về nhà, chồng con yên ấm. Hoặc cô ấy đầu mày cuối mắt với khách làng chơi nào, ấy là chuyện trăng gió riêng tư của người ta.
Khác những cô đào rượu - “Cô đầu, cô đít, cô đuôi. Quan viên cạn túi, ai nuôi cô đầu”, ấy là vè kể về cô đầu rượu. Chủ nhà hát bỏ ra số tiền cọc buộc chân cô đầu rượu ở nhà hát, chẳng khác thuê con sen, con nhài. Sắm cho manh quần lụa trắng, cái áo hàng tơ, đôi guốc “phi mã” sơn then cao gót. Cô đào rượu không biết hát, không bận đến việc hát xướng. Cô chuyên việc bắt nhân tình hờ với khách hát và sửa soạn màn gối khách nghỉ đêm. Và chung chăn với khách đêm ấy nếu khách có lòng và có tiền, mà bây giờ gọi là tiền boa.
Không ham hố mấy đâu, khách chơi rất ngại nằm với đào rượu. Vì các cô chỉ là gái điếm không đóng môn bài. Mà gái điếm lậu là một ổ vi trùng bệnh hoa liễu. Nhà thổ ở Hàng Mành ngõ Yên Thái, ngõ Sầm Công đi khách đóng thuế, mỗi tuần vào nhà “lục xì” khám hai lần (Nhà “Lục Xì” chỗ bệnh viện C bây giờ, cổng ra vào đằng xế cửa tòa án). Lời ca ủ ê: “Hôm nay thứ bảy anh ơi! Ngày mai chủ nhật, phiên tôi lục xì...”, mang tiếng nhảm nhí đi nhà thổ, nhưng lại ít lo bị đổ tim la, lậu, như chung chạ với đào rượu nhà cô đầu.
Thế mà cũng có nhà hát không có cô đào rượu. Có lẽ làng chơi khắp Đông Dương chỉ có một nhà hát bà ký Đường ở Vũ Tiên dưới Thái Bình như thế. Nguyễn Khắc Mẫn đã viết truyện ngắn “Bà ký Đường” đăng báo “Ngày Nay”. Cũng có lần tôi theo ông Dương làng tôi lúc bấy giờ làm trùm du côn bến xe Thái Bình đến nghe nhà hát ấy. Ông ký Đường mắt kém, ngồi đàn. Bà ký, tóc đã hoa râm. Cô con gái hát phụ với mẹ, người mỏng như cái lá tre. Xong mấy khổ hát, khách về. Không cảnh chè chén chầu chay, chầu mặn và khách chơi vầy vò đào rượu nghiêng ngả thâu đêm.
Nhưng mà xem ra cái sự tao nhã khô khan sênh phách như nhà hát bà ký Đường ở Vũ Tiên đã là chuyện cõi tiên từ lâu. Càng ngày càng có người đi nghe hát cô đầu, mà không biết đánh trống, không cần biết, vừa vào đã khép cửa, hô rượu uống quay thìa. Nghe lẩy mấy câu bồng mạc, sa mạc rồi mắc màn đi nằm với đào rượu. Gọi là cô đầu đường Cầu Giấy, cô đầu Vạn Thái nhưng không phải những phố ấy chỉ rặt nhà cô đầu. Nhà hát cũng như cửa hàng buôn, cạnh ngôi hàng tấm, hàng xén, hàng cơm. Cô đầu phố Khâm Thiên có tiếng nhất, ở đấy nhà hát và cửa hàng, cửa hiệu, lò khâu và hàng tạp hóa cũng chen tường nhau.
Những người đi chơi cứ tự sắp thứ hạng thế nào và chọn ra ở đâu là nhà hát sang trọng hay tồi tàn.
