19. Nội quy cho những người bán chả rong
Nếu người ta tổ chức thăm dò dư luận xã hội toàn thế giới về những tác phẩm hài ước xuất sắc nhất của mọi thời đại và mọi dân tộc thì xem ra cho đến hôm nay tổng cộng giỏi lắm cũng chỉ năm mười cuốn. Thế nhưng cái tuyệt thế tác phẩm mà tôi giới thiệu cùng các bạn sau đây sẽ làm lu mờ tất cả những sáng tạo hài hước nổi tiếng nhất. Bạn chỉ có thể kinh ngạc mà nói rằng làm sao lại có chuyện một sáng tác thực sự vĩ đại trong lĩnh vực hài mà đến nay vẫn cứ trôi nổi đâu đâu không ai biết tới.
Tuy nhiên, có một điều không phải là bí mật đối với bất kỳ ai là dường như trên đất nước này người ta không quen đọc các loại ấn phẩm chính thống trong đó có các loại chỉ thị, công văn của tất cả các cơ quan Nhà nước và các cấp chính quyền. Chính vì vậy mà tác phẩm này, vốn là một bản nội quy, không sao đến được với quần chúng bạn đọc gần xa. Đúng vậy, thật đáng tiếc là cái tuyệt thế tác phẩm hài hước, châm biếm mà tôi sắp giới thiệu, chưa hề có ai ngó tới. Chao ôi, nếu như mình cho nó một cái tên thật kêu, in cho nó một cái bìa rực rỡ, lại thêm phần minh họa nữa, thì tôi xin đánh cuộc rằng ngay một đất nước nghèo nàn như chúng ta, nó cũng phải phát hành được hàng vạn bản. Sau đó nó sẽ còn được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới và lúc đó tất cả những người Âu, người Mỹ, dù đến nay họ chẳng quan tâm gì đến chúng ta, thậm chí chẳng hề muốn thừa nhận sự tồn tại của chúng ta, thì chỉ cần đọc tác phẩm kỳ lạ này là lập tức nói đến chúng ta ngay...
Chắc hẳn các bạn muốn biết ai là tác giả của tác phẩm vĩ đại này. Có lẽ tự mình khuếch trương cho mình là điều bất tiện, nhưng cũng phải nói rằng trong số mười một tác giả, nói đúng hơn, là mười một sáng tác gia, - bởi lẽ tuyệt tác này là công trình tập thể của mười một người - thì có một người chính là tôi đây. Vậy mà tôi cũng phải được chia xẻ một phần mười một niềm vinh quang đó.
Không ai có thể tin được rằng tôi, một nhà bác học về quang học, chẳng có quan hệ gì với lao động văn chương mà lại là tác giả chuyện cười. Ngay đến chính tôi cũng phải ngạc nhiên làm sao lại có chuyện như vậy. Nhưng ở đây cũng phải nói rằng ngay cả mười ông bạn đồng nghiệp của tôi cũng hoàn toàn không phải nhà văn. Song chuyện đời xảy ra là chính chúng tôi chứ không phải ai khác lại trở thành nhà văn, mặc dù chúng tôi không nói được vài chữ cho ra hồn, không viết nổi một bức thư gãy gọn. Thế nhưng, chúng tôi đã ngồi xúm lại với nhau và đã dựng một tuyệt thế tác phẩm. Nói thế để biết thế nào là trí tuệ tập thể, nó có thể làm nên tất cả, dù là truyện hài?...
Tôi đã học tập ở Đức bốn năm, sau đó sang Mỹ và trở thành kỹ sư quang học. Quang học là một khoa học hết sức rộng rãi, còn kỹ thuật quang học là thứ kỹ thuật đa ngành. Tôi được chuyên môn hóa trong lĩnh vực tính toán khoảng cách tiêu cự kính ảnh.
Trên toàn thế giới loại tính toán này chỉ có vẻn vẹn tám người nghiên cứu. Đầu tiên tôi cũng chẳng có ý niệm gì về sự tồn tại của loại hình khoa học này trong quang học.
Từ hồi còn nhỏ tôi cứ lẫn hai chữ ''ốp-tích'' nghĩa là quang học với hai chữ ''tô-pích'' - là một món ăn ác-mê-ni - và tôi cứ bị mọi người cười nhạo. Nhưng sau đó các thày tôi nhận thấy rằng tôi có năng khiếu không tồi trong lĩnh vực quang học này. Và thế là tôi đã trở thành một trong tám chuyên gia ngành đó. Trong tám người thì tôi là trẻ nhất. Ngay sát trên tôi là ông bạn đồng nghiệp sáu mươi tám tuổi, ông ta hơn tôi bốn mươi chín tuổi. Vì vậy trong thế giới khoa học người ta không thể không gọi tôi là ''ốp-ti-man'', nghĩa là nhà quang học đầy triển vọng, và tôi tự hào với cái tên đó bởi vì nó mang lại vinh quang cho cả dân tộc. Những công trình nghiên cứu của tôi đã hai lần được huy chương vàng. Các tác phẩm của tôi đã trở thành sách giáo khoa trong các trường kỹ thuật. Tôi làm công tác giảng dạy và kiếm được ba ngàn đô la mỗi tháng.
Nếu các bạn không hiểu được tính toán khoảng cách tiêu cự của kính ảnh là gì thì tôi xin giải thích đôi điều: chúng tôi nghiên cứu kính ảnh là để làm ra kính viễn vọng nhằm phát hiện những ánh sáng tinh cầu, mắt thường không thấy được, ở xa chúng ta hàng bao nhiêu triệu năm ánh sáng.
Sau khi được ăn học ở Châu Âu, Châu Mỹ tôi đã dự một kỳ thi tuyển quốc gia, nhưng chính phủ đã yêu cầu tôi trở về Thổ Nhĩ Kỳ, nói là phải qua một thời kỳ ''phục vụ bắt buộc''. Chắc hẳn, cái thế giới khoa học nơi tôi công tác, trường đại học nơi tôi giảng dạy, chẳng ai muốn tôi rời bỏ. Thậm chí mọi người còn dự định bỏ tiền ra nộp cho chính phủ tôi để giải thoát cho tôi khỏi việc ''phục vụ bắt buộc''.
''Con ơi, nếu con là máu của máu cha, thịt của thịt cha thì ngay lập tức con phải trở về quê hương phục vụ cho Tổ quốc thân yêu. Nhân dân nghèo khổ của chúng ta sẽ cho cơm con ăn, cho áo con mặc, sẽ làm cho con nên người. Còn con giờ đây không muốn trả nợ giang sơn lúc giang sơn kêu gọi, con đang trốn tránh những nghĩa vụ ái quốc của mình. Không đâu, nếu con còn là con cha thì con đừng hành động một cách bội bạc như vậy!...
Bức thư sau đó ông lại viết: ''Cái đồng lương hưu chết tiệt của cha, cái tình phụ tử chết tiệt của cha?... Vân vân và vân vân.''
Tôi đã cố gắng viết một bức thư dài ơi là dài để giải thích cho bố tôi rằng tôi vẫn có thể có ích cho Tổ quốc dù tôi ở phương xa, bởi vì tôi không thể sử dụng tri thức của mình trên đất mẹ được.
Để trả lời, cha tôi đã viết hai trang đầy đặc những lời mắng chửi và kết thúc bằng câu: “Mày là con của con lừa... Một đứa bội bạc như mày không thề là con tao được...''
Ngay lập tức tôi viết thư cho một người bạn tôi ở Stambun, hy vọng rằng anh ta giúp tôi giải quyết mọi nỗi băn khoăn và tìm được cách ứng xử đúng đắn. “Cậu cần cho Tổ quốc, chứ không phải cho nước Mỹ. Khi biết được tấm lòng ái quốc của cậu thì thật tâm mà nói, tớ ngạc nhiên vì bức thư của cậu'', - đó là bức thư của anh bạn.
Tôi hoàn toàn rối trí khi thư của mẹ tôi bay tới: “Con yêu ơi, bệnh liệt đã quật đổ cha con rồi, nửa người bên phải đã mất. Cha vẫn nằm mơ thấy con...''
