← Quay lại trang sách

8. Chả lẽ bên nước các ông thiếu lừa

Anh bạn tôi là người vốn không bao giờ biết cáu giận. Vì thế tôi rất ngạc nhiên khi một hôm, vừa bước chân đến cửa nhà tôi, chưa kịp chào hỏi, anh đã cáu ầm lên:

- Thật xấu hổ?... Thật nhục nhã!...

Tôi đoán, chắc anh hay gia đình anh gặp chuyện gì không may.

- Chào anh, mời anh ngồi, - tôi bảo anh ta.

- Thật xấu hổ! Nhục nhã!

- Thế có chuyện gì xảy ra vậy?

- Nhục quá! - Anh lại nhắc lại, một tay áp vào má như bị đau răng. - Đời thuở nhà ai một con lừa già ốm mà bán cho người ta đến hai nghìn rưởi lia?

Tôi lùi lại một bước và nhìn anh chằm chằm: ''Hay anh ta bị điên?... Và, thú thật, tôi đã định gọi vợ tôi.

- Anh uống cà phê không? - Tôi hỏi.

- Cà phê cà phiếm gì! Nhục lắm! Nhục lắm! Anh hãy cho tôi biết, một con lừa già, gầy còng ốm yếu có thể đáng giá hai nghìn rưởi lia không? Mà nó chỉ sống được hai ngày nữa là cùng!

- Anh biết đấy... - ''Chắc chắn anh ta bị loạn thần kinh rồi'', tôi thoáng nghe trong đầu. – Tôi không bao giờ biết giá của chúng, với lại, thú thật, tôi nhìn thấy lừa cách đây một chục năm rồi...

- Tôi cũng không phải chuyên gia về lừa, nhưng anh thử nói cho tôi biết: có con lừa nào có thể có giá hai nghìn rưởi lia không?

- À ừ… nếu đó là một con lừa cực kì quý hiếm... - Tôi đáp cho qua chuyện.

- Quý hiếm cái con khỉ! Lừa nào cũng chỉ là lừa. Mà đấy là một con lừa hết sức bình thường. Thế mà lão già bán cho người ta với giá hai nghìn rưởi lia, nhưng cái khủng khiếp nhất là tôi lại là người môi giới trong vụ này!

- Thế nhưng cái gì xui khiến anh dính vào chuyện này?

- Như anh biết đấy, tôi và vợ tôi có lần sang Mĩ, sau khi bình tâm một chút, anh bắt đầu kể. - Ở đó tôi có quen một giáo sư. Một người rất dễ thương, và rất quan tâm đến Thổ Nhĩ Kì. Sau khi về nước, tôi và ông ấy vẫn tiếp tục trao đổi thư từ. Cách đây hai tháng ông ta viết thư cho tôi, thông báo có một nhà nghiên cứu nghệ thuật, một chuyên gia lớn về các loại thảm cổ và lịch sử ngành dệt thảm, bạn ông ta, chuẩn bị đến Thổ Nhĩ Kì và nhờ tôi giúp đỡ ông bạn này. Tất nhiên tôi trả lời rằng tôi sẵn sàng, song chỉ yêu cầu ông ta sắp xếp để đến Thổ Nhĩ Kì vào thời gian tôi nghỉ hè ở trường Tổng hợp. Vì thế trước khi sang Thổ Nhĩ Kì, ông chuyên gia kia đã kịp đi mấy nước Ấn Độ, Iran và Apganixtan.

Sau khi đến Stambun ông ta hãnh diện khoe với tôi vài chiếc vai nhỏ chứa đầy những tấm thảm ông ta vừa mua được. Trông ông ta có vẻ rất mãn nguyện.

''Tất cả những tấm thảm này đều là những vật vô giá'', - ông ta nói. Riêng một mảnh thảm bé tí theo lời ông ta, cũng đáng giá không dưới ba nghìn đô la, vậy mà ông ta mua chỉ có một đô la từ một người nông dân nghèo khổ ở Iran, và người nông dân này mừng rỡ biết bao khi nhận được một đô la đó. Tôi hỏi tại sao chỉ mẩu vải nhỏ mà đắt như thế.