Nhà hát sang nhất ở phố Khâm Thiên. Nổi tiếng nhà Đàm Mộng Hoàn, nhà Chu Thị Năm... Đến đấy, người giàu, tay buôn, tay chơi, mật thám, trùm bạc, chúa tể đầu trộm đuôi cướp, tiêu tiền ném qua cửa sổ. Cô đầu Ngã Tư Sở (hoặc gọi đùa Ngã Tư Khổ), chỉ có nhà hát ở dãy nhà bên đường Tàu Bay, đường Láng và cô đầu Vĩnh Hồ, Thái Hà, Vạn Thái, Hăm Bốn Gian cuối phố Huế, khách đông và tạp nham, mấy thầy ký sở tư, ông nhà văn, nhà báo đi che tàn, ông buôn nước bọt, ông giáo... bên Cầu Giấy, ô Kim Mã, ở phủ Hoài, ở Ba La Bông Đỏ, ở Gia Quất, Thượng Cát, nhà hát đón vét khách bên Hà Nội và khách quê, các ông chánh lý, các ông giáo hồ lơ có việc quan, việc thi cử phải về phủ huyện, các bác thợ mũ, thợ khảm, thợ cửi, các cậu bồi bếp... khách lái gỗ, lái dó đường ngược xuôi bè về, lên hát ở bến Chèm. Cô đầu Chèm, ngày đi làm cỏ đồng, bắt cua, tối hát. Tiếng trống chầu trong nhà lá vọng xuống mặt nước nghe độp độp như dao chặt thịt gà.
Hầu như tỉnh nào, chỗ nào sông bến sầm uất đâu cũng có nhà hát. Cả trong thành phố Sài Gòn. Cô đầu ở Phú Nhuận toàn những ả đào thất cơ lỡ vận ngoài Bắc mò đi làm ăn xa cầu may. Chặp tối hôm ấy, Lê Tràng Kiều và chủ hiệu sách Nguyễn Khánh Đàm với tôi ra ga xe lửa Mỹ cạnh chợ Bến Thành đón họa sĩ Văn Giáo đi vẽ ở Đà Lạt xuống. Đèn thành phố vừa sáng, tàu vào ga. Văn Giáo cao lênh khênh, lưng đeo ngổn ngang những ba lô, giá vẽ.
Nguyễn Khánh Đàm vui vẻ:
- Mời anh xuống Phú Nhuận nghỉ chân.
- Đi đâu?
- Đi hát ở Phú Nhuận.
- Không, Văn Giáo không chơi cô đầu, Văn Giáo chỉ uống nước lã vẽ tranh thôi.
Văn Giáo nhất định không đi.
Đường Phú Nhuận lơ thơ mấy nhà lá ngoại ô, âm thầm cách vườn hai ba cái nhà hát. Các cô ngồi lấp ló đợi ông khách Bắc nhớ quê. Trong nhà, trơ trọi, quang lạnh, rã rời. Không biết mới dọn đến hay sắp dọn đi. Giường ván gỗ không chiếu trống hốc. Cũng chẳng ra cái nhà chứa trọ. Quần áo các cô gói ghém trong bọc khăn vuông nhét gầm phản, như đi lúc nào cũng được.
Lần đầu, tôi theo anh em trong làng đi hát ở chỗ Mả Ông Năm đầu phố phủ Hoài Đức. Loại nhà hát hạng bét, các thày chánh lý trong Canh, trong Trôi, trong Đăm ra phủ có việc quan thường ghé đấy. Dưới tán cây bàng tốt lá xanh om vài nhà cô đầu ở ngay sau cái mả giả lão quan năm Hăngri Rivie ngày xưa chết trận chỗ này, thành tên chỗ là Mả Ông Năm. Những tình cờ và mỉa mai của thời thế và cuộc đời. Ngay trước cửa nhà hát, lù lù gờ thành xi măng vằn vèo uốn quanh một vòng xích sắt trang trí. Giữa nấm mộ, mảnh đồng đúc cái mặt lão Tây chết trận nhìn ngửa lên trời mà các quan viên đi hát ngồi sau cánh cửa trong nhà trông ra thấy cái chỏm mũi lõ nhọn chong chỏng. Tiếng trống tom chát. Tiếng hát khe khé chua như mẻ.
Làng tôi chỉ tắt đồng một quãng đã sang đến đây. Chẳng có việc vào hầu phủ cũng đi chơi được.
Các cô đầu đứng nhong nhóng trước cửa, trông thấy bọn khách quen liền tru lên:
- Tiên sư anh bảy Nền! Tiên sư anh bảy Nền! Anh vào đây chúng chị kẹp vỡ mặt anh ra!
Rồi cười khanh khách. Anh chánh hội Nền dẫn chúng tôi vào, sau những câu mắng chửi chào hỏi vui vẻ dữ dội như thế. Chị em lật đật khép cửa, khêu to cái đèn ba dây. Các quan viên gom tiền lại đủ chi một chầu chay. Nghĩa là xong khổ hát, uống suông hai chai bia đen, đứng lên cắp đít ra về.