Bây giờ thì còn gì là tinh tú, là thấu kính, là quang học, - tôi chẳng cần gì những thứ đó! Tôi cảm thấy mình có sức mạnh phi thường. Giống như thần At-lăng, tôi sẵn sàng vác trên lưng toàn thể vũ trụ. Tôi trộm nghĩ: tôi sẽ ôm lấy nước Thổ thân yêu của tôi, tôi sẽ nâng nó lên cao như nâng quả tạ. Và với đôi tay này tôi sẽ đưa Tổ quốc tôi tới các vì sao!...
Suốt hai tháng liền quan chức các bộ ngành phải giải quyết xem tôi sẽ thi thố tài năng ở đâu thì hơn. Tôi đã làm họ chắn ngắt vì những yêu cầu của tôi, đến nỗi một người trong số họ bảo tôi:
- Con ơi, chúng ta nghĩ rằng... anh là một nhà khoa học đáng để chúng ta tìm việc cho anh. Nhưng hiểu không, anh không cần phải đi lại suốt ngày quấy quả chúng ta như thế! Lúc anh ra đi anh đâu cóhỏi ý kiến ta xem anh nên học ngành nào. Tự anh ra đi rồi tự anh trở thành chuyên gia kính viễn vọng. Không phải là ta khuyên anh làm cái nghề viển vông như thế. Còn bây giờ anh thử nói xem chúng ta phải làm gì đây? Anh bắt chúng ta xây dựng nhà máy sản xuất kính viễn vọng hay sao? Thánh Ala ơi là thánh Ala! Cứ điên cả đầu lên. Hồi ấy anh có thể học nghề bác sĩ, nghề hóa, học nghề kỹ sư, thiếu gì nghề trên đời này Ma quỷ nào xui anh làm cái nghề chuyên gia viễn vọng này vậy?...
Tôi bực bội đến nỗi chỉ có thể lầu bầu:
- Ông nói đúng quá rồi còn gì...
Lúc tiễn tôi về ông ta bảo:
- Bao giờ tìm được công việc thích hợp chúng ta sẽ viết thư báo.
Đúng lúc ấy thì bố tôi lại dàn xếp:
- Cha đang sống những ngày cuối đời, cha muốn được vui với các cháu, vậy cha sẽ lấy vợ cho con, xong việc đó thì cha nhắm mắt cũng được.
- Nhưng con vẫn đang thất nghiệp, con chẳng có một xu nào dính túi, - tôi trả lời.
Nhưng ông già lại bảo:
- Con đã ăn học ở Mỹ về, con gái muốn lấy được chồng như con thì xếp hàng chán vạn, lo gì...
Thế là các cụ chọn cho tôi một cô trong cái đống xếp hàng ấy và gần như cưỡng bức tôi phải cưới. Cả nhà tôi sống bằng đồng lương hư ''của ông bố khổ sở. Vợ tôi không bắt mọi người chờ lâu, thoắt một phát - xong việc - nàng đã có chửa!
Cuối cùng tôi cũng được điều động vào một xí nghiệp ngành dệt quốc doanh. Tôi đã thử hé răng về chuyện tôi không hiểu biết gì về vải vóc kim chỉ. Nhưng mọi người lại bảo:
- Dẫu sao thì anh cũng là chuyên gia, là kỹ sư, còn hơn chán những người ở đây...
Tôi bắt tay vào việc và thấy rằng với đồng lương như thế thì không thể nào sống được. Tôi nghĩ bụng: thôi được, tôi sẽ đến cái anh bạn mà có hồi đã viết cho tôi: ''Cậu cần cho Tổ quốc, chứ không phải cho nước Mỹ''. Lúc này anh ta đã là tham tán thị chính.
- Cậu ơi, nghe tôi nói đây. Tớ đã nghe lời cậu, trở về Tổ quốc. Thế là bây giờ đến tiền nhà tớ cũng không có mà trả, - chủ nhà đang đâm đơn kiện. Tớ sẽ phải quay về Mỹ!...
- Không được, anh bạn tham tán thị chính của tôi đáp, cậu phải mang lợi về cho đất nước.
- Tớ có chối từ đâu, đất nước cứ sử dụng tớ đi! Tớ vẫn đây, đất nước vẫn đây, nào!
- Thôi được, cậu phải chịu khó chờ đợi một chút, tớ sẽ tìm được cho cậu một việc ra tiền.
Quả nhiên ba ngày sau anh bạn gọi điện cho tôi:
- Tớ đã tìm được chỗ cho cậu, đầu tháng tới cậu có thể bắt đầu được.
- Việc gì vậy? - Tôi hỏi.
- Tất nhiên, việc này không thật sự đúng với chuyên môn của cậu, nhưng cậu sẽ có nhiều tiền. Cậu biết không, ở tòa thị chính chúng tớ có phòng nghĩa trang và có phòng môi trường, hiện nay còn hai chỗ trống, tuỳ cậu chọn bên nào cũng được!
- Thôi, cậu đừng có đùa nữa...
- Tớ không đùa đâu, - bạn tôi đáp. - Xin nói thêm rằng bên phòng nghĩa trang thì công việc nhàn hơn.
Xí nghiệp dệt với phòng nghĩa trang thì đằng nào tôi cũng chẳng biết mô tê gì, tốt nhất là mình làm nghĩa trang, - tôi nghĩ bụng thế.
Nơi làm việc của trưởng phòng nghĩa trang trong tòa thị chính được trang hoàng cẩn thận: một tủ đứng kiểu cổ, một bàn, hai giá đựng báo và ba ghế sa lông. Sáng nào tôi cũng tới ngồi đó không hề đứng dậy, thậm chí không nghỉ ăn trưa, mà ở đây làm gì có bữa ăn trưa.
Khi người ta đưa cho tôi khoản lương đầu tiên, tôi sững sờ bực bội đến nỗi phải chạy ngay đến ông bạn:
- Này, hồi ở xưởng dệt tớ được lĩnh một ngàn lia thì cũng không đến nỗi giật gấu vá vai, bây giờ được có tám trăm lia thì làm gì được?
- Cậu đừng nhìn vào bảng lương làm gì, - anh bạn thân tán trả lời, - nó chỉ có tính tượng trưng thôi. Bao giờ người ta bổ nhiệm cậu vào uỷ viên hội đồng, lúc đó cậu mới ăn to.
- Cậu nói hội đồng là gì vậy? - Tôi hỏi.
- Có thể chúng tớ sẽ cần đến những suy nghĩ của cậu về cái lĩnh vực mà cậu là chuyên gia.
“Cuối cùng thì tôi đã là người có ích cho Tổ quốc!”, tôi vui sướng không để đâu hết.
Một buổi sáng tôi thấy trên bàn mình có một tờ giấy đánh máy do thị trưởng ký. Có thể đó là bản lót thứ tám hay thứ chín gì đó, vif tôi không thể nào nhìn ra các chữ cái nữa - tôi phải đi hỏi và được biết rằng tôi được bổ nhiệm làm uỷ viên hội đồng. Có mười một viên chức tòa thị chính phải chuẩn bị bản nội quy ddặc biệt cho những người bán chả rong''!
Mười một thành viên hội đồng có nhiệm vụ soạn thảo ''Nội quy đặc biệt cho những người bán chả rong'' cứ thứ sáu hàng tuần phải tập trung trong tòa thị chính tại một phòng dành riêng cho những cuộc họp đó. Đúng chín giờ kém năm tôi đã hiện diện tại đó. Chín giờ, chín rưỡi, mười giờ - không một bóng người! Mười một giờ kém mười mới có thêm một uỷ viên nữa. Chúng tôi làm quen nhau, hóa ra về chuyên môn ông ta là thầy thuốc, nhưng làm tại phòng cung ứng của thị chính.
Tôi bảo ông ta:
- Thú thật, việc soạn thảo nội quy cho bọn bán chả rong là thuộc thẩm quyền của các ông, còn tôi là kỹ sư quang học, thậm chí tôi cũng không hình dung được là cái đó có quan hệ gì với tôi.
