18. Bí quyết của lòng ngoan đạo
Người anh em ơi, tôi phải nói với người anh em rằng ở nước ta giáo dục thanh niên nông thôn là một việc làm tế nhị và phải khôn khéo.
Chẳng hạn, một thằng con trai không biết nghe lời, không chịu tử tế thì phải mắng cho một trận, mắng không được thì phải nọc ra mà đánh. Đánh không được thì phải tống cái con lừa bất kham ấy vào lính. Giải ngũ về mà vẫn chứng nào tật ấy thì phải cưới cho cái đồ thối thây ấy một con vợ. Thế nhưng, nếu lấy vợ rời mà nó vẫn không khôn ra được thì đành phải đá đít đuổi ra khỏi làng. Đây là tối hạ sách rồi đấy. Chỉ cần đuổi cái thằng đốn mạt ấy ra khỏi nhà bố mẹ nó là lập tức nó trở thành một con người khác khi sang làng khác. Tựa hồ như nó tái sinh vậy.
Ông cha chúng ta nói thật đúng: ''Cứ ở mãi trong làng, chẳng bao giờ thành tiên tri''. Các cụ nói khôn thật. Người anh em đã bao giờ nghe thấy người làng với nhau mà lại khen nhau là thánh chưa? Chưa bao giờ và sẽ chẳng bao giờ có. Bạn cứ nhớ lại thánh Nôi mà xem. Người làng không thừa nhận ông ấy là người ngoan đạo. Người ta đã nói thẳng vào mặt ông: ''Nôi thì cứ là Nôi thôi, chứ không bao giờ là tiên tri được đâu”. Thế mà, người anh em ạ, Nôi là một người ngoan đạo vĩ đại đấy.
Tôi xin nhắc lại một lần nữa rằng nếu dỗ dành dạy bảo cũng không đưa được cái thằng mặt thịt ấy vào khuôn phép thì hãy dùng đến cấy gậy. Rồi vọt không ăn thua thì tống vào lính. Thày cai thày ấy vả cho gãy răng là con có sói hung hăng biến thành con chó nhà ngoan ngoãn ngay. Nếu nắm đấm của thầy cai không có hiệu lực thì cưới vợ cho nó. Trị ngựa bất kham thì dùng cách bỏ đói. Còn trị con trai cứng cổ thì phải dùng đến tay vợ. Nhưng đến vợ mà cũng không ăn thua thì chỉ còn cách đá đít đuổi đi tứ xứ.
Ngày xưa ở làng tôi có một thằng tên là Mu-rát, biệt hiệu ''Con heo'', nó là thằng mất dạy chưa từng thấy bao giờ. Cái anh thanh niên mà người anh em vừa nói, nếu đặt cạnh thằng này thì lại là một thiên thần. Hồi đó chưa đến mười tuổi nói đã vác gậy đánh chị gái nó tên là Phat-ma và cả bà mẹ già. Nó làm tan hoang cả nhà cả cửa. Người ta đã khuyên nó: Mu-rát con ơi, bỏ những trò ba láp ấy đi?
Nhưng có ăn thua gì đâu! Nó chẳng thèm nghe ai cả. Nó lấy dao đi chặt đuôi chó nhà người ta, nó phá cây trong vườn, đập rau ngoài ruộng, nó trèo lên mái nhà, dội nước vào các ống khói. Tóm lại, nói làm những việc đến quỷ sa tăng cũng không nghĩ ra.
Có một hôm vào thứ sáu chúng tôi đến nhà nguyện. Cả làng đã đến đủ mà sao thầy cả vẫn chưa đến. Chúng tôi chờ mãi. Cuối cùng thì thầy cũng đến. Ai trông thấy thầy cũng phải ôm bụng lăn ra mà cười: mặt ông trưởng nhà tu mà cứ như cầu vồng - đầy các vệt mầu - xanh, vàng, tím, đỏ. Vừa bước qua ngưỡng cửa, thày Cả đã chào chúng tôi.
- Xelim alâycum!
