← Quay lại trang sách

Phần II 13. CHÁU NÓI LÁO HẠI CHÚ TRẢ THÙ

THẰNG kia nghèo tới nhà ông chú ruột, nói tính làm bánh cúng, mà không vạc mà hấp bánh, nên xin chú cho mượn cái vạc đồng ít bữa. Chú nó tưởng thiệt, thì biểu trẻ lấy cho nó mượn.

Nó vác về đem bán quách đi, lấy tiền ăn. Chú đòi đôi ba phen, nó cứ nói cù-lần hoài. Sau túng thế người chú làm đơn quì với quan huyện.

Nó nghe chú nó lo đi kiện nó, thì lật đật biểu vợ đi mua một con vạc đồng, xách đi theo sau. Tới nhà, quan hỏi: Nó biểu vợ cung khai xong rồi, xin đem trả trước mặt quan, kẻo sau đàng kia có nói ngược chăng. Vậy nói vạc đồng, thì nó đem con vạc đồng nó trả. Chú nó đi kiện mà nói không có rạch, không ra mí, cho nên mắc lý, phải nhận lấy mà đem về, mà trong lòng giận căm gan, lo kiếm thế báo nó cho bõ ghét. Mình vậy mà đi thua trí thằng con nít ; tức mình.

Về nhà nghĩ đi nghĩ lại, thấm ý càng xúc gan, mới toan lo bắt cháu mà nhận nước nó đi, cho nó chết cho hết đời nó đi cho rồi, kẻo mang nhơ xấu tiếng với người ta. Vậy mới đi cho trẻ kêu nó tới, bắt bỏ vào cũi khóa lại, đem ra bến sông, mà nhào nó xuống trấn nước nó đi cho rồi.

Tới bực sông, quân khiêng cũi để xuống nghỉ vai. Nó mới làm mưu: Thưa với chú, tội tôi chết thì đáng rồi, mà xuống âm-phủ không biết làm nghề chi đỡ mà ăn ; thưa, trước tôi có mua một cuốn sách nói láo, tôi để trên cái trang bị lật đật quên lấy theo. Xin chú làm phước chạy về lấy giùm cho cháu, kẻo tội nghiệp. Chú nó nghe lọt vào tai, lăng-căng [1] chạy về lấy, để nó đó một mình.

May đâu có thằng phung cùi lở lói đi ngang qua. Thấy vậy ghé hỏi: chớ làm sao mà ngồi trong cũi làm vậy? Thằng ấy làm tỉnh mới nói: Đừng có hỏi, tao khi trước phung cùi quá hơn mầy đi nữa kia cà, mà chú tao bỏ tao vào trong cái cũi thuốc nầy, thì lành trơn đi.

- May phước dữ a! Tôi cất đầu lạy anh, cho tôi vào, mà nhờ một phen cho đã tật tôi với. - Ừ, mầy nghèo cực, tao cũng chẳng nỡ đi ăn tiền bạc gì mầy. Thôi, tao cũng làm phước. Vậy thì mầy lại tháo cũi ra mà chun vô. Thằng cùi vô, thì nó ra khóa cửa lại để đó. Đi xẹo đi mất.

Chú nó kiếm cuốn sách táo-tác không thấy đâu. Đổ quạu và đi và lằm-bằm, hăm-hở ra tới mé sông. Mặc giận sẵn, đi vừa tới nơi, không coi trước coi sau, đạp dộng cái cũi xuống sông. Rồi bỏ đi miết về nhà, rầu rĩ mất công mất linh với thằng cháu khốn.

Thằng cháu thoát khỏi đi xa kiếm phương thế gạt chúng mà ăn. Bữa kia nó đi ngang cầu, ngó thấy xa xa một anh ăn mặc tử-tế cỡi ngựa đi tới ; thì nó lăng-căng sụt xuống dưới cột cầu lặn lên lặn xuống hoài. Anh kia tới đó, gò cương lại mà coi. Thấy dị làm vậy, thì hỏi nó làm gì vậy. Thằng kia và khóc và nói bệu-bạo: Tôi đi đòi nợ giùm cho chú tôi, được một chục nén, lộn lưng về ngang đây, rủi thì nó sút nó rớt xuống đây: Tôi lặn hết hơi lặn không được, cậu lặn giỏi, cậu xuống lặn ; được thì cậu lấy bảy nén, để cho tôi ba mà thôi ; để tôi cầm ngựa cho cậu.