- Xin lỗi anh, vậy thì tôi có quan hệ gì với bọn bán chả rong? - Ông đốc-tờ chạm nọc.
- Dù sao thì ông cũng là bác sĩ, thế nào đi nữa ông cũng có ích trong việc soạn thảo một bản nội quy như vậy.
- Nhưng tôi là bác sĩ chỉnh hình? - Ông ta phản đối - Theo anh, một bác sĩ chuyên trị gãy xương, sai khớp thì quan hệ gì với bán chả rong?
Bây giờ đến lượt tôi lên cơn bực. Tuy nhiên đúng lúc này xuất hiện ngay ba thành viên hội đồng nữa, và chúng tôi được làm quen với nhau, thứ nhất là ông đại tá về hưu phụ trách nhân sự phòng cây xanh công viên tòa thị chính, thứ hai là họa sĩ trang trí trong phòng nhân sự tòa thị chính, nơi anh ta được lương hậu hĩnh, và cuối cùng là ông cán bộ phòng kỹ thuật, ông này trước đây đã mười năm làm nghề chữa răng.
- Tôi không tài nào hiểu được, - tôi quay sang phía anh chàng trang trí, - tôi sẽ đóng vai trò gì trong việc chuẩn bị bản nội quy cho những người đi nướng chả bán rong, nếu bây giờ tôi làm ở phòng nghĩa trang, còn nghề chính của tôi lại là kỹ sư quang học?
- Chắc hẳn đây là lần đầu tiên anh tham gia hội đồng chứ gì? - Chàng trang trí cười mỉm.
- Hoàn toàn đúng, lần đầu tiên.
- Tôi thì may mắn là lần thứ hai. Đầu tiên cứ ngỡ là không làm nổi. Sau đó mới vỡ ra rằng làm được hết. Thí dụ, trước đây tôi phải là uỷ viên hội đồng soạn thảo bản ''Nội quy đưa gia súc đóng móng qua thành phố và cho chúng sử dụng đường xá” mọi chuyện đều tốt đẹp cả. Các ông đừng ngại.
Đến mười một giờ tất cả mọi uỷ viên hội đồng đã tề tựu đầy đủ. Tôi ngồi giữa ông thú y và anh họa sĩ.
- Nhiệm vụ này hoàn toàn không phù hợp với chuyên môn của tôi, - tôi nói với ông thú y bên trái.
- Những công việc thế này đòi hỏi có nhiều kiến thức chung, - ông đáp. - Chúng tôi đã làm nhiều nội quy, tất cả đều có hiệu lực mà không phải sửa chữa gì cả.
- Chẳng lẽ đúng thế? - Tôi hết sức kinh ngạc. Tôi hỏi thế không phải là có ý nghi ngờ ông bạn láng giềng, nhưng ông ấy nói ngay một trận lôi đình.
- Anh hỏi đúng thế nghĩa là thế nào?! Ông thú y quát lên. Tôi và các ông đồng nghiệp ngồi đây, tất cả chúng tôi đều là những chuyên gia ngành mình. Chẳng lẽ anh nghĩ rằng chúng tôi không làm nổi một bản nội quy cho bọn bán chả rong hay sao?
Tôi im lặng vì không muốn tham gia vào cuộc tranh luận với ông thú y cục tính.
Đúng lúc này ông đại tá về hưu ngồi trước mặt tôi lên tiếng:
- Kính thưa các bạn đồng nghiệp! Tôi hy vọng rằng các bạn sẽ không phản đối nếu như theo truyền thống tôi xin đề nghị chúng ta bầu ngài A-tứp kính mến làm chủ tịch hội đồng.
Theo tôi được biết ngài A-tứp đã hai mươi mốt năm làm viên chức tòa thị chính và giờ đây, theo lời ông ta, thì ông ta đang chỉ đạo một ban trong phòng môi trường và cảnh quan đường phố.
Một ông thày giáo triết học cổ đại, hiện nay giữ một chân trong ban cấp thoát nước, không hiểu tại sao cứ quay sang tôi, tựa hồ ngoài tôi ra trong phòng không còn ai cả:
- Anh không có điều gì phản đối đấy chứ?
- Có gì đâu, thưa ông, - tôi vội vã đáp. - Tôi là kỹ sư quang học, tôi ở phòng nghĩa trang, tôi còn biết phản đối gì nữa?
- Thế có nghĩa là anh có phản đối việc bầu ông A-tứp làm chủ tịch...
- Ông nói gì vậy, thưa ông? - Tôi kêu lên. - Chẳng lẽ tôi đang quyết định một điều gì ở đây hay sao?
- Dẫu sao thì anh cũng là người mới....
- Tôi rất ủng hộ là khác - Tôi vui sướng nói tiếp. Ông A-tứp hay là ai khác tôi cũng hoàn toàn ủng hộ.
- Thưa các vị! - Ông A-tứp hướng về mọi người. - Như chúng ta đã biết (nhưng riêng tôi thì hoàn toàn không biết chuyện gì!), theo quyết định của tòa thị chính thì hoạt động bán chả rong trong phạm vi thành phố đã bị cấm từ lâu rồi. Tuy nhiên, vì thiếu cán bộ cảnh sát, cũng như vì sự mở rộng quá nhanh chóng địa giới thành phố, kèm theo đó là việc không thực hiện được quản lý nghiêm túc và như thế tức là có sự thất nghiệp tăng lên, cho nên số lượng những người bán chả rong trên các đường phố cũng tăng lên từng ngày khiến cản trở giao thông, mà chúng ta thì hoàn toàn không thể chống lại họ được. Xuất phát từ đó ngài thị trưởng đã cho gọi kẻ công bộc này tới gặp và truyền rằng: ''Theo những số liệu mà tôi đã kiểm tra thì tòa thị chính chúng ta không đủ sức đấu tranh với bọn bán chả rong, bọn chúng vẫn cứ vi phạm lệnh cấm của chúng ta. Vì thế bằng mọi giá chúng ta phải ngăn chặn ngay những hoạt động ngoài vòng kiểm soát, phải lập lại hệ thống kiểm tra vệ sinh và các mặt khác, phải quy định lại những nguyên tắc kinh doanh trên đường phố, vân vân và vân vân. Xuất phát từ những tư tưởng trên, tôi chỉ thị cho các anh phải lập ra một bản nội quy phù hợp''. Chính vì thế, thưa các quý ngài, chúng ta tập hợp nhau tại đây để soạn thảo ra một bản nội quy như vậy.
Ngài A-tứp nói cứ như là đọc một văn kiện chính thống, ông dằn giọng từng chữ, đánh dấu chấm dấu phẩy đàng hoàng, ông dùng giọng đều đều để nói những câu dài mà ý nghĩa của chúng đôi khi không tài nào hiểu được.
- Tôi cho rằng vấn đề đã rõ rồi đấy! Tuy nhiên chúng ta phải vận hành nó thật đúng mức, - người nói là kỹ sư lâm nghiệp, nay là quan chức phòng thuế.
Tôi không hiểu thế nào là ''vận hành'', vì thế tôi quay sang họa sĩ bên cạnh, người đã chuyển sang làm quan chức phòng y tế.
- Xin lỗi ông, chúng ta phải vận hành nó thế nào?
- Như thế có nghĩa là, - ông ta mỉm cười đáp, - chúng ta phải làm các việc a, b, c, d về vấn đề bán chả rong ngoài phố.
Thấy vẻ ngơ ngác của tội, họa sĩ giải thích:
- Thế nào, anh hiểu không, chúng ta sẽ ngồi và tán chuyện ba hoa với nhau về việc bán chả rong. Mỗi người sẽ nói về cách hiểu vấn đề của mình, sau đó tổng hợp mọi ý kiến để viết ra bản nội quy. Kính thưa các vị! - ông họa sĩ nói với mọi người, - tôi nghĩ rằng vấn đề đã rõ rồi đấy.