''Vì đó là kiệt tác! - Ông bạn người Mĩ kêu lên. - Trong mỗi xăngtimét vuông có thể đếm được tám mươi nút thêu! Chả lẽ anh không biết là trong bảo tàng... - ông ta gọi tên một bảo tàng nào đó, - có lưu giữ một tấm thảm mà mỗi xăngtimét vuông của nó có một trăm nút thêu, mà như vậy đã coi là kỉ lục của nghề dệt thảm. Mà cái mảnh thảm đó, - ông ta cười tinh quái - được mua với giá 5 đô la, trong khi giá thực sự của nó không dưới năm nghìn đô la!''

''Sao ông lại mua được rẻ thế?'' - ''À, anh biết không. Tôi là người sưu tầm thảm cổ đã bốn chục năm nay rồi, và tôi có nhiều bí quyết lắm...''

Sau đó tôi được biết, ông ta quả là chuyên gia số một thế giới: tác giả của ba cuốn chuyên hảo, hai tập anbum, và là chủ của một trong những bộ sưu tập thảm cổ phong phú nhất thế giới. Khi ông ta kể cho tôi nghe những mánh lới trong việc mua bán, tôi cứ tròn xoe mắt vì kinh ngạc...

Hôm sau tôi dẫn ông ta đi Anatôlia. Ông ta ghi ghi chép chép cái gì như ghi nhật kí, chụp ảnh các tấm thảm trong nhà thờ và viện bảo tàng, mua một vài thứ linh tinh, nhưng thấy rõ ông ta chưa hài lòng lắm. Một thời gian sau, chúng tôi đến một khu khai quật khảo cổ lớn. Hai đoàn khảo cổ, một của Mĩ, một của Tây Đức, đang đào xới khắp cả một vùng. Những chiếc bình bằng đất và cát chất cao như núi bông. Việc khai quật hứa hẹn rất có kết quả: các nhà khảo cổ đã phát hiện ra mấy tầng văn hóa. Từ dưới lòng đất hiện lên các tòa nhà, cung điện, cả một thành phố... Khắp nơi chỗ nào cũng thấy khách du lịch nước ngoài. Nông dân các làng xung quanh thi nhau mời chào họ những bát đĩa bằng đất và các ''đồ cổ'' khác lấy được trong khi khai quật. Cảnh mua bán thật là náo nhiệt. Thậm chí bọn trẻ con đi đất cũng chạy theo khách nước ngoài, tay cầm các đầu người bằng đất và các mẩu đá nhằng nhịt chữ viết, miệng kêu: ''Oăn đô la!'' ''Tu đô la''[1]

Dù sao cũng đã đặt chân đến đây nên tôi cũng quyết định mua thứ gì đó làm kỉ niệm và tôi bắt đầu mặc cả một viên đá màu xanh da trời đẽo hình đầu người, tôi định mua nó về để đánh một cái nhẫn. Nhưng người bạn Mĩ đi cùng tôi bảo rằng tất cả những thứ đó, cụ thể là những viên đá ấy chẳng có chút giá trị lịch sử hay nghệ thuật gì.

''Ở khắp phương Đông, bất cứ chỗ nào tôi đến - ông ta giải thích cho tôi - mọi thứ đều giống hệt như ở Thổ Nhĩ Kì. Tại các nơi khai quật, nơi có nhiều du khách nước ngoài đổ về, đám nông dân luôn đeo bám, quấy nhiễu. Vớ được bất cứ thứ gì họ cũng đều bảo là đồ cổ. Đám dân đen ấy học được cách làm giả bất cứ vật gì khiến cho các nhà khảo cổ học nhiều kinh nghiệm có khi cũng bị lừa... Tôi có ông bạn cùng dạy trường tổng hợp mua nhầm phải một vật làm giả cổ, về mới phát hiện đó chỉ là mẩu xương chó khô? Tuy nhiên, phải công nhận là những vật giả ấy, kể cả những viên đá này, được chế tác khá giỏi. Đúng không?”

