← Quay lại trang sách

9 - Phong Tục Miền Bắc Quê Hương Tôi

Trước Đệ nhị Thế chiến, ở thôn quê miền Bắc Việt Nam phụ nữ thường thất học, nên chỉ có một số biết đọc biết viết, nhưng phong tục lề thói vẫn truyền khẩu từ đời này sang đời khác.

Khi con cái đã lớn, nhất là con gái thường được dậy cho biết thế nào là tam tòng tứ đức, biết ăn trông nồi ngồi trông hướng, ăn cơm chan canh không quá ba thìa, ăn xong để đũa xuống cho êm nhẹ, uống nước từ từ đừng để cho kêu ùng ực, xỉa răng phải lấy tay che miệng, khi đi qua trước mặt ông bà cha mẹ hay những bậc tôn trưởng phải cúi đầu đi thưa về trình, nói với người giúp việc phải nhỏ nhẹ đừng quát mắng hách dịch, ăn mặc xứng kỷ đức, không được xe xua làm xốn con mắt người ngoài.

Khi đến tuổi cặp kê các bà mai đến thăm nom nói với phụ mẫu cô con gái hẹn ngày cho nhà trai tới chơi, coi mắt, các cô lại được dậy bảo cặn kẽ, nào khi người nhà trai đến họ bắt đầu xem từ cổng tới sân có được quét tước sạch sẽ hay không, trong nhà họ xem đồ đạc có được lau chùi sạch bóng không, mấy người đàn ông ngồi ở phòng khách nói chuyện, còn đàn bà nhà trai đi với bà mai thường là mẹ, cô, dì của chàng rể lấy cớ xuống tận nhà bếp.

Họ chú ý nhất tới nhà bếp vì cho rằng người con gái có ngoan ngoãn, siêng năng, cứ trông căn bếp có ngăn nắp sạch sẽ hay bẩn thỉu lôi thôi sẽ hiểu tính nết. Người con gái nào cũng thế, vào thời đó đều có tính e thẹn, họ sẽ trốn mất cho tới khi bà mai nói với ba mẹ cô gái xin cho nàng ra để đàng trai coi mặt, nhà trai giả bộ đi mua hay bán các thứ nông phẩm như lúa, gạo, đậu, lạc, bắp v.v…. để nói truyện làm quen.

Mấy ngày sau bà mai trở lại rồi tin đi mối lại đến khi đôi bên thỏa thuận định ngày “chạm ngõ” hay là cơi trầu thứ nhất nhà trai chính thức tới thăm nhà gái biếu ít quà tùy tiện để xin đi cơi trầu thứ hai là để biếu trong họ gần xa như ông bà, cô, dì, chú, bác, không cần nhiều cau bánh, nhà trai tùy iện đưa tới. Bà mẹ cô gái thường nói: “Chúng tôi không muốn bày vẽ nhưng cháu là con tôi thật nhưng còn là cháu của bà con trong họ nên phải thỉnh ý cho có sự đồng ý.”

Sau đôi bên định ngày lễ ăn hỏi, tức cơi trầu thứ ba. Cơi trầu này quan hệ, đây là dịp nhà gái “thách cưới” phải xin bao nhiêu phần bánh, rau, trà, rượu để biếu trong họ thân sơ, làng xóm bạn bè. Nhà trai thấy quá nhiều không lo nổi đành phải bỏ hay nhà gái muốn gả phải bỏ tiền ra mua bù vào, thành bại tùy tài bà mai điều đình thuyết phục.

Sau khi thu nhận lể vật chàng rể được trình diện cha mẹ họ hàng bên nhà gái theo bậc, và bữa ăn do nhà gái thết họ hàng nhà trai. Có trường hợp đôi bên cha mẹ lựa chọn sẵn, làm lể vấn danh ăn hỏi rồi để đấy “giữ chỗ” chờ cho đôi bên cô cậu lớn đủ tuổi. Thời kỳ chờ đợi nhà trai phải đi sêu tết, biếu của đầu mùa tất cả các thứ trái cây như nhãn, mít, cam, hồng, cốm, tết Đoan Ngọ, tết Trung Thu, gọi là làm rể có khi tới hai, ba năm mới làm lễ cưới.

Tục này đông tây quả có giống nhau. Như trong Cựu Ước sách Khởi Nguyên trang 6, 7, ông Jacob tới ở rể nhà ông Laban trông coi đàn cừu, để hết bảy năm mới lấy được bà Lea, muốn lấy cả bà Rachel lại phải ở rể thêm bảy năm nữa (tức tổ tiên dân Do Thái ngày nay).