Bấy giờ chủ toạ A-tứp nhìn đồng hồ và nói:
- Tôi cho rằng cần thiết phải tuyên bố nghỉ ăn trưa để chúng ta tiếp tục thảo luận vấn đề này vào phiên họp chiều.
Đại tá về hưu, đại diện phòng cây xanh công viên, vui vẻ reo lên:
- Đồng ý!- Rồi ông xô ghế đứng dậy.
Ông A-tứp nói với theo những người đang vội vã ra cửa:
- Thưa các vị! Phiên họp chiều của chúng ta sẽ bắt đầu vào lúc ba giờ, tức là mười lăm giờ không phút không giây!
- Nếu tôi có chậm một phút thì cũng không có gì đáng sợ, - bác sĩ chỉnh hình làm ở phòng cung ứng đáp lại. Tôi xin nói trước là tôi đồng ý mọi quyết định mà các bạn đồng nghiệp thông qua, tôi sẽ rất cố gắng để đến họp đúng giờ.
Các uỷ viên hội đồng trao đổi thêm vài câu vui vẻ rồi giải tán. Tôi đi theo họ mà trong lòng chĩu nặng u hoài.
Sau bữa trưa, khoảng bốn giờ thì hội đồng lại nhóm họp, lưa thưa mấy người.
- Thưa các vị! - Ông A-tứp bắt đầu. - Những hành động không tuân thủ quy định của những người bán chả rong là một bức tranh khả ố phản vệ sinh, phản y tế. Xuất phát từ đó, điều hết sức cấp bách là phải áp đặt một trật tự cần thiết cho các hàng chả rong bằng cách xây đựng một bản nội quy thị chính.
Họa sĩ trang trí, đại diện phòng nhân sự chêm vào:
- Bản nội quy này lẽ ra chúng ta phải làm từ lâu lắm rồi, có lẽ bây giờ đã là hơi muộn...
- Anh bạn thân mến, anh nói chí phải, - đại tá về hưu đại diện phòng cây xanh công viên không cho anh nói hết. - Tuy nhiên tôi cho rằng chúng ta đã bỏ qua, thưa các vị, một chi tiết có tầm quan trọng lớn lao.
Tôi thấy thích cách vào vấn đề như vậy, thậm chí còn thấy có cảm tình với ông đại tá, nên rất chăm chú lắng nghe. Ông đại tá về hưu ho mấy tiếng rõ to trấn an mọi người rồi tiếp tục:
- Một điều hoàn toàn tự nhiên là lẽ ra từ lâu lắm chúng ta đã phải cho ra mắt bản nội quy này và hàng loạt các bản nội quy tương tự. Tuy nhiên, cho phép tôi nhận xét rằng để giải quyết những vấn đề này trong cấp độ đương đại, tức là ở cấp độ của nền văn minh phương tây đương thời thì trước hết chúng ta cần đào tạo trong nước ta những cán bộ trí thức của chính mình. Thưa các vị, đào tạo cán bộ không phải dễ. Xin lấy thí dụ là chính các vị đồng nghiệp của tôi ngồi đây, mỗi người chúng ta đều đã học một ngành chuyên môn tại châu Âu, hoặc châu Mỹ. Hoặc giả, xin lỗi các vị, thí dụ như kẻ công bộc này của các vị cũng đã từng là trợ lý tùy viên quân sự ở Bát-đa. Mười năm trước đây các vị có giỏi mấy cũng không tập trung được mười nhà trí thức có học vấn đến thế này để chuẩn bị một bản nội quy như thế kia. Đúng vậy, nếu so sánh với quá khứ thì đất nước ta, thưa các vị, đã tiến một bước xa về phía trước!...
- Không còn nghi ngờ gì nữa - Ông thú y đại diện phòng văn thư ấn loát kêu lên, rồi ông quay sang tôi, thấy tôi định nói hoặc định phản đối gì đó, ông nói thêm, giọng đe đọa: - Anh cũng đồng ý kiến như thế chứ gì?
Vì bối rối, hoặc cũng vì không hiểu ông hỏi điều gì, nên tôi rụt rè hỏi lại:
- Ông định nói gì vậy?
- Tôi định nói là, - ông thú y bảo, - tôi định hỏi ý kiến anh. Anh có cho rằng đất nước ta đã tiến một bước dài về phía trước so với quá khứ hay không?
- Chao ôi, còn thế nào nữa? Tất nhiên là dài! Rất dài nữa là khác!
- Kính thưa các vị! Xe bánh sắt ngựa kéo đã đi vào dĩ vãng, - ông đại tá tiếp tục. - Bây giờ ở Xtam-bun tàu điện đã nhường chỗ cho xe điện bánh hơi vun vút...
Đúng lúc này xuất hiện nhà chỉnh hình, ông vội vã cởi áo khoác, vừa ngồi xuống vừa hỏi:
- Xin lỗi, tôi bị bận nên đến muộn. Những vấn đề chính các vị đã bàn chưa đấy?
- Bây giờ mới bắt đầu thảo luận. - Kỹ sư lâm nghiệp, quan chức ngành thuế lên tiếng.
- Như vậy là, thưa các vị, - ông A-tứp lại bắt đầu, - vấn đề đã rõ. Bây giờ...
- Xin một phút! - Ông thú y ngắt lời. - Xin ông cho phép, còn một điều nữa không kém phần quan trọng... Tôi cho rằng, cho đến nay chúng ta vẫn chưa nghiên cứu kỹ lưỡng vấn đề bán chả rong, và, tiếc thay, nói chung chúng ta mới gặp phải vấn đề này lần đầu tiên tại đây, trong phiên họp này của hội đồng. Người ta đang chờ đợi chúng ta soạn thảo bản nội quy cho những người đi bán chả rong. Thưa các vị đồng sự kính mến, tôi xin được nhận xét rằng đây là công việc hoàn toàn không dễ. Tôi sẽ không lầm khi nói rằng đề tài này chúng ta chưa quen, và về phần mình tôi phải thừa nhận rằng tôi chưa hề nghiên cứu vấn đề bán chả rong từ góc độ khoa học. Tôi không giấu diếm rằng tôi cũng có vốn tri thức hết sức tham viễn về nghề nướng chả trong nhà hàng, nhưng nghề kinh doanh chả rong là một hoạt động hoàn toàn khác...
Có lẽ ông ta không quan tâm đến ý kiến của một ai khác ngoài tôi, vì vậy ông bỗng hướng về phía tôi:
- Phải thế không, anh bạn đồng nghiệp đáng kính?
- Chắc là phải vậy đấy... - bị hỏi bất ngờ, tôi nói ào ào.
- Xuất phát từ đó, - ông thú y tiếp tục, - phải làm sao mỗi người chúng ta tự chuẩn bị cho vấn đề này. Ngay một lúc, đùng lột cái không thể thảo ra được một bản nội quy như vậy. Vì thế tôi đề nghị các ngài hãy dừng lại các cuộc thảo luận không mang tính chuyên luôn này. Tất cả những gì chúng ta chợt nghĩ ra sẽ chỉ là những ý kiến tham khảo mà thôi.
- Chúng ta đã đụng chạm đến một vấn đề rất quan trọng, - ông kỹ sư lâm nghiệp tham gia, - xin thánh Ala chứng giám, thật lòng mà nói, tất cả chúng ta trong lĩnh vực này đều là những kẻ ngoại đạo.
- Ông hơn tôi nhiều tuổi, - ông chỉnh hình nói với ông thú y, - tức là, tôi muốn nói rằng ông tham gia các hội đồng sớm hơn tôi nhiều. Nhưng xin hỏi ông, thế nào là ý kiến tham khảo? Thôi, thế là đủ rồi, các ngài ạ? Chính vì người ta đang chờ chúng ta soạn thảo nội quy, cho nên trước khi đi họp chúng ta đã phải nghiên cứu vấn đề này rồi.
- Tôi cho rằng, - ông chủ toạ A-tứp lên tiếng, - lúc này vấn đề đã khá định hình và đã rõ hơn rồi. Vì vậy lần họp sau chúng ta phải chuẩn bị kỹ lưỡng hơn nữa.
