10 - Một Bước Lên Đài Danh Vọng
Vào thập niên 30 nạn kinh tế khủng hoảng lan tràn khắp nơi. Việt Nam dưới chế độ bảo hộ, Nho học ngày càng tàn lụi, tân học với phong trào chữ quốc ngữ chưa phổ biến tới nơi tới chốn. Nơi thành thị trường ốc còn khả quan, miền quê thì cả một phủ, huyện mới có một hai trường tiểu học. Những làng ở gần trường, nhà khá giả mới cho con đi học, dù miễn phí, dân quê quá nghèo nên con cái đến tuổi đi học cũng là lúc các em có thể giúp đỡ cha mẹ những việc lặt vặt ở nhà như coi em, nấu cơm, xay lúa, giã gạo, vì thế nạn mù chữ không giải quyết nổi.
Nhỏ Chung nhà nghèo, đông anh em, mỗi khi có dịp di qua trường học chỉ biết nghễn cổ nhìn vào trường học thèm thuồng ước ao được đi học như cac em học sinh.
Bố mẹ Chung thương con có ý muốn tìm người nuôi đỡ các con vì ở nhà các con ăn không đủ no, mặc không đủ ấm. Vừa lúc một cô Đội Tây về thăm quê muốn mướn một đứa nhỏ giúp việc. Chung được bà hàng xóm giới thiệu. Cô Đội còn hứa với gia đình Chung sẽ cho nhỏ Chung đi học. Ngày hôm sau Chung từ giã bố mẹ theo cô Đội đi Đáp Cầu ở với cô. Đáp Cầu nguyên là một căn cứ quân sự của người Pháp. Chung quanh Đáp Cầu người ta mở nhiều tiệm buôn bán, hàng ăn, cung ứng nhu cầu cho quân đội Pháp, dĩ nhiên có nhiều hàng trá hình buôn hương bán phấn trong số có cửa hàng nhà cô Đội.
Khi còn ở nhà với cha mẹ, Chung hàng ngày phải đi chăn trâu, cắt cỏ hay mò cua, bắt ốc suốt ngày ở ngoài đồng, dù có nước da trắng cũng thành đen xạm, chân tay bị chai cứng nứt nẻ, thân hình gầy guộc quần áo rách trên vá dưới.
Ngã rẽ cuộc đời nhỏ Chung bắt đầu từ đây. Nhỏ Chung không được đi học như cô Đội đã hứa, nhưng được ăn mặc sạch sẽ để hầu các khách ra vào toàn là người Pháp, bắt buộc Chung cũng phải cố gắng nghe và nói, lâu dần Chung cũng hiểu và nói tiếng Pháp trôi chảy nhưng rất “bồi”. Sau đấy ít lâu, Chung tìm việc làm hầu bàn ở các hàng ăn. Với dáng dấp lanh lẹ, khổ người cao ráo, da trắng, đẹp trai bặt thiệp. Chung được một người Pháp đưa đến làm bồi bếp cho phủ Thống sứ Bắc kỳ. Đem hết sở trường khéo léo nấu bếp, lại biết đòn ý chiều chuộng từ các cô các cậu, dần dà Chung đã lấy được cảm tình cả gia đình ông Thống sứ.
Một anh cò mồi thính mũi, đã dắt khách đến với Chung để làm ăn. Khách là những tri phủ, tri huyện tham tá, thông phán, địa vị bị lung lay muốn thăng quan tiến chức. Không ai hiểu bằng cách nào, trong khi hầu bàn mang thức ăn, Chung đã nói được việc cho những bọn cầu danh bằng cửa hậu.
***
Hồi này Chung đã thành cụ Cửu Chung… Phủ Thống sứ đặc cách cho anh hàm Cửu phẩm văn giai. Sau khi cởi cái “tạp dề”, Chung đi giầy tây bóng loáng, mặc áo sa-tây, đội khăn xếp với chiếc nón dứa cầm tay đúng với phong tục cụ Cửu. Sau khi ra khỏi phủ Thống sứ, một chiếc xe tay đã đợi sẵn trờ tới đón. Trên xe bước xuống một đấng dân chi phụ mẫu vui vẻ mời cụ Cửu đi chơi, đi đâu bao giờ cũng có một ông quan phán cò mồi “tự phong”, cặp bài trùng Chung, Văn như bóng với hình vì kẻ tung phải có người hấng, ra giá, mà cả, gợi ý là phần vụ của cò mồi.