Còn mọi người thì cười sặc cười sụa, không nói ra thành tiếng được.
Chuyện là thế nào? Thày Cả nằm ở ngoài suốt lơ mơ ngủ, còn Con Heo Mu-rát thì lặng lẽ quệt mầu lên mặt thầy. Anh biết không, chúng tôi vớ được nó, đánh cho nhừ tử rồi hỏi:
- Thằng heo kia, sao mày dám chọc ghẹo thày Cả?
- Tôi làm thế, - nó bảo, - là để cả làng biết rằng thày Cả không chịu rửa mặt. - Nếu ông ấy ngoan đạo thì ông ấy phải rửa mặt trước khi ra nhà nguyện và phải biết mặt mình dính phẩm chứ.
Bấy giờ chúng tôi mới hiểu rằng thày Cả là kẻ bội giáo, là người vi phạm các lời răn trong kinh Koran. Nhưng việc đó cũng không cứu được Con Heo Mu-rát. Chúng tôi vẫn nọc thằng bất trị ra sân và cho một trận.
Nhưng rồi vẫn chứng nào tật ấy!
Người anh em ơi, Con Heo Mu-rát của chúng tôi đã gây ra không còn thiếu một chuyện gì nữa. Những chuyện ấy kể ra cũng không bao giờ hết. Năm nó vừa cập kề mười bốn tuổi nó đã rủ rê được bà cụ già Pha-đích bảy mươi tuổi rồi đưa bà cụ đi khỏi làng. Suốt ba ngày cái thằng mặt trơ trán bóng ấy đùa rỡn với bà cụ ở trong núi. Cả làng chúng tôi đổ đi tìm. Cuối cùng thấy hai người trong hang gấu cạnh ngọn núi trọc. Lúc ập vào thì thấy Con Heo Mu-rát đang ngồi trên nền đất, trước mặt nó là một chai rượu, nó đang vỗ tay đôm đốp, còn bà cụ Pha-đích thì đang uốn éo mà trên người không có một mảnh vải.
Cái thằng chết dẫm, nó làm nhục cả làng chúng tôi! Chúng tôi vồ lấy gậy quật cho nó tối tăm mặt mũi. Ai cũng ra sức nhổ nước bọt vào mặt cái thằng Con Heo Mu-rát.
- Chính là tôi muốn làm cho tốt hơn, - thằng Mu-rát thanh minh. - Các người chả có ai chào hỏi bà Pha-đích tội nghiệp. Còn tôi thì thương bà cụ, âu yếm bà cụ...
Lúc bấy giờ bà cụ Phađích mới quỳ sụp xuống chân chúng tôi:
- Các ông các bà thương cho cậu ấy, - bà cụ van nài, - tôi bỏ quá cho cậu ấy rồi. Cậu ấy chỉ đáng tuổi cháu chắt nhà tôi. Tôi chẳng giận gì cậu ấy cả. Một cậu con trai như thế này thì hàng nghìn bà già cũng phải đổ theo! Các ông bà buông tha cho cậu ấy nhé!
Thế mà cái thằng chó ấy thoát tay chúng tôi và chạy mất dép. Chạy một quãng xa nó mới gào lên: - Ai bảo thò mũi vào chuyện người khác, một lũ khọm! Bà già không kêu, tôi cũng không ngán, sao các người chui vào?
Đấy người anh em ạ, một thằng bất lương như Con Heo Mu-rát thì thế gian này chưa thấy bao giờ.
Một hôm nửa đêm thức dậy, cả làng sáng rực rỡ, ngõ xóm đầy khói bụi. Cháy rồi! Nhìn ra thì thấy cháy kho rơm nhà I-xma-in. Cả làng kéo đến anh chàng I-xma-in thì đang trong quân ngũ năm thứ hai, cô vợ trẻ ở nhà một mình. Buồng kho cháy rực khắp cả bốn phía.