- Một tư tưởng rất chính xác, phải không các vị? Chúng ta phải cày xới các lại tài liệu.
- Vậy là, - ông A-tứp tiếp tục, - hôm nay là thứ Sáu, mai là thứ Bảy. Thứ Bảy thực ra chúng ta chỉ làm việc nửa ngày, sau đó đã là chủ nhật. Thưa các vị, đến thứ Hai xin các vị chuẩn bị đặc biệt kỹ để có những ý kiến xác đáng về vấn đề này, đến thứ Hai, sau bữa trưa, hồi bốn giờ... Vâng, tức là mười sáu giờ không phút không giây chúng ta lại gặp nhau ở đây.
Sau đó ông A-tứp viết mấy dòng thật nắn nót và thật đẹp như viết trên bìa một tuyển tập văn học: ''Chúng tôi những người ký tên dưới đây, mười một chuyên gia, uỷ viên hội đồng thị chính được thành lập để soạn thảo bản nội quy chuyên nghiệp cho những người bán chả rong, gồm có... họp ngày... tháng... năm... sau khi đã thảo luận chúng tôi đi đến kết luận như sau...”
Chúng tôi cùng ký tên dưới văn bản rồi giải tán; Đếm ấy tôi ngủ chập chờn. Rồi tôi mơ thấy những cơn ác mộng tựa hồ tôi rơi vào một cái bẫy và không tài nào thoát ra được. Tôi tỉnh dậy toát mồ hôi lạnh và nghĩ ngay đến việc phải tự chuẩn bị, phải nghiên cứu vấn đề bán chả rong. Sáng hôm sau tôi lập tức tìm đến nhà anh bạn tham tán thị chính.
Cậu ơi, nghe tớ nói đây này, - tôi bảo anh ta, - cái việc này không hợp với tạng tớ, cậu cho tớ nghỉ đi, tớ không kham nổi đâu...
- Sao lại thế? - Anh ta cười hỏi.
- Là bởi vì, - tôi nói, - trong đời chưa bao giờ tớ nghiên cứu vấn đề bán chả rong, và tớ cũng chẳng có tí kiến thức nào về chuyện đó. Thậm chí tớ cũng chưa bao giờ ăn chả bán rong cả. Vậy làm sao tớ soạn thảo được nội quy cho họ? Tớ thì chỉ có thể giúp tòa thị chính soạn ra những hướng dẫn về ống ngắm, kính mắt, kính viễn vọng. Thú thật là cái món chả rong tớ không tiêu hóa được đâu...
- Cậu cứ làm cho vấn đề thêm phức tạp ra thế chứ, - bạn tôi phản đối. - Dù thế nào đi nữa thì thị chính chúng mình cũng phải thảo ra được nội quy. Chắc chắn nó phải do chuyên gia làm ra. Hay là cậu nghĩ rằng những nhiệm vụ ấy có thể giao cho bất kỳ ai? Tất nhiên là không! Phải đặt nhiệm vụ này lên vai những chuyên gia uyên bác thì mới có thể có được những ý kiến chất lượng...
- Cậu đã nói thế thì thôi, - tôi đáp, - nhưng cậu cũng biết rằng ở Châu Âu và Châu Mỹ tớ chỉ nghiên cứu quang học.
- Cậu nghe này, tớ thừa biết là ở Châu Âu món chả nướng không ai người ta mang đi bán rong. Vậy theo cậu, chúng ta cử sang Châu Âu, Châu Mỹ một người để dạy cho họ cái nghề đó, hay là cậu bảo phải mời từ Âu, Mỹ về đây những chuyên gia về nghề bán rong chả nướng? Nói thật ra, chúng ta đã nhiễn phải một tói quen xấu: cứ hơi một tí là mời ngay chuyên gia nước ngoài. Tiền nong của chúng ta thì không mời cũng đã không đủ, thế mà ta cứ hay cường điệu những khó khăn lên nữa... Cậu là công dân của đất nước mình, là một người có văn hóa, cậu phải nhớ kỹ điều đó! Cậu hiểu chứ?
Không thể nói rằng bạn tôi hoàn toàn sai. Dù thế nào đi nữa thì những người soạn thảo tốt nhất vẫn là chúng tôi chứ không phải bất kỳ ai. Về đến nhà tôi vùi đầu vào sách vở, nghiên cứu từ điển Bách khoa thư và bổ sung tri thức của mình trong lĩnh vực chả nướng và người nướng.
Chiều tối chủ nhật tội bị đau bụng bởi lẽ một ngày tôi phải nghiên cứu vấn đề này: tôi đi khắp thành phố, trò chuyện với những người nướng chả lang thang, mua và ăn tất cả những gì họ làm. Họ không những bán chả nướng, mà còn bán cả thịt băm, cả bánh nhân thịt, khi bán họ đặt thịt trên một lát bánh mì hình tròn hoặc trên một chiếc đĩa nhôm, đôi khi họ gói luôn vào giấy báo. Tôi không biết họ gói vào thứ giấy báo gì, cũng không biết thứ họ rắc vào bánh là hành thái nhỏ hay là rau mùi tây. Nói chung hôm đó cái dạ dày khốn khổ của tôi được nếm trải đủ mọi loại hình sản phẩm của những người bán chả nướng rong và đến sáng hôm sau thì nó phải chịu cực hình vì lượng thông tin quá thừa.
Ngày thứ Hai, buổi chiều chúng tôi lại họp.
- Các vị đến đủ chưa nhỉ? - A-tứp hỏi.
Chúng tôi đếm số người có mặt thấy có mười người, mà soạn thảo hướng dẫn cứ là phải đủ mười một. Ông A-tứp lại điểm danh lại.
- Có lẽ thiếu ngài đại diện phòng cung ứng năng lượng?
Cựu giáo sư triết học cổ đại, nay là đại diện phòng cấp thoát nước, nhận xét:
- Ông bạn đồng sự mà ngài điểm danh đã vắng mặt từ cuộc họp trước....
- Ông bạn chúng ta không được khỏe, - bác sĩ nha khoa nói, ông là đại diện phòng tư vấn kỹ thuật. - Ông đã có bệnh án, vì thế ông không thể có mặt. Nhưng phải tìm được ông ta để ký tên vào biên bản cuộc họp, - ngài A-tứp nhăn nhó.
- Điều ấy không quan trọng, - bác sĩ chữa răng nói, - tôi sẽ ký thay ông ta.
- Không được, không được! Thưa quý vị, việc này không được phép sơ suất, bởi vì khi lập đăng bạ để chi tiền thì có thể xảy ra nghi ngờ, - ngài A-tứp phản đối và chìa ra cho ngài chữa răng xem tờ biên bản lần trước, trong đó chính ông nha sĩ đã ký thay người đồng nhiệm vắng mặt.
Kỹ sư lâm nghiệp - đại diện phòng thuế - ngồi cạnh khẽ rỉ tai tôi:
- Bao giờ cũng thế! Ngay từ đầu ông ta đã lờ lờ công việc rồi.
- Thưa ông, ông định nói ai vậy? - Tôi hỏi.
- Thì mọi người đang nói đến cái ông không đi họp ấy, - nhà lâm nghiệp đáp. - Quan này trước đây là cầu thủ bóng đá. Nhưng vì ông ấy cũng nổi tiếng nên người ta đưa vào phòng cung ứng năng lượng, anh cũng thừa biết đấy, bóng đá thì biết gì điện năng?...
- Cũng hoàn toàn giống như kẻ công bộc này của ngài trong lĩnh vực bán chả rong vậy, - tôi đáp.
- Anh bạn thân mến, nhưng dẫu sao thì anh cũng còn đi dự đầy đủ mọi phiên họp, - nhà lâm nghiệp phản đối. - Còn ông ta thì không thò mũi đến nữa.
Ông A-tứp rung chuông gọi người mang cho chúng tôi cà phê và trà. Cái dạ dày của tôi lại lên tiếng như trước, vì thế tôi xin một ly nước ga. Ông chủ tịch ghi một cái phiếu, bởi vì mọi khoản chi cho hội đồng đều do ông trực tiếp kiểm soát.