Đến cả những miền quê các ông lý, phó trưởng, chánh, phó tổng sắp phải thu hồi đồng triện, được người mách, chỉ có quan phán và cụ Cửu chịu về tận nơi, nói một lời với quan phủ, huyện việc sẽ xong. Nạn nhân có khi phải bán nhà bán ruộng mà lo lót cả hai nơi vừa quan bản hạt vừa cụ Cửu đầu bếp. Gặp những món nhà quê, cặp bài trùng ăn ngon cả đôi bên, chỉ tốn ít nước bọt xin quan phủ hay huyện một đặc ân cho nạn nhân. Trước khi ra về, quan phủ, huyện có một chút làm quà đưa chân cho cụ Cửu và ông phán, rồi tài xế của quan lái xe đưa cụ Cửu về Hà Nội để cụ còn làm bếp, hầu bàn cho gia đình phủ Thống sứ.
Vinh qui bái tổ, được nở mặt với dân làng, hàng xóm họ hàng ai ai cũng đều mong có một ngày, huống nữa Chung thuộc vào gia đình cùng đình, cần phải cho mọi người biết đến. Lệ làng ai có chức tước muốn cho làng công nhận, phải làm tiệc khao cả làng trước khi làm phải có cơi trầu trình các cụ trong làng, xin phép để các cụ hổ trợ và sai phái đàn em trong làng tới giúp.
Tiên chỉ làng này là cụ Bảng Do, cụ là bậc thức thời, có tiết tháo, không xuất chính để khỏi chịu sự chi phối của ngoại bang, đau lòng vì chính sách hà khắc của bọn thực dân độc quyền bán muối, bán rượu, ru ngủ dân bằng thuốc phiện cho bán tự do. Cụ khinh những bọn lên mặt quyền quý ra vẻ giầu sang, chỉ là những bọn cúi mặt theo voi hít bã mía, tiến thân bằng cửa hậu lạy lục với bọn Tây bồi bếp. Sau khi đỗ đạt cụ không xuất chính, trở về cố hương làm ruộng, dân làng ai thiếu thốn đều được cụ giúp đỡ, mọi người đều quý mến.
Khi Cửu Chung đưa cơi trầu tới xin phép cụ tiên chỉ, cụ Bảng cười nói: “Đúng là nước lụt chó nhảy bàn độc. Anh không biết đọc biết viết đi bồi Tây nói được tiếng Pháp chưa làm giúp ích gì cho ai ở làng. Anh muốn khao làng phải biếu làng 100 bạc. Đây là ngoại lệ xung quỹ để sửa đường.” Sau bữa ăn khao, Chung hãnh diện được cả làng gọi là ông Cửu, còn tiếng cụ để gọi những cụ bô lão từ 60 tuổi trở lên, đó là lệnh cụ Bảng. Cửu Chung cũng khôn khéo phóng tiền tài mua nhân tâm, hắn hiểu tất cả chức dịch ở làng, người đôi giầy, chiếc dù ô, hay xấp vải tùy thứ đặc biệt, ngay đến quan phủ bản hạt cũng phải e dè Cửu Chung.
Thời trước bồi Tây thành quan phán, cụ Cửu ngàn năm một thuở được các vị phụ mẫu chi dân bị thất sủng hay tham nhũng bị lộ diện phải hạ mình đến cầu cạnh cụ bồi, vừa được tiền, được tâng bốc thật hãnh diện sau khi được việc, vẫn còn được vi nể mỗi khi gặp nhau.
Sau ngày 30 tháng Tư đen, đến giờ gặp buổi giao thời nhiễu nhương, lại thêm nhiều thảm trạng. Người Việt mình đi di tản trên khắp thế giới sau khi định cư yên ổn sống nơi xa lạ, chẳng mấy ai biết rõ tông tích mình lúc ấy, tha hồ nói khoác. Sự thật có một nói thành mười, vẽ thêm hoa lá cho xôm trò. Chẳng ai vô công rồi nghề đi điều tra hay đánh thuế những người dương dương tự đắc nói khoác.
Có biết đâu vương tướng quyền quý nào có nghĩa gì, trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, đã bỏ nước bỏ nghĩa vụ mà đi không lấy thế làm hổ thẹn mà còn khoa khoang vênh váo, chức tước danh vọng chỉ là phù du, chỉ có phẩm cách con người là căn bản và tồn tại mãi mãi.