Chúng tôi đoán ra ngay. Lại có bàn tay thằng Mu-rát. Phải bắt ngay thằng du thủ du thực này! Chúng tôi tóm được và hỏi nó:
- Đồ Con Heo, nói đi, làm sao mày lại đốt kho nhà người ta?
- Các người khoan khoan đã, - nó đáp, - rồi các người sẽ hiểu ngay thôi.
Người anh em ơi, bỗng nhiên từ nhà kho vọng ra hai giọng - một nam, một nữ:
- Cứu với! Cháy rồi! Cứu chúng tôi với!
Liên sau đó từ cửa sổ chui ra ông trưởng thôn và cô vợ I-xma-in.
- Này ông trưởng thôn, - chúng tôi quát lên, - tại sao ông lại chui vào kho với cô vợ lính này thế”.
- Tai họa quá, bà con ơi! - Ông kêu lên đáp. - Tôi phải chạy vào cứu cô vợ lính khốn khổ. Cháy nhà mà lại! Chúng tôi cháy rồi, cứu chúng tôi với!
Từ cửa sổ xuống đất chỉ một với tay là đến:
- Nhẩy ra đi, ông trưởng thôn! - Chúng tôi kêu ầm lên.
- Không được, - ông đáp, - tôi không có quần áo. Các ông bà cho ai về nhà tôi lấy hộ cái quần với.
- Chà chà, ông trưởng thôn, ai lại đi chữa cháy mà không đóng khố bao giờ?
Vợ I-xma-in đầm đìa nước mắt cầu khẩn:
- Xin các ông bà cứu giúp, cháu bị cháy rồi! Xin làm ơn mang cho cháu cái áo, cái khăn với!
Thế là thế nào nhỉ? Chẳng lẽ thấy cháy mà cô nàng lại chạy ra khỏi nhà loã lồ như thế hay sao?
Còn Con Heo Mu-rát thì hăm doạ:
- Ê, mọi người ơi, đừng đưa quần áo cho cái bọn dơ dáng dại hình này! Nếu không tôi sẽ đốt cả nhà và kho của các người nữa đấy, cả làng này sẽ thành đống tro tàn cho mà xem.
Mọi người biết rằng nó rất biết giữ lời hứa.
Cái thằng tháu cáy này đầu đêm đã rình mò ông trưởng thôn cùng cô vợ lính, nó ăn trên quẩn áo của họ rồi đốt nhà kho.
Ông trưởng thôn suýt khóc không dám nhảy ra ngoài trong bộ quần áo Adam trước mắt dân làng. Cô vợ lính cũng mất hết hồn phách - ở ngoài sân mọi người đang đứng túm tụm: cả trai tráng, đàn ông, đàn bà, cả già lẫn trẻ.
Trong nhà kho bắt đầu đánh nhau. Đôi nhân tình tìm được một chiếc yên lừa và tấm chăn lừa, nhưng họ không thể chia nhau.
Ông già thì kêu:
- Để tôi khoác!
Cô trẻ cũng không nhường:
- Không được, tôi khoác! Tôi mà là đàn ông đàng hoàng thì cứ thế nào tôi nhảy ra ngoài thế ấy!
Trưởng thôn nổi hung thật sự:
- Đồ con đĩ! Tao là người đứng đầu làng này. Tao không thể đứng trước mọi người như thế này được! Đưa tao cái chăn!
Cô vợ lính thì tóc cũng đã dựng ngược:
- Các ông giáo dân đạo Hồi ơi! - Cô ta tru tréo lên. - Các ông đàn ông ơi! Các ông quay mặt đi! Nhìn vợ bạn cởi truồng là tội lỗi lắm đấy!
Cô vợ lính từ trong cửa sổ nhảy ra, lấy hai tay che chắn đằng sau, đằng trước rồi chạy vụt vào trong nhà.
Chạy theo cô nàng từ nhà kho vào nhà chính là ông trưởng thôn. Phần đùi ông được bọc bằng tấm chăn lừa, còn cái yên thì dùng để che trên vai. Từ nhà cô ông chạy ba chân bốn cẳng về nhà mình.
Quên cả đám cháy bà con nông dân lăn ra mà cười.