Rồi chúng tôi đi tiếp. Trời nóng kinh khủng. Chúng tôi muốn tìm chỗ nào có bóng mát nghỉ chân, uống chút gì cho đỡ khát, nhưng mất gần một tiếng chiếc xe Jeep của chúng tôi mới đến được chỗ có một cây thông đứng trơ trọi. Dưới bóng cây có một người nông dân đứng tuổi đang nằm. Cạnh đó là một con lừa, buộc vào gốc cây. Chúng tôi chào và hỏi chuyện bác ta. Tôi dịch ý câu chuyện cho ông bạn Mĩ.

''Thế bác làm gì chỗ đồng không mông quạnh này?'' - Tôi hỏi. ''Chả làm gì cả, - ông già đáp. - Trước kia chỗ này người ta còn trồng trọt được vài thứ, nhưng từ khi bắt đầu đào bới thì dần dần dân chúng bị đói.'' - ''Thế nông dân sống bằng gì?'' – “Từ khi những viên đá và sọ người này thành mốt thì bao nhiêu đàn ông, đàn bà bỏ việc đồng áng, kéo nhau xuống hố đào bới hết, rồi nhặt được cái gì thì đem bán cái ấy...''

Người Mĩ gật gật đầu tỏ ý tán đồng, xác nhận mỗi câu nói của bác nông dân. Ánh mắt ông ta như muốn nói: điều đó càng chứng minh cho lời tôi nói ''Ở nước các bạn cũng hệt như ở mọi nơi khác của phương Đông''...

Một lát sau ông ta bỏ chúng tôi ra xem con lừa.

''Tôi thấy ở nước mình có biết bao nhiêu kẻ đê tiện ngu dốt, - bác nông dân nói tiếp - Bọn chúng đem bán rẻ cho người nước ngoài bao nhiêu vật quý của chúng ta đào được dưới đất. Những vật đó là vô giá. Tiền bán chúng có thể xây dựng được 10 nước Thổ Nhĩ Kì? Bọn người ngoại đạo này cứ đào bới và chở đi hết... Rồi về nước chúng mới bán được không biết bao nhiêu tiền... Với số tiền ấy có thể xây được cả thành phố ấy chứ! Dần dần dưới đất chúng ta chẳng còn cái gì. Nghe nói bây giờ chính phủ ta bắt đầu khôn lên, không cho bọn nước ngoài vơ vét cái gì một cách đơn giản như vậy. Còn nếu chúng có ăn cắp cái gì thì có nghĩa là ăn cắp của bản thân chính phủ, hoặc nếu anh muốn hiểu, có thể là bản thân nó cũng được bán với giá phải chăng...''

''Thế người nông dân dù sao sống bằng gì?'' - Tôi thắc mắc. ''Xin ngài tốt hơn đừng hỏi... Trong vùng này có sáu làng. Ngài cứ ghé vào nhà họ xem, một mảnh giẻ cũng chẳng có, chẳng có lấy một cái nồi.... Có bất cứ cái gì họ đều đem biến hết thành cái người ta gọi là gì nhỉ... à... thành mấy thứ đồ cổ này. Bất cứ cái gì đã mốc meo, han rỉ đều mang đi bán hết. Cái này làm hỏng hết con người... Hôm qua tôi thấy thằng bé hàng xóm tháo cái chuông ở con lừa của tôi. Nó lấy làm gì? À, nó đào đất chôn thật sâu, sau đó đào lên trước mặt người nước ngoài – xin mời. Đồ cổ đấy! Từ những cái đế móng lừa người ta đem đúc thành những cái huy hiệu và tiền cổ, đấy, đến mức như thế đấy...''

''Thế còn bác sống bằng gì?'' - ''à, tôi buôn bán lừa.''

Bác ta đứng dậy ra tháo dây buộc lừa. Ông bạn người Mĩ đến gần tôi - trông ông có vẻ rất hồi hộp.

