← Quay lại trang sách

13. NHÀ NGÓI ÂM DƯƠNG

Có ba chuyện lạ về ông Sáo.

Năm cải cách ruộng đất, ông bị quy là địa chủ.

Nhà ông chỉ có năm sào ruộng, một con trâu. Cày bừa xong ruộng nhà, ông đi làm thuê cho nhiều người trong và ngoài làng. Riêng ngày mùa, ông vác cái đòn càn buộc liềm, hái trên một đầu đi gặt mướn từ đầu vụ. Vậy thì địa chủ cái gì?

Sau mới vỡ lẽ tại cái nhà to. Mà to thật. Năm gian. Mái ngói âm dương. Cột gỗ lim một vòng tay trẻ con đứng trên đá tảng. Cửa, bậu cửa chỉ một loại gỗ mun đen bóng.

Ông thanh minh, nhà này cụ tổ tôi cất từ đời Lê mạt. Cụ mới là địa chủ. Sao lại là tôi. Cán bộ có nhầm không đấy.

Nhầm sao được, cán bộ đội cải cách gõ tay xuống bàn nói, ông là người thừa kế, đương nhiên thuộc thành phần tổ tiên.

Thế là ngôi nhà cổ bị dỡ, chia khắp lượt cho dân nghèo trong làng. Người này được chia vài viên ngói. Người kia được cái cột gỗ. Có người được một cái cánh cửa. Lại có người được nhận một viên đá kê chân cột. Chả biết làm gì với những thứ manh mún được chia, người ta vất chúng lăn lóc ở góc nhà, trong bếp hay ngoài vườn. Riêng ông Sáo, ông được đội cho ở lại trong cái bếp tường đắp bằng đất, mái lợp rạ mà ông mới dựng hồi đầu năm ngoái. Từ đấy, gặp bất kì ai, ông cũng nói, bây giờ mình mới biết nhà mái rạ mát hơn nhà mái ngói. Cán bộ bảo, ngồi mát ăn bát vàng thì hiểu sao được tình cảnh của giai cấp nông dân.

Mấy tháng sau, ông Sáo được sửa sai xuống trung nông. Vậy thì ông lại cất nhà. Và căn nhà cổ, không rõ các bộ phận của nó đã được ông Sáo thu lượm lại bằng cách nào, lại mọc lên trên cái nền gạch cũ mà đội cải cách quên chưa cho lột lên.

Năm 1959, phong trào hợp tác xã vừa dấy lên, ông Sáo đã viết đơn xin tự nguyện góp ruộng, góp trâu, lại ngỏ ý muốn góp luôn cả căn nhà cổ nữa.

Cán bộ bảo, bây giờ không phải hồi cải cách, dân ta làm chủ tập thể rồi, nhà ông ông cứ ở, chỉ góp ruộng góp trâu, góp cày bừa để làm chung ăn chung thôi.

Vào hợp tác, lạ nhất là càng được mùa dân càng đói. Trong khi đó xã lại được thưởng huân chương về thành tích đóng góp nhiều lương thực cho nhà nước.

Nhà ông Sáo cũng đói. Ngày ngày ra đồng, ông vác cây cuốc và bó mạ đi không vững. Ai cũng buồn cười bảo ông đọa chết. Bởi hễ chỗ nào có đất trống, cho dù chỉ bằng một cái sàng gạo, ông cũng cắm mấy gié mạ xuống. Một mẩu làn, một khoanh đất gần một cái mả, doi đất nhô ra mé sông..., ông Sáo không bỏ qua chỗ nào hết. Ô, vậy mà mạ cũng thành lúa, lúa cũng trổ đòng, đòng trổ thành bông. Đúng, chỉ lèo tèo vài bông! Mà bông lúa không có hồn vía tập thể cứ cúi gằm mặt xuống!

Vụ ấy lại được mùa, xã lại được huân chương, và… Riêng nhà ông Sáo không đói, vì sao thì ai cũng đã rõ, nói thêm cũng bằng thừa.

Chuyện lạ thứ ba là kết quả của hai chuyện trên.

Tới thời cả làng được no bụng thì ông Sáo đã thành tỉ phú. Rất có thể là nhờ vào những gié mạ mà ông đã từng gieo cấy ở khắp gầm trời làng Thượng năm xưa. Thóc ăn không hết, ông bán lấy tiền cho cậu con trai ra Hà Nội học. Con chưa có chỗ trọ, ông bảo cậu vào làng Nhân Chính gần chợ Xanh mua một cái ao, dựng một cái chòi mà ở tạm. Và sau này, cái ao một mẫu tây ấy đã thành một dãy phố.

Cuối đời, nể con nài nỉ mãi, ông Sáo nước mắt lưng tròng cho dỡ cái nhà ở quê đưa lên Hà Nội cất.

Khổ, chả biết ai đưa tin mà xe mới tới ga Giáp Bát người ta xúm vào đòi mua.

Khách mua hầu hết xưng danh là nhà khảo cổ, nhà kinh doanh gì gì đó, ông Sáo nghe không hiểu.

Họ trầm trồ, nhà từ đời Lê. Ba tỉ tiền tươi, bán cho tôi cụ nhá, có người ra giá trước.

Ông Sáo khẽ lắc đầu.

Từ đấy, ông không bao giờ mở mắt ra nữa.