Chao ôi, người anh em, làm sao mà kể lại hết được hành tung của thằng chó chết ấy! Đồ dịch hạch!
Cuối cùng chúng tôi đã phải đút lót quan tòa cho nó đi tù hai năm rồi tống nó vào lính.
Cả làng thở phào nhẹ nhõm. Ai cũng đều biết: thày cai thày ấy vả cho gãy răng thì đến quỷ sa tăng cũng biến thành con cừu. Chúng tôi nghĩ rằng cái thằng Con Heo Mu-rát mà qua được trường học lính tráng gian khổ thì sẽ thành người.
Sau nửa năm bỗng có tin về: thằng Mu-rát của chúng tôi được phong chức cai. Thế mới lạ chứ! Bây giờ lấy ai mà dạy được nó. Mấy tháng sau lại có tin mới: Mu-rát đã là trung sĩ. Cả làng kêu lên kinh ngạc. Chúng tôi ai nấy đầu vò đầu bứt tai: nếu tình hình cứ thế này tiếp diễn thì thằng khốn kiếp phải lên đến đại uý hay thiếu tá như chơi. Chuyện này có thể xảy ra lắm chứ, nếu thời hạn quân ngũ không phải là hai, mà là năm năm chẳng hạn.
Hết thời hạn, Mu-rát về làng. Hắn bước đi dáng bệ vệ, mặt vênh váo ra ý đừng có ai đến gần. Thế đấy, dở thật! Hồi nó còn là thằng Con Heo Mu-rát chúng tôi đã không trị được, huống hồ đây giờ nó đã là trung sĩ.
Còn thằng Mu-rát thì hoành hành hơn trước nhiều. Không có gì kiếm chế được nó. Bà con nông dân chúng tôi bèn tập trung chỗ quán cà phê và quyết định ''Cần phải cưới vợ cho cái thằng mất dạy này. Chỉ có đàn bà mới trị được. Có thể như thế mới đỡ cái chứng ngựa non háu đá!''
Mu-rát đã tuyên bố với chúng tôi:
Bây giờ tôi đã là trung sĩ Mu-rát và tôi muốn gì là tôi làm nấy. Lấy vợ thì tôi đồng ý, nhưng tôi chỉ lấy cô nào tôi thích. Còn bố mẹ cô ấy thì đừng có mơ đến tiền dẫn cưới. Tôi xin nói thế này: tôi đồng ý lấy con gái ông chủ quán Su-cơ-ru!
Sucơru là một nhân vật quan trọng trong quận, còn con gái ông ta là con một và là một thiên quốc sắc. Cả làng chúng tôi liền chạy đến nhà ông già mà khấn vái:
- Xin ngài thương chúng tôi, ngài Su-cơ-ru! Tất cả chúng tôi nằm trong quyền lực của ngài. Nếu như tất cả chúng tôi không răn đe được thằng Mu-rát, thì chúng tôi đành bỏ làng đi đâu thì đi, chứ nó không cho chúng tôi sống yên được đâu. Xin ngài cứ cho biết, ngài đòi dẫn cưới bao nhiêu, chúng tôi xin gom tiền nộp.
Thế là cưới được vợ cho cái thằng trời đánh không chết. Chỉ có điều sau lễ cưới nó lại hoàn toàn phóng túng. Bà con thì đổ mồ hôi sôi nước mắt ở ngoài ruộng, còn nó thì say sưa tối ngày, lại còn đe doạ nữa chứ:
- Các người sẽ phải chịu trách nhiệm về việc lừa tôi đi lính! Tôi sẽ đi báo chính quyền về việc làm của các người. Một ông thợ cày độc thân hấp hối, các người giấu biệt đi, rồi đem ruộng của người ta ra bán nhân danh người quá cố. Một bà góa cô quả hấp hối có người sửa đểu ngay giấy giá thú, khai rằng – đã thành hôn với bà ấy rồi chiếm đoạt tài sản. Các người là một lũ khốn! Tôi sẽ lôi các người ra trước ánh sáng! Các người sẽ còn phải nuôi nấng tôi dài dài!