''Nhưng lẽ nào sống bằng buôn bán mấy con lừa được? - Tôi tiếp tục lục vấn. ''Nói thế nào nhỉ... Vì cái đó còn phụ thuộc vào những con lừa.''

Ông bạn người Mĩ sốt ruột cắt ngang câu chuyện của chúng tôi. Và ghé vào tai tôi nói thầm: ''Này, trong khi anh nói chuyện với lão ta tôi đã nghiên cứu kĩ mảnh thảm trên lưng con lừa. Nó đúng là kiệt tác?'' - ''Sao! Cái giẻ rách bẩn thỉu ấy à?'' - ''Phải, phải, tôi đã xem kĩ màu sắc, họa tiết, các nút dệt rồi. Đúng là tuyệt tác! Trên mỗi xăngtimét vuông đếm được đúng một trăm hai mươi nút. - Thế giới chưa từng biết đến tác phẩm dệt như vậy! Đó là một vật vô giá!”. Tôi nhìn ông bạn người Mĩ đang hổn hển vì quá xúc động... ''Anh định mua nó?'' - ''Tất nhiên rồi! Nhưng tôi không muốn để lão nông dân nghi ngờ là chúng ta mua mảnh thảm. Tôi biết rõ những tay xảo quyệt này. Nếu chúng đoán ra giá trị thật của đồ vật thì chúng không bao giờ nhượng bộ đâu. - Dù có trả bao nhiêu tiền chúng vẫn cho là ít! Vì thế chúng ta...''

''Cái gã ngoại đạo ấy nói gì đấy?'' - Ông già nông dân hỏi tôi. ''Không có gì. Ông ta bảo rất thích ở đây…” - Tôi đáp.

“Ở đây có gì mà thích? Toàn đồi trọc với đồng hoang...'' - Ông già nông dân làu bàu. ''Vì thế chúng ta không nên để lộ cho lão ta biết là chúng ta quan tâm đến tấm thảm. - Ông bạn người Mĩ tiếp tục thậm thụt với tôi với vẻ đầy âm mưu. Chúng ta sẽ mua con lừa. Lão già sẽ bán cho chúng ta, con lừa cùng tấm giẻ rách ấy mà không ngờ đó là một báu vật thực sự. Con lừa thì đến chỗ rẽ kia chúng ta sẽ thả cho nó đi... Anh hãy bắt đầu mặc cả đi!''

''Có phải bác nói là bác muốn bán lừa không? - Tôi hỏi ông già. “Bán. Tôi đã nói rồi...'' - ''Thế khoảng bao nhiêu thì bác bán?'' - ''À, cái đó còn tùy xem người mua là ai...'' - ''Nếu chúng tôi mua?''. Lão già cười vang. ''Ngài nói đùa thế, chứ các ngài mua con lừa của tôi làm gì?'' - ''Bác đừng lo, bác cứ nói giá đi'' - ''Nhưng phải xem người mua là ai đã. Ngài hay cái ông ngoại đạo kia?'' - ''Ông ta mua? Cái ông người Mĩ ấy?” - ''Ông người Mĩ à? Hừm... nghĩa là người đồng minh... Thế thì hơi bất tiện... Này, ngài hãy bảo ông ta con lừa này không thích hợp với ông ta đâu. Vì nó già lắm rồi!''

Tôi dịch lại cho ông bạn người Mĩ. ''Tốt lắm! Nghĩa là lão ta sẽ bán rẻ.'' - Ông này kêu lên. ''Già cũng không sao, - tôi dịch lại cho ông già nghe. – Ông ta đồng ý mua.'' - '''Nhưng thế thì xấu hổ lắm. Ông ta trở về Mĩ rồi đi kể cho mọi người nghe người Thổ Nhĩ Kì đã lừa ông ta như thế nào...''

Tôi lại dịch lại câu nói.