Anh kia tham, liền cổi khăn cổi áo đưa cho nó cầm, nhảy xuống mà lặn. Thằng kia nỉnh đồ vào, nhảy phóc lên quất ngựa chạy mất biệt. Mới chạy thẳng về nhà chú nó. Chú nó thấy nó về, thì mừng mà hỏi: Ủa! Thằng kia sao mầy về đó? Lại tử-tế làm vậy? Thì nó nói: Tôi xuống dưới âm-phủ nhờ tổ được sung sướng đủ no mọi bề. Ông bà lại sai tôi về trên nầy đi thăm chú.

Chú nó ngờ là thật, thì nói với nó ; Vậy thì mầy đem tao, đóng cũi mà nhận tao xuống sông, coi thử họa may xuống dưới, tao được sướng như vậy chăng. Thì nó làm theo ý chú nó, nó đem, nó đạp dưới sông chết ngay cán cuốc, sướng đâu chẳng thấy.

Chú thích:

[1] lăng xăng

14. THẦY PHÁP RÂU ĐỎ

LÃO thầy pháp kia râu hoe-hoe đỏ-đỏ, cưới vợ về. Vợ nó mới chê: râu gì đỏ hoe đỏ hoét xấu quá. Thì nó kiếm chước nói giải cho xuôi cho rồi đi. Vậy nó nói: Húy! Mầy đừng có khinh: râu tài đó. Râu nầy có biết sợ ai?

Vợ nó không hiểu được ý làm sao mà làm vậy: làm thinh lừa cơ thử tài anh ta, coi thử có thiệt hay không.

Cách ít bữa kẻ bịnh tới rước thầy đi chữa, mà nhà bịnh ở cuối truông ném qua bên kia kìa.

Chữa chuyên xong rồi, người ta đem bánh lớ xôi chè chuối mít, lại một cái đầu heo tạ thầy. Thì thầy lấy khăn cột xách đem về.

Vợ nghe chừng anh ta về tối, mới vác gậy ra, ngồi giữa truông núp trong bụi. Anh thầy ta xợt-xợt [1] đi tới. Chị ta đập một cái sạt. Thầy thất-kinh quăng gói chạy quày trở lại, không dám đi. Người vợ ra lượm lấy cái gói xách ngay về nhà, đóng cửa lại ngủ.

Một chập, anh ta tỉnh hồn mới mò mới về thì hăm hở hối mở cửa cho mau. Bước vào, cái mặt cắt không đặng một chút máu ; gài cửa lại lấy cây chống thêm.

Vợ thấy vậy hỏi việc gì thất-thanh đi vậy. Thì chú chàng mới nói: Hú hồn! Tao tưởng đâu chúng nó đã cắt cổ tao đi rồi! Một đảng ăn cướp cũng được hai ba trăm nó đón nó đánh giữa truông.

- Có ở đâu nào? - Ấy! là quả làm vậy chớ!

- Mà anh nói anh râu đỏ anh không biết sợ ai, sao mà sợ té đái ra vậy? - Nó đông lắm mượn sợ, năm ba mươi chẳng nói gì ; cái nầy đâu cũng được vài trăm, không sợ làm sao? Thôi tấn cửa lại cho chặt rồi ngủ.

Vợ nó đi nấu nước, đi pha cho chú nghỉ uống, lại có đem ra một nải chuối nữa. Nó nhìn đi nhìn lại nải chuối hoài: Mẽ! chuối ở đâu mà giống chuối họ đưa mình! Vợ nó nói: Phải ở đâu? Chuối sớm mai tôi đi chợ tôi mua? Khéo nhìn bá láp không! Rồi đem dĩa xôi ra. Anh ta càng lấy làm lạ: Lạ nầy! xôi nầy của nhà bịnh đem đưa tao về đây mà.

Đem lần các món ra ; anh ta hiểu không được, hỏi gắt vợ cho biết đồ ấy ở đâu mà có vậy. Thì vợ mới nói thiệt: Hồi chạng vạng tôi núp trong bụi, tôi nhát anh, anh ném gói anh chạy, tôi xách gói về đó chớ ai? - Có lẽ nào? Ăn cướp nó rượt người ta chạy sảng-hốt [2] , mà mầy nói mầy nhát à? - Thiệt, không tin, tôi đem cái đầu heo, lại cái khăn anh, mà gói cho mà coi.