- Thưa quý vị, - ông A-tứp lên tiếng mở đầu phiên họp, - xin mời các vị có mặt hôm nay cho biết chính kiến.
- Xin phép cho tôi được báo cáo, - đại tá về hưu, đại diện phòng cây xanh công viên đề nghị.
- Xin mời ngài đại tá, - Ông A-tứp nói.
- Vấn đề bán chả rong, - ông đại tá bắt đầu, - tôi đã nghiên cứu từ góc độ kinh nghiệm và nhận thức riêng. Thưa các quý vị, lần trước, khi chúng ta soạn thảo bản ''Nội quy cho các xe ngựa'', hẳn quý vị còn nhớ, những đề xuất của tôi đã giúp dịch chuyển được sự nghiệp ra khỏi tử điểm, và lập tức chúng ta đã đạt được tiến bộ. Cũng vậy, lần này tôi xin có những đề xuất sau: Trước hết, chúng ta phải thiết lập một chế độ kỷ luật nghiêm khắc giữa những người bán chả rong. Kỷ luật là nòng cốt của trật tự. Muốn thế phải yêu cầu tòa thị chính, trước khi cấp giấy phép hành nghề bán chả nướng rong, phải đòi họ cho xem giấy tờ có chữ ký phê duyệt của Cục quân dịch xem người đó đã qua thời kỳ quân ngũ chính thức và nay được về quân dự bị hay chưa. Rồi sau đó...
- Nhưng xin cho tôi được hỏi, - anh chàng họa sĩ nay là quan chức y tế cắt ngang. - Quân ngũ chính thức - điều ấy còn hiểu được, nhưng cái văn bản khẳng định họ ở trong quân dự bị thì có ích gì cho ta? Một con số không tròn trặn. Bởi vì rằng không thể biết được khi nào người ta có thể gọi nhân vật đó đi huấn luyện lại, có người sau bốn mươi tuổi còn bị gọi, có người thì hoàn toàn không. Một người đồng bào của chúng ta phải làm gì khi anh ta muốn được đi bán rong chả nướng, nếu anh ta chưa được gọi đi huấn luyện lại, khi anh ta vẫn biên chế trong quân dự bị? Phải chờ đến lúc anh ta bốn mươi hay sao? Mà nếu anh ấy không bao giờ được gọi thì suốt đời anh ta chẳng thể nào kinh doanh được?! Như vậy là đồng bào chúng ta chẳng có ai có thể đi bán chả rong, và như thế thì rõ ràng là đối lập với cả bản Tuyên ngôn nhân quyền, cả với Hiến pháp...
Tôi rất thích lời phát biểu của anh họa sĩ, anh chàng tuyệt vời quá, nói hay quá?...
Nhưng ngay lập tức tham gia vào cuộc tranh luận là ông bác sĩ nha khoa, đại diện phòng tư vấn kỹ thuật:
- Kẻ công bộc này của các vị ngày xưa cũng đã từng là bác sĩ răng hàm mặt quân y. Nhưng tiếc thay, tôi không thể đồng tình với ý kiến của anh bạn đồng nghiệp kia được. Tuyên ngôn nhân quyền và Hiến pháp thì là cái quái gì? Hoàn toàn chẳng có quan hệ gì ở đây cả! Có cái gì là cái chung giữa Hiến Pháp với bản chả rong? Có thể là anh bạn đồng nghiệp giải thích được cho chúng ta mối quan hệ đó? Còn kẻ công bộc này thì không thấy trong Hiến pháp có chỉ dẫn gì về chuyện này cả.
- Các vị đồng nghiệp kính mến? - Anh họa sĩ đáp. - Chính tôi là sĩ quan dự bị đây. Nếu như hôm nay tôi muốn đi bán rong chả nướng thì tôi không thể thực hiện được, hóa ra chỉ vì tôi không được gọi đi tái huấn hay sao?
- Hẳn là không được rồi - Đại tá về hưu nói to.
- Không, phải được chứ! - Họa sĩ không chịu thua.
- Anh cứ thử xem! - Đại tá thách đố.
- Việc gì phải thử! - Họa sĩ không nhường nhịn.
- Tất nhiên, bây giờ thì có thể được, - nha sĩ chen vào, - nhưng khi chúng ta đã ghi vào bản nội quy thì cứ liệu chừng.
- Ông đại tá ơi, - nhà lâm nghiệp tham gia, - ông phục vụ trong quân ngũ được bao lâu rồi?
- Cái đó việc gì đến ông? - Đại tá nổi cơn bực.
- À không, tôi chỉ hỏi thế thôi...
- Hai mươi bảy năm....
- Thế ông có được gọi đi huấn luyện lại không?
- Không.
- Thưa ông đại tá kính liến. Dù vậy ông vẫn có thể được đi bán rong chả nướng.
- Bây giờ không phải bàn chuyện tôi...
- Hẳn là thế, nhưng...
- Ông nói gì, ông muốn bảo rằng tôi muốn làm nghề nướng chả rong chứ gì?
- Ông nói gì vậy, ông đại tá, thôi xin ông!
Không được, tôi yêu cầu ông trả lời!
- Ông cho phép...
- Ông không được phỉ báng tôi!
- Sao ông lại nói thế, ông đại tá...
Đến đây thì ông A-tứp tham gia vào. Ông hiểu rằng tình hình đã căng thẳng tột độ.
- Thưa các quý vị! Xin chú ý, - ông bắt đầu nói. - Bây giờ xin các vị đồng sự khác cho biết ý kiến về vấn đề này. - Ông nhìn sang tôi. - Xin ông, ông nghĩ gì về vấn đề đang được tranh luận?
- Theo tôi... - Tôi bắt đầu. (Gương mặt ông đại tá đổi sang màu xám, lông mày ông cau lại, đôi mắt nhìn cắm vào mặt tôi.) Quân dịch là một vấn đề cực kỳ quan trọng... (Ông đại tá vẫn nhìn tôi chằm chằm). Quân dịch là nghĩa vụ thiêng liêng... Quân dịch - là nghĩa vụ thiêng liêng nhất đối với Tổ quốc và Nhà nước...
- Thôi được rồi, - anh họa sĩ không thể chịu nổi, làm gì có ai chống lại quân dịch?
- Quân dịch, - tôi lại nói tiếp. - Vì vậy... luôn luôn... Theo tôi, mọi người bán chả nướng rong phải chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên... đồng thời cũng cần phải ghi vào văn bản rằng tất cả những người bán rong chả nướng phải chấp hành nghĩa vụ quân sự ngay cả khi là quân dự bị.
- Đúng rồi! - Đại ta hưởng ứng. - Có thế chứ, bây giờ thì tôi không phản đối gì nữa.
- Nllưng vừa rồi chúng ta bàn chuyện gì vậy? - chàng họa sĩ hỏi.
- Các ông... các ông đề nghị như thế là cổ suý cho việc đào ngũ, như thế thì ai chả muốn làm nghề nướng chả.
- Thưa các quý vị, cứ như tôi hiểu thì, - ông A-tứp hướng về phía mọi người, - các vị đã nhất trí với nhau rằng những người bán chả rong phải thực hiện nghĩa vụ quân sự thường trực, có phải thế không?
Tất cả mọi người cùng nhất trí dơ cao tay trả lời.
- Thưa các quý vị. - Ông A-tứp lại nói tiếp, - bây giờ đã là năm giờ hai phút, ngày mai chúng ta lại tiếp tục thảo luận, đến đây tôi xin tuyên bố kết thúc phiên họp.
Chúng tôi ký tên vào biên bản cuộc họp hôm nay. Riêng ông nha sĩ còn ký thay cho nhà cựu cầu thủ bóng đá, nhà đại diện phòng cung ứng năng lượng.
Hôm sau chúng tôi phải tập trung vào lúc mười giờ.