Sau đó đôi bên chọn ngày lành tháng tốt cử hành lể dẫn, đưa dâu. Trước ngày cưới nhà trai phải đưa đến nhà gái một con heo nếu nhà khá giả lại ở xa, hay nhà gần nhau sáng sớm đã đưa đến một số mâm cỗ đã làm sẵn tùy nhà gái cho biết để biếu những ông bác, chú, cô, dì ở gần gọi là “cỗ dựa” tuy những người này sẽ đi đưa dâu và ăn cỗ.

Nhưng cái màn “thách cưới” bỏ quả khem cũng cần bà mai nhắc lại cho chắc tuy điều kiện đã thỏa thuận từ trước, tục lệ chỉ có bỏ vào trong quá khem 100 miếng trầu quế 100 đồng tiền ngoài ra nhà trai muốn bỏ thêm đồ trang sức cho cô dâu và vàng bạc muốn khoe của phải nói trước, gặp phải cha mẹ cô gái tham lam sẽ lấy hết hay cho lại cô dâu ít nhiều. Phần nhiều nhà gái thương con dễ dãi hứa không lấy món gì để trong quả khem và còn nói trước sẽ cho của hồi môn có khi gồm cả trâu, bò, nông cụ để cô dâu đưa về nhà chồng như tục cổ của mấy nhà giầu ở vùng Yên Khánh.

Cũng một miền có nơi cô dâu đem theo gối và chiếc mền bông, rương quần áo một người gánh theo sau, có nơi cô dâu không đem theo vật gì. Bà mẹ đã nói con gái là con người ta, con dâu mới thật là con cha mẹ mua về. Từ đây thuộc về nhà chồng, ấm no đã có nhà chồng lo cho.

Đến giờ xuất hành rước dâu, đi đầu là một cụ già mặc áo thụng xanh nhà trai đã chọn là người có địa vị giầu sang bề thế có đầy đủ con trai con gái để bưng quả khem có người người che lọng xanh, đi sau đến cha mẹ họ hàng bạn hữu chú rể có hai người phù rể chọn trong bạn hữu đi hai bên. Khi đám rước dâu đi tới đầu làng phải dừng lại vì tục chăng dây đón đường đám cưới để đòi tiền mới cho qua, vì thế đám rước dâu mới phải chậm lại gần nửa giờ điều đình nộp tiền mới đi được.

Đây là một “tệ tục” còn sót lại bởi trưới kia nước Việt Nam ta còn chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hóa phong tục Trung Hoa mà người Tầu đã chính thức bỏ từ đời nhà Đường Huyền Tông (713-742) vì tục ấy thành tệ tục. Sách Thông Diễn chép đời vua Đường Huyền Tông, Đường Thiệu dâng sớ tâu vua: Trong ngày sĩ thứ nghênh hôn những kẻ hèn hạ quê mùa đem xe ra chặn đường đòi cơm rượu. Tục ấy trở nên thịnh hành đến cả những bậc vương hầu nhóm nhiều bè lũ ra chặn đường giữ đám cưới lại làm mất nhiều thì giờ đòi tiền của đến nỗi tiền cho bọn ngăn đường nhiều hơn tiền cưới. Vậy xin cấm đoán hẳn, vua phê chuẩn việc ấy. (Lê Qúy Đôn, Văn Đài Loại Ngữ).

Mọi người tới trước cổng nhà gái đứng lại. Ít người nhà gái ra đón tới trước cửa chính, một ông trong nhà gái cũng áo thụng xanh bước xuống thềm đỡ quả khem ở tay ông cụ nhà trai trịnh trọng đặt trên bàn: khi hai bên chào hỏi yên vị, một ông nhà trai đưa chú rể ra trình diện và giới thiệu với họ nhà gái. Tới lượt nhà gái một bà dẫn cô dâu ra chào họ nhà trai và đưa cô dâu tới trật quả khem rồi bà xướng lớn cho mọi người biết trong quả khem có tiền trăm bạc ngàn có trăm giầu quế, đấy là câu nói của tục lệ, tiếp đó mới kể đến vàng bạc, nữ trang từng thứ một rồi thứ nào bố mẹ chồng định cho sẽ được một bà nhà trai đeo ngay cho cô dâu, lại đến lượt mẹ cô dâu lại quả cho chú rể một món gọi là một chút cho các con làm vốn gọi là của hồi môn.