Thầy thấy quả, chưng hửng, mới nói: Phải hổi tao biết là mầy, tao đập một cây chết đi còn gì?

Chú thích:

[1] Lật đật

[2] Hoảng hốt

15. BỐN ANH TÀI

HAI ông bà son, con cái không có. Khấn vái hết sức. Sau trời độ-vận sinh được một đứa con trai. Mà nó ăn hung quá, bung kia chảo nọ ăn cũng hết, càng lớn lại ăn nhiều lắm. Hai ông bà làm không đủ cho nó ăn. Túng thế mới tính mưu với nhau, mà đưa nó đi cho rồi, kẻo để chịu không nổi. Vậy hai ông bà kêu nó vô, mà nói với nó: Con bây giờ thì cũng đã khôn lớn: mà cha với mẹ thì tuổi-tác đã cao, gần đất xa trời, yếu đuối làm gì không đặng mà nuôi con ; thuở trước nhà ta còn đang hào-cường, cha có cho hoàng-đế bên Tàu mượn và vàng và bạc hơn bảy mươi muôn lượng ; thì bây giờ mình túng, không phép ngồi bó tay mà chịu nghèo.

Con liền chịu ; sắm sửa ra đi.

Đi ra ngoài bãi biển gặp ông khổng-lồ, đang tát biển, thì lại hỏi thăm:

- Anh làm chi mất công mất linh làm vậy?

- Anh khéo hỏi không? Trong đời có một mình tôi mà thôi, không ai dám bì ; chẳng tin lại xách thử cái gàu mà coi: tôi đổ anh dở cho nổi.

Anh kia lại xách thử gàu múc nước tát:

- Nhẹ hểu đi giống gì?

Khổng-lồ không dè có người mạnh-mẽ, tài tình hơn mình làm vậy ; kết nghĩa làm anh em. Rồi anh ta bày chuyện mình đi. Rủ ông Khổng-lồ đi theo có bạn.

Hai anh em dắt nhau đi lên trên núi, gặp một người vặm-vở, to xương, lớn vóc, mới hỏi: Anh làm gì ở rừng ở bụi chèo queo một mình: Đi với qua đây mà chơi, coi ra còn có vị hơn. Anh ở núi nói: Tôi có một tài ngồi lại trên đảnh núi, thổi làm giông làm gió cho ngã cây ngã cối chơi vậy. - Nào, làm đi coi thử, nào! Anh ta mới búng [1] má thổi một hơi. Cây cối gì đều rạp xuống hết. Vậy hai ông kia biểu: Thôi thì đi với tôi qua Tàu đòi bạc mà chơi. Đàng kia coi khá mòi, ừ, cuốn áo ra đi.

Đi cách vài ba ngày đường, lại gặp một lão dị-kì tướng gánh voi trên núi. Mới lại mới hỏi:

- Chớ anh làm giống gì lục thục ở trên rừng vậy? Anh kia đứng ngừng lại nói:

- Tôi đi lên rừng cao, đi bắt voi trói giò, gánh về để rục lấy một hai cây ngà bán kiếm tiền ăn.

- Thôi mà, về lấy áo đi với mấy đứa tôi qua bên Bắc-thảo đòi bạc đem về chia nhau ăn.

- Ừ, có vậy cũng may.

Bốn bà con dắt nhau đi. Tới nơi, gởi dộng [2] vô trong nội một cái thơ đòi bạc nợ. Vua cho quan ra coi thử ai, mà đi đòi nợ đó. Ra thấy bốn người dị-hình dị-dạng ở bên Annam qua. Thì vua dạy dọn yến-tiệc đãi tử-tế. Mà các ảnh ăn hung quá, cung đốn theo thường không đủ.

Vua tức mình lo mưu hại quách nó đi, để nó khuấy rối. Dọ coi thì anh nào cũng tài tình hết, sợ có khi các ảnh làm nhăng mà khốn. Vậy mới hạ chỉ dạy dọn yến, lại đặt binh-gia để phục mà hủy cho được.

Bốn hợm ta thấy léo rồi, ăn thì ăn, mà ngó chừng kẻo nó ào vô thình lình mà khó giải.