- Khẽ mồm chứ, khẽ mồm chứ, anh trung sĩ Mu-rát, - chúng tôi cầu khẩn. - Chúng tôi sẽ nuôi nấng anh, nhưng xin anh im đi cho!
Ăn thua gì! Lẽ nào cái thằng ngỗ ngược ấy lại chịu im? Nó hất toẹt chai rượu của chúng tôi rồi la mắng sa sả.
Một buổi tối chúng tôi lại tập hợp ở quán cà phê và hỏi nó:
- Mu-rát con ơi! Ngài trung sĩ ơi! Xin ngài cho biết ngài đang muốn gì?
- Các người phải bầu ta làm trưởng thôn! – nó bảo.
Cái thằng trâng tráo quá thể! Bầu nó làm trưởng thôn để làm nhục cả làng hay sao?
Chúng tôi từ chối khiến nó nổi đoá:
- Nếu các người không muốn ta làm trưởng thôn, thì phải mời ta ra làm thày Cả!
Lạy thánh Ala, thế này vẫn còn chưa đủ hay sao? Làm sao chúng tôi còn có thể cầu kinh được trong nhà nguyện nếu có một thằng vô thần hành đạo trong đó!
Còn thằng Mu-rát thì ngày càng trắng trợn. Nó thường đi chiếm đoạt phụ nữ, cướp bóc nhà cửa, ăn cắp dê cừu, đốt phá trong làng.
- Phải mời ta làm thày Cả? - Nó nhắc đi nhắc lại - Nếu không ta không để cho các người yên.
Nó không cho chúng tôi yên thật.
Chúng tôi lại tụ họp và quyết định: tốt hơn hết là chúng tôi phải thanh toán nó, chứ không phải để nó hành hạ chúng tôi.
Đêm ấy, khi Mu-rát đang ngủ, chúng tôi xông vào nhà nó, trói gô nó lại, kéo vào rừng, vác gậy quật nó thừa sống thiếu chết.
Chúng tôi vừa đánh vừa quát:
- Này trưởng thôn này? Này thầy Cả này?
Thế mà rồi không biết làm sao nó thoát tay chúng tôi! Nó vẫn sống, đồ con chó!
Nó vừa chạy vừa kêu, giọng khản đặc:
- Cũ lừa già kia, sớm muộn tao cũng làm thày Cả! Rồi chúng này sẽ thấu! - Rồi nó vừa lảo đảo, vừa chạy biến mất.
Còn chúng tôi thì quát theo:
- Cho mày làm thày Cả, cho mày làm đến Giáo chủ cũng được, miễn là không ở làng này!
Thế đấy, người anh em ạ, thế là chúng tôi thoát được cái thằng đểu cáng ấy.
Mấy tháng qua đi và chúng tôi cũng bắt đầu quên dần những chuyện Con Heo Mu-rát.
Sắp đến ngày hội Ramadan. Vào những ngày ăn chay chúng tôi đi mời thày Cả về. Thật là một con người thánh thiện! Ngay lập tức chúng tôi đem lòng yêu mến và kính trọng. Đó là con người sùng đạo nhất trong những người sùng đạo. Mỗi lời ông nói ra là một viên ngọc châu trí tuệ.
Hết đợt ăn chay chúng tôi bắt đầu thuyết phục:
- Xin thày đừng bỏ chúng tôi, thày muốn gì cũng được. Xin thày ở lại đây làm thày Cả cho làng chúng tôi!
Thày đồng ý.
Một tháng trôi qua. Một hôm có một người khách ở làng bên sang chơi. Từ làng ấy sang đây đi bộ mất độ một giờ. Đến trưa ông vào nhà nguyện để cầu kinh. Bỗng từ trong đó vang ra những tiếng kêu lớn. Chúng tôi bổ vào thì thấy ông khách đã vật ngã thày Cả của chúng tôi xuống đất và dẫm chân lên. Chúng tôi bèn cho tên khốn kiếp kia một trận nên thân!