Nhà cựu cầu thủ bóng đá nổi tiếng lại không đến. Ông đại tá về hưu đề nghị tất cả những người bán chả rong phải ăn mặc đồng phục, đề nghị này khiến cuộc thảo luận rơi vào bế tắc. Tuy nhiên, mọi người cũng không phản đối là người bán chả rong phải mặc đồng phục, nhưng ông đại tá về hưu cứ khăng khăng đòi rằng họ phải mặc đồng phục cả lúc ngoài giờ làm việc. Ông A-tứp phải đề nghị biểu quyết, nhưng các ý kiến lại chia đều: năm phiếu ''thuận'' và năm phiếu ''chống”.
- Không phải ngẫu nhiên, - ông A-tứp nói, - một hội đồng chúng ta gồm mười một người, nhằm để tránh những tình huống như thế này, tiếc thay một đồng sự của chúng ta thuộc phòng cung ứng năng lượng đã vắng mặt, đặt chúng ta vào thế khó xử. Kết quả tỉ số của chúng ta là năm trên năm! Bây giờ chúng ta làm thế nào đây?
Bác sĩ chỉnh hình đề nghị.
- Đó là bạn thân của tôi. Thời kỳ tôi chữa cho ông ấy bị chấn thương trong các trận đấu, bao giờ ông ấy cũng tâm sự với tôi mọi điều suy nghĩ, - theo chỗ tôi biết thì ông ấy phản đối đồng phục. Nếu các vị cho phép, tôi xin biểu quyết thay ông ta.
- Tôi với ông ấy cũng là chỗ bạn bè, - ông nha sĩ chen vào - Ông nói như vậy là sai đấy. Làm sao cầu thủ bóng đá lại đi chống đồng phục? Tôi xin hỏi ông, trong lụú đấu bóng hai đội phải nặc những quần áo khác mầu nhau là để làm gì? Chẳng lẽ một tuyển thủ suốt bao nhiêu năm đã hai mươi ba lần khoác áo quốc gia lại là người chống mặc đồng phục!
Tôi yêu cầu các quý vị không thảo luận vấn đề đồng phục! - Ông đại tá nói giọng đe doạ.
- Nhưng đối với những người đi rong bán chả thì đồng.... - Ông chỉnh hình định nói tiếp.
- Đi rong với chả đi rong?... Đồng phục là đồng phục, ở đây chẳng có gì phải nói cả. Im hết! - Ông đại tá gào lên:
- Xin các vị để lại vấn đề này đến khi nào có mặt ông bạn đồng sự đang nghỉ, - ông A-tứp nói giọng dàn hòa, ý muốn làm dịu bầu không khí căng thẳng.
Ông đại tá đưa ra thêm mấy đề nghị, đặc biệt là đề nghị các xe đẩy chả nướng phải đóng cùng một kiểu, sơn cùng một mầu, ngoài ra, vào ban đêm các xe ấy phải tập kết cùng một nơi quy định.
- Thưa ông đại tá kính mến, - ông A-tứp lên tiếng. - Chúng tôi xin ghi nhận những đề nghị của ông. Nhưng chính vì ông là đại diện của phòng cây xanh công viên, nên có thể là ông có những đề nghị thiên về mặt đó.
- Hẳn là vậy! Ông đại tá sẵn sàng đồng ý. - Chẳng hạn: phải nghiêm cấm những người bán chả nướng rong đi vào công viên. Ngoài cổng các công viên cần đề biển: ''Nghiêm cấm bán chả rong trong công viên''.
- Thế các vườn nhà riêng có cấm không? – Ông thú y đại diện báo chí hỏi. - Họ được vào đấy thoải mái chứ?
- Kính thưa ông, chúng ta đang nói chuyện các vườn cây công cộng.
Nhà lâm học đại diện phòng thuế đưa ra đề nghị về việc là muốn ngăn chặn việc ăn cắp gỗ rừng bằng cách cưa gỗ thành tấm, bó thành bó củi thì cần phải cấp cho những người bán rong chả nướng những giấy phép chuyên chở nguyên liệu gỗ, còn tòa thị chính thì kiểm soát nghiêm ngặt việc chuyên chở đó, đồng thời bắt những người này nộp thuế sử dụng đường xá, đánh thuế đất,, thuê tiêu thụ, ngoài ra vẫn có chế độ kiềm tra chính thức và thiết lập thuế hải quan nữa...
Giảng viên triết học cổ đại làm tại phòng cấp thoát nước đề nghị trong những công dân muốn làm nghề bán chả nướng rong phải có trình độ văn hóa tiểu học, như thế chúng ta sẽ khuyến khích được giáo dục tiểu học trong nước, còn những đề nghị về việc cấp nước thì sẽ quy vào trách nhiệm của mỗi người bán rong chả nướng phải có ít nhất một xô nước trên xe đẩy của mình.
- Về bằng tốt nghiệp tiểu học thì đã rõ ràng rồi, anh họa sĩ trang trí tham gia, - còn xô nước thì có nghĩa gì? Để dập tắt lửa nướng hay sao?
- Để rửa bát đĩa, - anh bạn thân mến ạ, - nhà cựu triết học đáp.
- Nhưng xin thưa rằng họ làm gì có bát đĩa, chả nướng họ kẹp thẳng vào bánh mì rồi.
- Nếu không rửa bát đĩa, thì để họ rửa tay...
- Xin ông nghe đây. Mùa hè ở Xtam-bun đến nước trong nhà còn không chảy, lấy đâu ra nước cho người bán chả nướng rong?
- Vậy theo anh, những người bán chả nướng không cần đến nước?
- Sản phẩm của họ thuộc loại khô...
- Nhưng như thế có nghĩa là vẫn tồn tại hiểm họa bốc lửa...
- Xin các vị chú ý nước...
- Không cần đâu, xin ông!
- Đừng ngắt lời tôi.
- Nhưng tôi cũng xin ông nghe tôi...
Nhà chỉnh hình, quan chức phòng thuế đề nghị chỉ cho phép hành nghề bán chả nướng rong nếu họ trinhf ra được kết luận y tế về tình trạng sức khỏe, đặc biệt là những phim X-quang về bộ xương.
- Vậy nghĩa là anh nào gù lưng thì không thành người bán chả nướng rong được chứ gì? - Ông thú y hỏi.
- Không được.
- Vì sao?
- Vì lý do thẩm mỹ? Đề giữ được vẻ đẹp cho thành phố, để phát triển du lịch phải nghiêm khắc cấm những người gù lưng, tập tễnh, thiếu tay không được bán chả.
- Thế thì chịu!
- Phải rồi, thưa ông, - tôi là nhà chỉnh hình, vậy ai biết rõ hơn: tôi hay là ông? Xin các vị hãy tôn trọng ý kiến chuyên gia. Nếu tôi nói với các vị rằng từ góc độ khoa học điều đó không đúng, thì các vị phải lắng nghe lời tôi. Sau nữa, là cán bộ tòa thị chính, đặc biệt là phòng cung ứng tôi đề nghị đối với những người bán chả nướng phải đặc biệt cho học chuẩn mực đưa thịt và các thứ khác vào sản phẩm ăn sẵn.
- Ông nói “các thứ khác” nghĩa là gì.
- Tôi xin nêu một dẫn chứng về thực tế hoạt động của những người bán chả nướng Xtam-bun - bọn khôn vặt này lấy bánh mì cứng, cho thêm ít nước, trộn thêm bột, không cho thêm tí thịt nào. Sau đó chúng nặn thành viên, rán lên bằng dầu rán đã cũ. Và thế là được một thứ chả thượng hạng.
- Ông nói ''dầu rán đã cũ'' là thế nào?
- Kẻ công bộc này của các vị dùng từ này để chỉ khái niệm là một thứ chất còn đọng lại trong chảo sau khi đã kết thúc việc rán một thứ gì đó. Cái gọi là những hiện tượng tồn đọng này là một bộ phận tổ thành của cái chảo. Chảo càng cũ bao nhiêu, thì chả càng ngon bấy nhiêu. Trong một số gia đình hành nghề nướng chả những cái chảo có dầu rán đã cũ được coi là của thừa kế từ đời ông cha. Các vị thấy đấy, kẻ công bộc này đã nghiên cứu sâu sắc những nguyên lý của nghề nướng chả.