Nó nghe hiệu-lịnh, nó ào nó vô, thì anh làm gió thổi lên một hơi, nó rạp xuống hết. Vậy về báo với vua rằng: Tính thế không xong: Sức mới có một anh ra cự, mà quan quân binh lính rã ra hết, huống chi bốn bợm ra một lượt, thì ắt là nó ăn ta đi, nó giết hết.

Vậy vua bàn với triều-đình phải mở kho mà trả bạc cho nó. Dầu mình không mắc nợ gì mặc lòng, nó đòi bao nhiêu, thì giao cho nó bấy nhiêu, đặng cho nó đi đi cho rảnh, để nó khuấy rối giờ.

Vậy mới kêu vô mà giao bảy mươi muôn lượng bán kim bán ngân (nửa vàng nửa bạc) thì các ảnh chia nhau một người một gánh, gánh đi hểu-hểu. Ai nấy thấy đều thất-kinh hồn vía.

Chú thích:

[1] Phùng má

[2] Gửi đại

13. BẠN HỌC TRÒ, MỘT NGƯỜI ĐẬU, MỘT NGƯỜI RỚT

HAI anh em bạn kết nghĩa với nhau đã lâu. Có một anh tốt phước đi thi đậu về làm quan vinh-vang tử-tế ; mà bụng không được tốt mấy, mắc tham tâm mà quên nhơn-ngãi. Bữa kia anh học trò lỡ vận tới dinh đi thăm, cậy quân vô bẩm ; nó ra nó nói ngài giấc ngài ngơi [1] Đợi không được, lại về bữa khác cũng tới làm vậy, thì ngài lại mắc việc khác không ra khách được ; là vì thấy tới mặt không, không có lễ mễ gì, nên lánh đi. Anh kia lẽo-đẽo tới hoài đã năm ba phen, mà không có gặp mặt, thì về mua một con heo choai, quay vàng lườm để vô mâm bưng tới. Quân vô bẩm, ngài nghe có lễ-mễ lật đật mang áo ra.

Chào hỏi sơ-sài lếu-láo, ba tiếng, biểu quân cầm một miếng trầu, châm một điếu thuốc đem đưa cho. Anh ta lãnh lấy xăm-xúi [2] đem lại nhét trong miệng con heo. Rồi đứng vòng tay lạy con heo ba lạy: Giã ơn mầy, vì bởi nhờ có mầy, nên tao mới vào được cửa quan, mà thăm bạn cũ tao. Rồi bỏ ra về một thể, chẳng thèm tới lui nữa.

Chú thích:

[1] Nghỉ ngơi

[2] Xăm xăm

17. TRÊN VUA DƯỚI TÔI

THẰNG hề kia ra giễu một chặp, rồi mới hỏi thằng kia: Đố mầy biết, trên vua dưới ai? Thằng kia nói: Trên vua thì dưới các ông hoàng chớ ai? - Không phải. - Không, thì trên vua dưới các quan tứ-trụ, cùng là triều-đình chớ ai? - Cũng không nữa, nói bậy.

Thằng kia mới giận hỏi: Vậy chớ mầy nói ai? - Tao đây chớ ai? Trên vua dưới tao. - Ấy! Anh nầy phạm thượng bay! - Không, thật làm vậy chớ. Nầy, để tao nói cho mầy nghe: Ngày xưa tao túng tiền xài, chạy đi hỏi người nầy bốn năm quan ; chạy đi hỏi người kia đôi ba quan ; không ai cho. Túng tao mới đi vay. Họ bắt tao làm tờ tạm đứng điểm-chỉ. Mướn học trò làm tờ ; trên đề niên-hiệu, thì là ngài Đức vua đứng, còn dưới kế lấy đó, thì tao đứng. Có phải là trên vua dưới tao không?

18. ĐÚT SÁP CHO CỌP ĂN KHỎI CHẾT

THẰNG hát-bội kia nó giễu cái nầy xâm những ông quan hay ăn hối-lộ: Ý cha chả! hôm trước tôi đi ăn ong về, gặp ông cọp ; tưởng đà xong đời đi rồi.

Hủy! Vậy thì còn gì mầy? Mà may, tao có vác một bó sáp trên vai, tao mới chàng-hảng ra, tao đút sáp ra đàng sau, ổng chạy theo ổng táp, mắc nhai sáp, tao chạy trược đi khỏi. Xí hụt!