- Làm sao mày đám đánh một con người thánh thiện như thế - Chúng tôi nổi giận.
- Thánh thiện gì nó?! - Ông khách gay gắt trả lời. Đã bao nhiêu năm cái thằng vô đạo này báng bổ chúng ta, nó trí trá để râu dài lừa đối các ông, tự xưng là thầy Cả đấy chứ. Tôi mà lại không biết nó hay sao? Năm ngoái nó cướp vợ tôi, mang vào rừng hú hí suốt một tuần lễ! Bỏ tay tôi ra! Tôi phải giết nó, thằng đê tiện!
Chúng tôi đánh ông khách một trận rồi thả ra. Còn cả làng thì rối rít xin lỗi thầy Cả.
Ít hôm sau từ làng bên lại có anh nông dân sang bên chúng tôi. Vừa trông thấy thầy Cả, anh ta vác gậy đóng đinh chuyên dùng để xua lừa chạy đuổi theo thày. Chúng tôi phải ngăn mãi mới cứu được thày khốn khổ.
- Thả tôi ra! - Anh nông dân kêu lên. - Để tôi cho nó chết. Nó ăn cắp của tôi một đàn cừu bán ra thành phố. Thằng chó con này sinh ra ở làng chúng tôi, cả làng biết nó là thằng khốn kiếp. Thế mà bây giờ nó lại để râu để ria giả dạng thày Cả.
Người anh em ơi, nông dân chúng ta là những người tăm tối. Họ không cần biết rằng có những con người giống nhau như hai giọt nước, bởi vì thánh Ala tạo ra con người từng cặp một. Cuối cùng chúng tôi phải giấu biệt đi con người thánh thiện khổ hạnh kia, kẻo những người làng bên giết chết mất.
Thế đấy, người anh em ạ, khổ cực thay một người tốt bụng mà hình thức lại giống hệt một người khác.
Một buổi sáng có những tiếng kêu man dại làm chúng tôi choàng dậy. Nhìn ra thì thấy những người làng bên phóng ngựa, vung roi.
- Hoặc là các người nộp ngay cho chúng ta tên Chó Sói Mác-mút, hoặc là chúng ta phải tuyên chiến với các người! - Họ kêu lên như vậy.
- Chó Sói Mác-mút của các người là ai vậy? - Chúng tôi hỏi.
- Là cái thằng khốn kiếp mà các người mời làm thầy Cả.
- Gượm đã, - chúng tôi đề nghị, - chúng ta nói chuyện đàng hoàng với nhau xem sao!
Nhưng bọn người ngựa ấy đã vây kín làng. Rõ ràng là họ sợ thày Cả của chúng tôi chuồn mất. Họ bèn chọn một số sứ giả của họ, chúng tôi cũng chọn những người già làng của chúng tôi. Cuộc hội đàm bắt đầu.
Chúng tôi nói với các sứ giả của họ:
- Các bạn thân mến! Các bạn có thể đốt trụi và san bàng làng xóm chúng tôi, nhưng dù chỉ còn một người sống sót, chúng tôi cũng không bao giờ giao nộp thầy Cả. Chắc là có một sự nhầm lẫn gì đây. Các bạn đã lẫn một con người thánh thiện với một kẻ tên là Chó Sói Mác-mút. Thường vẫn có những con người giống nhau. Nhưng giao nộp thày Cả để các bạn trừng trị người ta thì đó là một tội ác tày đình! Lạy trời cứu vớt chúng con! Trong thời đại ngày nay những người ngoan đạo, tòng thiện như thế thì đốt được ban ngày cũng không tìm thấy. Cả thế giới tội lỗi của chúng ta đang đè nặng trên những tâm hồn thiện đức như vậy.