''Người nông dân Thổ rất trung thực, anh hãy nói với bác ta. Ở nước châu Á khác người ta không những lừa người mua mà còn hét giá rất đắt. Còn bác ta là người tốt? Anh hãy nói là tôi sẽ trả hậu cho bác ấy…”

''Ông Mĩ đó đồng ý'' - tôi phiên dịch lại. ''Nhưng con lừa này sẽ chết trước khi về được đến Mĩ. Hơn nữa nó lại rụng lông kinh khủng...'' - ''Cái ông này rõ thật? Người ta đã muốn mua thì ông cứ nói giá đi.'' - ''Nhưng tôi nói với ngài rồi: con lừa này không dùng vào việc gì được đâu. Cái ông người Mĩ định làm gì với nó? Với lại, tôi thắc mắc muốn biết: chả lẽ bên nước họ thiếu lừa hay sao?''

Lão già hỏi: ''Chả lẽ bên nước anh thiếu lừa sao?''

Ông người Mĩ suy nghĩ một lát. ''Anh hãy nói với bác ta: Lừa bên chúng tôi có, nhưng loại lừa này thì không...''

''Hừm... Nghĩa là ông ta không thích lừa Mĩ, mà thích lừa Thổ Nhĩ Kì... Thôi được. Tôi cũng chẳng có lỗi gì. Bao nhiêu khuyết tật của con lừa tôi đã nói ra hết, không giấu điều gì. Cứ mặc cái gã ngoại đạo này biết điều gì sẽ đợi hắn.'' - ''Thế bác định bán bao nhiêu nào?'' – “Đối với các ông thì - mười ngàn lia. - ''Cái g-ì-i-ì? Ông điên à? Một con ngựa cái nòi Arập chính cống cũng không đắt hơn bốn nghìn...'' - ''Thế ông ta mua lừa làm gì? Sao không mua ngựa cái chính nòi Arập?''.

Tôi nói lại với ông bạn người Mĩ lão già đòi bao nhiêu. ''Biết ngay mà...Tôi đã nói với anh là bọn này ranh ma lắm. Nếu ta hỏi mua tấm thảm chắc lão ta phải hét đến một trăm nghìn. Được, tôi sẵn sàng trả, nhưng có điều nếu hắn hiểu là tôi đồng ý, lão ta sẽ tăng lên hai chục nghìn, và nếu tôi đồng ý trả hai chục nghìn, lão ta sẽ đòi năm chục nghìn! Vì thế anh cứ mặc cả nữa đi...''

Tôi hỏi ông già: ''Này, tôi hỏi thật, thế bác mua con lừa này bao nhiêu tiền?'' - Thế thì tôi cũng không giấu: tôi mua nó có 5 lia. Chỉ một hai hôm nữa là nó ngoẻo, tôi sẽ lột da để may túi. Vì nó chả dùng vào việc gì được nữa?''

''Vậy bác không biết xấu hổ hay sao mà đòi bán những mười ngàn? Thật nhục nhã cho cái đầu của bác!'' ''Lạy thánh Ala, tôi có muốn bán đâu, tại các người muốn mua đấy chứ! Tôi bảo nó già rồi, cái lão người Mĩ của ngài nói ''Không sao''. Tôi bảo da nó hỏng rồi, ông ta bảo: ''Cũng được!''. Tôi bảo ngày mai nó sẽ chết, ông ta bảo: ''Chả lo”. Đấy, ngài thấy không, nghĩa là ở con lừa này phải có cái gì mà tôi không hiểu nổi? Vì nếu không, đời nào ông bạn người Mĩ của ngài lại đồng ý mua con lừa già ốm yếu này! Tôi nói vậy có phải không? Vì thế tôi nói một câu: mười nghìn lia? Không bớt một xu.''

Tôi hỏi ông bạn Mỹ có đồng ý giá đó không. Ông ta gật đầu, sau đó chúng tôi mặc cả gần một tiếng đồng hồ nữa, bớt được xuống còn năm ngàn. Cuối cùng làm ra vẻ thôi không muốn mua nữa chúng tôi đi ra chỗ đậu ôtô. Ông già không thèm để ý đến chúng tôi.