19. TRÁCH NGƯỜI ÍT ĐÁNH CHẦU

CŨNG có thằng khác ra giả một đứa đầy tớ, một đứa làm chủ. Đầy tớ đi cày về, chủ hỏi cày được bao nhiêu? Nó nói được ít đàng gì đó. Chủ mới nổi thần hung lên, mới nhiếc nó dở dang làm biếng làm nhác. Thì nó nói: Cày ít, có phải là tại tôi sao? Con trâu nó đi tới đâu thì tôi đi tới đó, chớ phép tôi khiên nó được sao? - Vậy sao mầy không đánh nó cho nó đi cho mau ; cái da trâu làm ông làm cha gì mầy, mà mầy hòng sợ, mà dám đánh?

Là có ý xóc tâm anh cầm chầu, sao có hẹp với nó, không hay chầu hay thưởng.

20. CHA ĐIẾC, MẸ ĐIẾC, CON ĐIẾC, RỂ ĐIẾC

HAI ông bà điếc, sinh đặng một đứa con gái cũng điếc, rầu mình vô phước, mình phận già cả chẳng nói làm gì, còn con mình tật-nguyền điếc-lác, biết gả cho ai mà gởi thân cho nó nhờ. Mà nghĩ lại mình cũng còn khá ; lớn ruộng nhiều trâu, thế cũng có khi cũng có dễ.

Vậy thấy một đứa con trai lịch-sự ở xa cách vài làng năng vô ra tới lui trong làng, thì kêu nó mà gả cho nó. Chẳng ngờ nó cũng điếc.

Cưới hỏi xong xả, nó về nó ở với cha mẹ vợ, thì cha nó biểu đứa con gái biểu nó ra coi cày bừa đám ruộng ở kề bên đường. Nó nghe liền vác cày ra cày. Đang lui cui cày, có ông quan đi ngang qua đó, mà là quan kinh mới tới nhậm, đứng lại hỏi thăm nó cái đàng đi vô dinh quan phủ.

Nó chẳng lành thì chớ, điếc nghe không ngõ ; tưởng ổng quở sao có cày bậy ruộng của ổng chăng ; nên vọt miệng mắng: Ruộng tôi, tôi cày, sao ông nói ruộng của ông? Ông nầy ngang quá ghẹ đi cà. Ông quan thấy nó dễ ngươi, thì biểu quân rượt đánh nó. Nó đâm đầu chạy về nhà, vợ đang ngồi nấu cơm trong bếp, nó đạp cỏn hai ba đạp chúi vào trong bếp: Ruộng nào ở đâu mà mầy chỉ bậy cho tao cày ; làm người ta đánh tao cờ-bơ cờ-bất, cũng là tại mầy lếu? Con kia nói: Dữ không? Đợi một chút cho người ta nấu dọn cho mà ăn không được? làm gì bất nhơn làm vậy?

Kế thấy mẹ nó đi chợ leng teng bưng rổ về ; con gái ra mét, nói sao chồng độc dữ quá đạp nó làm vậy. Bã thấy bộ nó giận quạu-quọ, thì ngờ là nó nói sao mình đi chợ năm tiền, mà ăn bánh ăn hàng hết đi mua về ít đó. May đâu, ổng đi tát đìa quảy vịt về, mới để xuống, bã chạy lại bã nói: Tôi ăn bánh ăn hàng ở đâu? mà con nó nói thêm nói thừa cho tôi? Ổng nghe không rõ, tưởng bã nói, sao mình có bắt cá mà cho ai, thì nói: Nào tôi có cho ai đâu? Đặng con nào bỏ vịt con nấy đem về, mà nói bắt cho ai? Có chứng lão cày ruộng một đó. Bà ra hỏi lão mà coi. Nắm tay bã dắt ra ngoài đồng lại hỏi lão cày: Chớ lão thấy tôi bắt cá, mà cho ai không?

Chẳng may lão cày cũng lãng tai, tưởng là hỏi lão có khuấy chơi lấy quần giấu đi chăng. (Thấy ổng đóng khố, thì hiểu làm vậy). Cho nên mới nói: Nào! Tôi sớm mai đến giờ cứ cày hoài, tôi có qua chi bển, mà tôi hòng biết quần ổng để đâu, mà lấy mà giấu? Ông già khéo nghi bậy không?