Một trong những sứ giả kia trả lời:
- Các người chưa bao giờ được thấy những người ngoan đạo thực sự. Như thầy Cả Mu-rát của chúng tôi chẳng hạn, đó mới thật là một con người toàn thiện. Mỗi lời thày nói là một triết ngôn. Râu thày dài đến thắt lưng, mỗi bước thày đi, thày đều cầu nguyện và tế lễ. Nếu trên đời này chỉ có một vị thánh sống thì người ấy chính là Mu-rát.
- Khoan đã, khoan đã. - Chúng tôi nói. – Các bạn đang nói về Mu-rát nào vậy? Có phải Con Heo Mu-rát của chúng tôi không? Đôi mắt anh ta mầu xanh chứ gì?
- Đúng rồi.
- Bàn tay trái không có ngón út?
- Hoàn toàn đúng.
- Ở chân mũi có một nốt cơm?
- Đúng thế.
Đến đây thì bà con chúng tôi kêu lên:
- Chúng ta còn đứng đây làm gì hỡi những người ngoan đạo?! Chúng ta còn chờ gì nữa? Chúng ta hãy đi tóm cổ tên đại bịp! Con chó ghẻ phải chết! Thế có nghĩa là hắn đã chuồn sang làng bên giả danh thày Cả! Đến lượt các bạn láng giềng khuyên nhủ chúng tôi:
- Chính các người nói rằng có những con người giống nhau. Các người nhầm rồi. Mu-rát của chúng tôi là thánh thực sự.
- Cái thằng Con Heo Mu-rát mà là thánh ư?! Làm sao mà lại thế được?
Cả hai làng đã sắp rút đao, rút kiếm. Tình thế thật gay cấn. Lúc này ông chủ quán Su-cơ-rơ mới lên tiếng.
- Hãy dừng tay lại! Bây giờ thì tôi biết rồi. Thằng Con Heo Mu-rát thì để râu sang làm thày Cả làng bên, còn thằng Chó Sói Mác-mút bên ấy thì thành thày Cả làng ta. Vì sao chúng ta cứ phải cãi nhau. Mọi việc thế là tốt rồi. Họ hài lòng với Con Heo Mu-rát, còn chúng ta yêu mến Chó Sói Mác-mút. Bây giờ nếu chúng ta đánh đuổi cả hai thày Cả, chúng sẽ đi mê hoặc các làng khác. Rồi biết những thày Cả nào sẽ về làng ta sau chúng. Vậy thì thôi, ta ký với nhau hiệp ước hòa bình. Ta cứ coi như không có chuyện gì xảy ra cả. Thánh của các bạn thì các bạn thờ, thần của chúng tôi thì chúng tôi cúng, thế thôi.
Chúng tôi đem trà và cà phê ra thết các sứ giả, đem sữa chua ai-ran thết các kỵ sĩ rồi thong dong tiễn các bạn hàng xóm ra về.
Khi chia tay chúng tôi, họ vẫn không ngừng kinh ngạc: - Vậy ra chúng tôi không hiểu được thực chất Chó Sói Mác-mút?!
Đến lượt mình chúng tôi cũng ân hận:
- Làm sao chúng tôi lại có thể đuổi khỏi làng một người chí thiện như Con Heo Mu-rát? Rõ ràng là chúng ta đều nhầm lẫn hết!
Cho đến tận ngày hôm nay Mu-rát vẫn là thày Cả làng bên. Bà con bên ấy không hết lời ca ngợi. Còn chúng tôi thì cũng mừng không kể xiết vì thày Cả làng mình.
Thế đấy, người anh em ạ! Nếu con trai bạn có đi lạc đường thì cũng chớ buồn, chớ khổ. Chưa phải đã là hết. Bởi nó không thể tồi hơn thằng Con Heo Mu-rát. Bạn cứ chửi, cứ đánh. Nếu không được thì cho vào lính, không cải tà qui chính thì cho lấy vợ, nếu đến lấy vợ cũng không ổn thì cho một trận sống sở chết dở rồi đuổi đi. Ở làng bên người ta sẽ dang rộng hai tay bế ẵm lấy nó và bạn thấy đấy, nó sẽ trở thành ngoan đạo.
ĐỨC MẪN dịch