Một phút sau khi chúng tôi quay lại, ông ta cười một cách đắc thắng: ''Tôi biết thế nào các ông cũng quay lại mà!'' - ''Sao bác biết?'' - ''Vì thấy rõ là các ông rất máu con lừa của tôi, không chịu buông tha...'' Mặc cả thêm nửa tiếng nữa, cuối cùng ông bạn người Mĩ của tôi đếm trả ông già hai nghìn rưởi lia. Ông già dắt con lừa lại cho chúng tôi ''Đây các ông lấy đi! Tôi biết bán thế là rẻ, nhưng thôi...'' Nói xong ông ta tháo mảnh chăn trên lưng con lừa ra rồi đi về. Quá bất ngờ, ông bạn Mĩ đứng ngây người, miệng há hốc...

Chúng tôi nắm sợi dây buộc mồm con lừa, ông người Mĩ kéo, còn tôi thì đẩy phía sau. Con lừa quá già, vất vả lắm chúng tôi mới lôi nó đi được hai mươi bước. Ông người Mĩ nói thầm: ''Lạy Chúa, đừng tỏ vẻ gì cả, ta cố kéo thêm một đoạn rồi xin anh hãy đến giải thích với lão ta là con lừa bị rét, bảo lão ta hãy đưa cho cái thảm đắp...''

Bỗng sau lưng chúng tôi có tiếng kêu: ''Khoan đã! Khoan đã! Các ông quên cái này...'' - ''Trời ơi, tấm thảm tự nó đến với chúng ta...'' Chúng tôi vui mừng. ''Các ông quên cái vòng buộc dây. Về Mĩ rồi ông ta buộc bằng gì. Chà, các ông này. Ai lại mua lừa mà không có vòng buộc!''

Ông người Mĩ cương quyết: ''Này, chúng ta không cần khách khí nữa...''

''Này, ông già, ông cho chúng tôi cái mảnh giẻ kia đi... - Tôi nói - Con lừa của ông yếu lắm, nó bị chết rét giữa đường mất, dù sao cũng nên thương loài vật… - ''Ề, ề, không, - ông già nông dân từ chối – tôi không cho mảnh vải này được, đó là di sản của bố tôi để lại. Với lại các ông mua lừa, chứ có phải mua mảnh vải này đâu.'' - ''Nhưng chỉ đáng có một xu thôi... ông giữ nó làm gì?'' - ''Dù nó không đáng một xu cũng được - ông già nói, rồi nói thêm nghiêm túc: - Tôi mang nó về nhà. Ở nhà tôi còn một con lừa còm nữa, tôi phủ cái này lên lưng nó, biết đâu lại gặp may – lại có một ông khách tò mò nào đó giống như ông bạn Mĩ của ngài vậy. Lạy thánh Ala, mảnh vải này đem lại may mắn cho tôi, đã năm năm kể từ khi đám người ngoại đạo này đến đào bới đất đai chúng tôi, tôi buôn bán con vật đáng vứt đi này. Không, không có mảnh vải này không được, nhưng ngài nói để ông ta yên tâm - cái vòng kia thì tôi cho không... Thôi tạm biệt. Chúc thành công!'' - Rồi đi vài bước ông già kêu với theo: - ''Này! Còn nếu các ông muốn bỏ lại con lừa thì việc gì phải kéo nó đi xa cho mất công!''

Chúng tôi đi đến chỗ ôtô. Tôi thực sự lo sợ ông bạn người Mĩ bị bất tỉnh, nên phải dìu ông ấy. ''Hừm... Tôi chưa từng bị ai chơi cho một vố đau như thế - Ông bạn người Mĩ than, tay tung tung cái vòng buộc trong lòng bàn tay. ''Thế ông định làm gì với cái vòng này?'' - ''Tôi cho vào bộ sưu tập làm kỉ niệm... Dù sao tôi cũng đã mua nó với giá hai nghìn rưởi lia Thổ Nhĩ Kỳ!...”

THÁI HÀ dịch

[1] “Một đôla”, “Hai đôla!”