21. THẰNG CHA NHẢY CÀ-TỨNG

THẰNG cha kia sợ vợ. Bữa nọ con mẽ đi chợ, ở nhà anh ta lấy khoai đem lùi bốn năm củ. Con mẽ đâu lơn-tơn về. Thằng chả ngó thấy bóng, lật đật lấy khoai bỏ vô trong quần túm lại, chạy ra. Mà mắc nó nóng quá, nên đứng nhảy lên nhảy xuống hoài. Con mẽ thấy tức cười hỏi: Làm gì mà điên vậy? Đứng nhảy cà-tứng đó? Nó mới nói: Tao mừng mầy đi chợ về.

22. HAI ANH SỢ VỢ

HAI thằng cha kia hay sợ vợ, ở kế một bên nhau. Bữa nọ phơi đồ, sao để quên mưa ướt đi. Con vợ mắc lục-đục trong bếp, nhớ trực lại đồ phơi ngoài sào, thì hối nó ra mà lấy vô. Con mẽ nó mắng nó nhiếc, rồi nói sỉ vả nó lại vác cây nó đập cho, chạy mất.

Qua bên nhà anh kia ; ở bển nói chuyện. Người kia hỏi: Chớ giống gì mà chĩ mắng, chĩ chưởi làm om bển đi vậy? Tôi quên đem đồ vô, nó rầy tôi. - Tốt kiếp thì thôi thè! Anh đó, chớ tôi ấy thì… Con vợ nó nghe nổi xung, ở trong xách cây chạy ra hỏi: Chớ tôi… thì… sao? Thằng chồng sợ, nói: Không mà, tao nói: anh đó chớ, chớ tôi, thì tôi đem vô trước hồi chưa mưa kia chớ.

23. MẸ CHỒNG NÀNG DÂU ĂN VỤNG

BÀ mẹ nấu chè ăn trưa chơi, mà đợi lâu lắm: thèm quá, mới lén lấy một chén bưng lên trên bồ lúa ngồi ăn, kẻo con dâu ngó thấy.

Con dâu đói bụng thét [1], ngó quanh ngó quất không có ai, mới lén bưng một chén đem đi giấu mà ăn. Trong nhà có một chỗ vựa lúa là kín mà thôi, nên nó lên đó mà ăn kẻo mẹ chồng ngó thấy. Ai ngờ đi trờm tới đụng lấy bà mẹ đang ngồi ăn chè! Bã mắc-cở hỏi:

- Con bưng chè đi đâu vậy? Con dâu lanh, nói:

- Tôi tưởng mẹ ăn đã gần hết, tôi múc đem thêm cho mẹ sớt.

Kì thật là hai người ăn vụng.

[1] Quá

24. TÍCH HANG ÔNG TỪ-THỨC

Ở ngoài Bắc có một cái hòn tự-nhiên bốn bề đá dựng ; đêm ngày sóng tạt bổ ầm ầm: người ta đặt tên là hang ông Từ-Thức.

Do cái chuyện đó người ta bày thế nầy:

Thuở xưa kia, vua tính xây một cái thành chỗ đồng nội kia ; thình lình chỗ ấy có mọc lên một cây vô danh, bông lá lạ thường, đã xinh mà lại thêm thơm nữa. Ai nấy đều định phải đem dưng cho vua. Vậy mới cho dân canh giữ nhặt nhiệm, kẻo sợ người ta hái bông đi. Thiên-hạ đồn dực, đâu đó rủ nhau tới đó coi.

Tiên ở tại hòn nói trước nầy ; cũng đua nhau đi coi. Mà có nàng Giáng-Hương, tiên xinh tốt, lại gần rờ rẫm cái hoa ; rủi rụng xuống. Quân lính mới bắt lấy đó. Xúm lại xin, nói gãy lưỡi cũng không tha.

Vừa may có ông Từ-Thức là ông quan lão nghe đồn cũng đi tới coi cho biết. Bước vô, thấy bắt buộc làm vậy, thì hỏi lính: Tội tình chi mà bắt trói người ta lại ; người ta là con gái mà bắt làm gì tội nghiệp vậy? Tha người ta đi.