- Thôi được rồi, nhưng làm sao nướng được chả lại chỉ bằng một bánh mì mà không cho tí thịt nào? Như thế không được đâu!
- Vâng… dù có là nghịch lý đến đâu đi nữa, thì người ta cũng đã làm được rồi.
- Tôi đã ăn thử rồi, có mùi thịt thơm lắm.
- Đúng là thơm thật! Đó là vì bọn nướng chả rong làm chả không phải bằng loại bánh mì thường, mà họ chỉ mua bánh ở những hàng sát cạnh hàng thịt. Mùi thịt tẩm vào bánh mì. Ngoài ra, họ còn để bánh mì qua đêm trong đống xương bò. Chính vì thế nhiệm vụ của chúng ta là phải buộc họ pha thêm thịt theo đúng nội quy.
- Đúng rồi, phải nói đến chuyện thịt, - ông thú y trong phòng ấn loát sôi nổi hẳn lên, - đó là chuyện cực kỳ hệ trọng!...
Và ông đề nghị cấm không được làm chả bằng thịt ngựa, thịt lừa, thịt la từ các lò mổ tung ra bất hợp pháp, bởi vì điều đó sẽ phá vỡ những truyền thống của đạo Hồi...
Tôi cố gắng kể lại vắn tắt để quý vị nghe về tính chất các cuộc tranh luận kéo dài hàng giờ, đôi khi hàng ngày. Lúc nào tôi cũng lo ngay ngáy là sắp đến lượt mình phải nói lên chính kiến. Đầu tiên tôi hy vọng rằng công việc biên soạn bản nội quy sẽ diễn ra nhanh chóng, bởi vì trong chúng tôi không có ai là chuyên gia ngành chả, do đó chỉ cần vài người phát biểu rồi giải tán ngay. Nào ngờ hy vọng của tôi tan thành mây khói.
Để kiếm được khoản thù lao mỗi ngày – chẳng nhiều, chẳng ít, cứ đúng một trăm lia, - chúng tôi phải cãi nhau liên miên về những chi tiết vụn vặt. Cũng dễ hiểu thôi: chẳng ai muốn vô cớ nhận tiền! Vì vậy mỗi người chúng tôi phải cố gắng đề nghị dưa vào càng nhiều khoản mục càng tốt, xuất phát từ chuyên môn của mình hoặc từ quyền lợi của ngành mình làm đại diện. Đó quả là một cuộc đấu tranh một mất một còn. Ai cũng bảo vệ lập trường của mình, đề nghị của mình, và một vấn đề vô cớ nhất cũng trở thành nguyên cớ cho những cuộc tranh luận mấy giờ liền, chẳng hạn, anh họa sĩ đại diện phòng y tế và anh họa sĩ trang trí cứ cãi nhau suốt ngày đến khản cả tiếng về vấn đề mầu sắc của xe nướng chả và kích cỡ bánh xe.
Chúng tôi hiểu rằng vấn đề này cực kỳ nghiêm túc và vì thế chúng tôi cũng làm việc nghiêm túc cực kỳ.
Một mặt, là cán bộ phòng nghĩa trang, mặt khác lại là kỹ sư quang học, tôi không thể tìm được cách tiếp cận vấn đề này. Nếu xuất phát từ chuyện nghĩa trang thì không thể nói gì đến chả nướng. Dù thế nào đi nữa thì người ta cũng sẽ có những liên tưởng không hay. Vì vậy, nhổ toẹt vào chuyện nghĩa trang, tôi quyết định đi theo tuyến đường quang học. Tôi bèn đưa ra một đề nghị là xe chả nướng phải trang bị kính lúp để người mua nhìn rõ mặt hàng và đồng thời cũng là để kích thích khẩu vị của họ. Những kính lúp này còn quảng cáo cho hàng hóa nữa. Muốn thế tôi đề nghị sử dụng loại thấu kính khuếch đại hai trăm phần trăm, mà phải là thấu kính bằng thủy tinh trong suốt, không có bọt khí và tạp chất. Tiếc rằng tôi không đưa được những đề nghị khác nữa vào trong văn bản. Cho đến nay tôi vẫn cho rằng tôi chưa xứng đáng với những đồng tiền nhận được.
Tất cả mọi thành viên hội đồng đều hết sức nghiêm túc tiếp cận vấn đề và hết sức say sưa chứng minh cho giá trị mỗi ngày trăm lia, cho nên sau mười sáu ngày làm việc chúng tôi đã soạn thảo thành công bản ''nội quy đặc biệt cho những người bán chả rong'' gồm có một trăm người bảy khoản mục.
Đó là một công trình khổng lồ, bởi vì các uỷ viên hội đồng đã đưa vào đó tất cả tri thức của mình, kinh nghiệm, khả năng của mình, những gì họ không áp dụng trong khi thi hành công vụ. Vì vậy bản nội quy là một cuốn từ điển bách khoa thực sự, độc nhất vô nhị gồm những tri thức không ai cần đến.
Khi tôi kể chuyện này cho anh bạn tham tán thị chính, anh an ủi tôi:
- Những chuyện ấy chẳng có ý nghĩa gì đâu. Những người bán chả rong vẫn sống và làm việc theo kiểu cũ. Tuy nhiên, có một văn bản nội quy trong tay thì hay hơn, lúc nào cần thiết thì áp dụng. Rồi cậu xem, bản nội quy hay đến đâu thì cũng chỉ là bản nội quy thị uy mà thôi.
Thế là, làm việc mười sáu ngày liền, mười một uỷ viên hội đồng chúng tôi đã xây dựng được bản ''Nội quy đặc biệt cho những người bán chả rong'' gồm một trăm mười bảy khoản mục, và đã được lĩnh mười bảy ngày sáu trăm lia bồi dưỡng. Ông bạn đồng nghiệp cầu thủ bóng đá ở phòng cung ứng năng lượng đã hạ cố đến dự hai buổi họp cuối cùng và đã làm cho chúng tôi được sung sướng bằng cách đóng góp một tư tưởng thâm viễn là ban ngày thì không cần phải chiếu sáng xe chả rong nữa.
Xin nói thêm rằng, nếu có một ngày nào bạn vướng chuyện buồn, hoặc một sự chán chường vô cớ, hoặc đột nhiên bạn thấy thất vọng và bạn thấy ủ ê tăm tối thì bạn hãy nhớ đến bản ''Nội quy đặc biệt cho những người bán chả rong'', mà chúng tôi soạn thảo, bạn hãy tìm lại và đọc lại nó. Tôi tin tưởng rằng bạn sẽ lăn ra mà cười, và mọi nỗi ưu tư của bạn sẽ mất đi không còn dấu vết.
Còn về phần tôi, tôi còn tham vấn thêm năm - sáu hội đồng nữa để soạn thảo các bản nội quy khác, sau đó tôi sang Mỹ, nhưng tôi không tìm được việc làm theo đúng chuyên môn ngày xưa, bởi vì trong những năm tháng tôi soạn thảo nội quy thì khoa học và kỹ thuật quang học đã tiến đi rất xa, đến nỗi với kiến thức cũ tôi không sao tìm được việc làm. Tuổi thì đứng, thời gian, tiền bạc thì không đủ để học lại nữa, tôi đành quay về Tổ quốc. Tiếc thay, tham tán thị chính đã đổi người khác, nên tôi không vào làm trong thị chính được.
Để nuôi nấng một gia đình đông khẩu, tôi mở một quán con nơi góc phố để sửa chữa kính đeo, kính ngắm, sửa cả bật lửa, bút máy, ô dù.
Tôi sống cũng không đến nỗi nghèo. Nhưng ở Thổ Nhĩ Kỳ thì thế này: người nào có hiểu biết, có kinh nghiệm, thậm chí có tài năng, mà như người ta thường nói là tài năng rực rỡ, thì người đó không được dùng theo đúng chức năng!...
Vì sao người ta lại thôi không mời tôi vào hội đồng soạn thảo nội quy như cũ?!
ĐỨC MẪN dịch