Sau khi cô dâu chú rể làm lễ gia tiên, chú rể còn phải lậy cha mẹ vợ, thường được cha mẹ vợ miễn chước, gặp phải ông nhạc gia khó tính phải nhất định bắt chú rể phải lậy, gặp ngay chú rể ngang bướng không chịu lậy, cô dâu phải ra xi lậy thay mới xong.

Đám cưới về tới cổng nhà trai. Những người bên họ nhà gái đứng lại với cô dâu, một bà lên tiếng gọi “Mẹ đâu ra dắt con vào”. Bà mẹ của chú rể trong nhà đi ra cầm tay cô dâu dẫn bước qua nồi than hồng đã được đốt sẵn từ trước. Cô dâu lại được dẫn tới trước bàn thờ làm lễ tơ hồng, trên bàn thờ có hương hoa, nến, một chai rượu nhỏ, một cái ly, một ông tới rót rượu đầy vào ly sau khi đôi tân hôn đã vái trước bàn thờ. Cả hai thay nhau uống hết ly rượu bà mẹ chồng đưa hai con vào trong buồng nhận nhà.

Phòng chú rể được trang hoàng theo ý, nhưng mắc màn và giải chiếu phải có một bà đứng đắn vui vẻ mau mắn có nhiều con trai con gái lãnh phần, sau khi giải chiếu sẽ để vào giữa giường 12 quả trứng vịt ngụ ý để sau này cô dâu sẽ đẻ nhiều như vịt.

Đến lễ gia tiên, cô dâu nhận tiên tổ họ hàng nhà chồng. Sau cùng đến lể động đũa, đúng thủ tục thì phải làm trước mặt hai bên họ hàng. Để tránh e thẹn cho cô dâu mới, bà mẹ chồng xin với hai họ hai bên để đưa mâm cỗ vào phòng cô dâu chú rể ăn với nhau với ý nghĩa: “Vợ chồng như đũa có đôi. Mình với ta như đôi mà một, ta với mình như một mà đôi.” Cô dâu so đũa xới cơm nâng bát mời nhau cùng ăn có nghĩa ở với nhau cho hết cuộc đời.

So đũa là chọn hai chiếc đũa thật bằng bặn không cọc cạch so le có nghĩa đũa không bằng bặn hoặc chiếc cong chiếc thẳng, chiếc nhỏ chiếc lớn, chiếc dài chiếc ngắn, chiếc mới chiếc cũ. Một đặc điểm khác là ta gọi cả hai đầu đũa là “đầu đũa”, chứ không phân biệt là đầu đuôi. Đũa tuy một mà hai là hai vợ chồng tuy hai lại là một. Đây là sự bình đẳng bình quyền bình sản tuyệt đối của xã hội Việt Nam, bình đảng về tư cách cá nhân, thành vợ thành chồng rồi ai có nhiệm vụ nấy. Nam là ngoại tướng, nữ là nội tướng.

Tài sản dù chồng hay vợ tạo ra cũng đều là của chung, của chồng công vợ, cùng nhau lao tác cùng nhau chia sẻ ngọt bùi như chim liền cánh, như cây liền cành. Bữa cơm Việt Nam bao giờ cũng bắt đầu bằng xới cơm so đũa. Một người cầm cả nắm đũa dộng xuống mâm cho đều rồi mới chia mỗi người một đôi đũa. Đũa so rồi nhưng người lớn nhất trong bữa cơm mới là người cầm đũa trước với nghĩa tỏ sự thương yêu công bằng cùng ăn một mâm.

Những phong tục rườm ra từ sau Đệ nhị Thế chiến đã đổi thay tuy nhiều nơi vẩn còn giữ lại ít mỹ tục. Ở hải ngoại nhiều người vẫn còn giữ được phong tục, nhiều người đã bỏ. Ở nhà có câu “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, bây giờ trái lại “con đặt đâu cha mẹ ngồi đấy.”

Tất cả những lễ nghi phong tục của tổ tiên ta để lại đều mang những ý nghĩa đặc biệt sâu xa, gìn giữ chẳng được, mai một dần quả thật đáng tiếc. Sự ràng buộc trong nghĩa hôn nhân gói ghém biết bao nhiêu trong từng phong tục lề thói. Ngày nay lễ nghi càng bỏ bớt bao nhiêu, nghĩa hôn nhân cũng nhẹ bấy nhiêu.