Lính bẩm: Bẩm ông, cô nầy ở đâu không biết, tới coi lấy tay nưng cái hoa nó rụng xuống nơi tay ; tôi bắt cổ lại đây ; bây giờ ông dạy tôi tha, tôi có dám tha ở đâu? Ông Từ-Thức mới cổi áo đưa cho thằng lính, cho nó đặng nó tha nàng Giáng-Hương đi.

Sau về nhà, ông Từ-Thức mới nhờ mường-tượng hình-nhan [1] nàng con gái mình cứu ; trong lòng nó bắt khoăn-khoái nhớ-thương, ước cho đặng gặp mặt lại mới phỉ lòng. Ra vô bâng-khuâng tư-tưởng, ăn chẳng ngon, nằm chẳng ngủ. Thao-thức cả đêm ; đang chừng nửa đêm, lồm-cồm chỗi dậy kêu một đứa thổi lửa, thắp đèn ; rồi ổng cuốn gói xuống chiếc xuồng, ông cầm giầm bơi đi, đi bơ vơ chẳng biết đi đâu. May đâu, đi trợt tới hòn tư bề đá dựng đứng, lại có cái cửa vô ; cứ xăm-xăm đi tới hoài. Ngó trước thấy nàng Giáng-Hương ra rước. Vô cung, ở đó vui vẻ đủ no mọi đàng.

Đến bữa nàng Giáng-Hương phải đi chầu bà Chúa-tiên, thì đóng cửa lại, dặn ổng ở nhà làm gì thì làm, mà đừng có mở cái cửa sau mà khốn, đến nữa phải trở về, không được ở đó nữa.

Dặn dò trước sau phân minh, nàng ấy ra đi. Ông Từ-Thức ở nhà nghĩ hoài: Mẽ! Nầy! Không biết ý làm sao mà biểu đừng mở cửa sau? Có khi bên kia có giống gì xinh tốt quí báu hơn bên nầy, nên cổ cấm mình vậy chăng? Lục-tặc [2] đem dùng mở phứt ra.

Ngó thấy thế-gian ; khi ấy mới nhớ nhà. Vậy các tiên ở đó nghe động đất thì biết, nên về đuổi ông Từ-Thức về, không cho ở nữa.

Tưởng là mới đâu vài ba bữa, ai hay về kiếm nhà không được. Nhớ chắc chỗ cũ vào hỏi, thì chẳng thấy một ai quen biết: hỏi thăm nhà ông Từ-Thức, thì họ nói họ không biết cũng không có nghe tên ấy bao giờ. Hỏi mấy ông già, bà cả, thì người ta nói: Thuở trước đời vua kia vua nọ, thì có ông quan lão tên là Từ-Thức, mà ổng chết đã hơn ba bốn trăm năm nay rồi, còn ở đâu?

Chú thích:

[1] Hình Dung, Dung nhan

[2] Lục tặc = Về Phật giáo chỉ sáu thứ làm hại cho sự tu hành (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ) đây có nghĩa nổi nóng, bực tức

25. CỌP BỊ ĐÁ

ANH kia còn nhỏ trai, hay cầu vui theo chúng bạn. Bữa ấy đi chơi tối, khuya về kêu cửa. Ở nhà thì có nuôi một con chó vện lớn. Bữa ấy có con cọp tới rình nằm ngoài cửa. Anh ta đi chơi về, lợt xợt [1] vô thấy mập mờ, trời thì tối, tưởng là con chó vện, nên co chân đạp cho một đạp lăn cù: chó mèo gì tối nó ngậm câm chẳng thèm sủa?

Con cọp giựt mình, thình lình thất-kinh cong đuôi chạy mất. Vào nhà thấy con chó vện hãy còn ; mới biết là cọp giựt mình nổi ốc. Từ ấy về sau tởn không dám đi đêm nữa.

Chú thích:

[1] đột ngột

26. CỌP MẮC ĐUÔI TRONG BỤI DỪA NƯỚC

TRONG Rạch-giá, Gò-quao cọp nhiều quá chừng, lỉnh-nghỉnh [1] trong rừng như chó vậy ; hai bên bờ sông đầy những dừa nước, còn trên bờ thì rừng tràm, chỗ người ta đi ăn ong.

Bữa kia có hai người chống xuồng đi bẻ dừa nước non mà ăn, thế [2] chuối chát. Người ở trước mũi, thì ở xứ khác tới đi buôn, lâu nay chưa biết cọp ra làm sao ; còn người sau lái, là người cố-cựu đó.

Ghé xuồng vào bụi dừa rậm, chẳng hay có con cọp đi đâu, mắc kẹt cái đuôi ở trong bẹ dừa giựt không ra, ngồi đó, chịu phép.

Anh trước mũi bước lên đốn dừa, thấy vàng khè, mừng tưởng là con chồn cáo, chạy nắm đuôi kéo. Tay thì kéo, miệng thì la: Lại tiếp, anh, tôi đã nắm được đuôi con chồn cáo lớn dữ lắm. Anh kia lật đật chạy lên, thấy cọp dội lại: Hủy! Cọp đó, anh ; không phải chồn đâu. Rồi sợ xô xuồng đi.

Anh kia ở đó, không biết liệu làm sao, buông nó ra, thì nó ngoái, nó chụp mình, mới cứ trì hoài đó. Con cọp thì đau giựt giựt mãi, mà không ra.

Một hồi lâu cọp cũng mệt, mà người cũng mệt mỏi tay quá vùng buông phứt. Con cọp giựt được, nhảy ào cong lưng chạy miết về rừng.

Chú thích:

[1] Lểnh nghểnh, nhiều

[2] Thay

27. ĂN TRỘM VÀ CỌP RÌNH NHÀ

HAI thằng ăn trộm đi rình nhà ; lại có con cọp cũng tới rình bắt heo. Trời tối mờ mờ, anh kia tò mò lại chỗ con cọp ngồi, tưởng là thằng đi với mình, lại giõ miệng: Nầy! họ còn thức hay là ngủ? Lại vỗ vai nó một cái ; vỗ nhằm đụng lông lá xồm-xàm, giựt mình nhảy trái chạy đi mất.

Còn con cọp thình lình chúng vỗ vai cái bốp, thất sắc cũng chạy đi mất. Thằng rình góc nghe chạy thịch thịch, tưởng là chúng hay chúng rượt, cũng vụt ra chạy.

Anh kia chạy trước, nghe sạt sạt sau lưng, tưởng là cọp đuổi theo, càng chạy mau lắm. Con cọp chạy giữa nghe lộp độp sau lưng, ngờ là chúng rượt theo, lại càng nhảy nai hơn nữa. Hồn vía mất hết, ai mạnh đàng nào chạy đàng nấy.

28. THẰNG ĂN TRỘM GÀ BỎ QUẦN MÀ CHẠY

CÓ một đứa ăn trộm vặt. Tối đầu canh hai, anh ta lót cót [1] đi rình bắt gà. Động, gà vịt kêu lên ; chủ nhà hay, lén để rình chụp mà bắt nó. Nó mới được một con gà cồ, xách đi ; gà kêu choác-choác ; nó bóp hầu bóp họng cũng không thôi la.

Túng thế mới bỏ vào ống quần, cột túm miệng ống lại. Chẳng ngờ chủ la lên rượt theo. Chú chàng càng chạy, gà càng la ; không biết làm làm sao cho nó nín. Chúng theo riết, tuột quần bỏ lại mà chạy.

Té ra gà bắt không được, mà lại mất quần, lỗ vốn bị gai ô-rô, cắt một bữa, cũng trầy trụa ra hết cả mình.

Chú thích:

[1] Lót tót

29. THẰNG ĂN TRỘM ĐƯỢC MỜI UỐNG NƯỚC TRÀ

MỘT đứa ăn trộm nghề, mới chạng vạng anh ta lòn bóng vô, leo lên trên trính phía khu-đĩ [1] nhà, ngồi đó ; chờ trong nhà ngủ đặng có xuống mà khuân đồ.

Chủ nhà có ý, đến chừng dọn dẹp đóng cửa đi ngủ, thì biểu trẻ nấu nước pha uống ; ngó trực lên khu-đĩ, thấy anh bợm ngồi tòn ten đó ; thì làm tỉnh kêu trẻ lấy chén thêm. Rồi biểu trẻ lại mời anh ngồi trên trính xuống, uống ít chén nước cho ấm. Bợm ta chưng-hửng tuột xuống, lại lạy ông chủ xin tha. Thì ông chủ nói: Tôi tha làm phước, mà đừng có léo tới đây nữa, mà tôi bắt nạp đi đó.

Chú thích:

[1] Xé xà nhà