← Quay lại trang sách

Phần III 30. ÔNG CỐNG QUỲNH

TRUYỆN ông Cống Quỳnh đậu trạng, có nhiều pha lửng trớ-trêu tức cười.

Bữa kia có một người ở xa tìm tới kinh vào chầu vua, đem dưng cho người một mâm trái trường-thọ. Mới đem vô, nói chưa xong, ông Cống-Quỳnh lại lấy lột ăn phứt đi. Vua thấy ổng làm đều vô-phép, sỉ-hổ cho vua, thì ngài dạy đem mà chém đi.

Ông ấy quì xuống tâu rằng: Tâu Bệ-hạ, muôn muôn tuổi ; nay tội tôi hỗn-hào vô-lễ, mà Bệ-hạ đòi chém, thì là đáng lắm. Muôn tâu Bệ-hạ cho tôi nói một ít lời cho cặn kẽ, rồi tôi sẽ ra chỗ pháp-trường ; trái nầy gọi là trái trường-thọ, mà sao tôi ăn vô chưa khỏi cổ đà thấy chết? Vậy thì nó là trái đoản-thọ mới phải. Vua nghe được tha ổng đi.

Bữa khác, vua ngự đi chơi, quân-gia binh lính chầu-chực hầu-hạ, thiên-trùng vạn-điệp. Ông Cống-Quỳnh đi tắm ngó thấy lật đật chạy đút đầu vô bụi giơ đít ra. Vua ngự ngang qua thấy mới hỏi ai? Cống-Quỳnh quì xuống tâu: Tôi nghe ngài ngự, tôi núp không kịp, nên phải làm làm vậy ; tục nói: Hễ giấu đầu, thì ra đuôi.

Trong nội, vua có nuôi một con mèo, có cột cái xích bằng vàng. Cống-Quỳnh vô ra ôm quách về nhà ; lấy xích vàng ra, cột dây, nuôi ở nhà. Mà thường ổng biểu đem hai dĩa, một dĩa thịt thả, chả gỏi ; còn một dĩa thì cơm nguội trộn với đầu tôm xương cá ; hễ nó lại ăn dĩa đồ ngon thì đánh ; nên nó quen đi cứ dĩa đồ hèn mà ăn mà thôi.

Vua tiếc con mèo, sai đi kiếm táo-tác, kiếm không ra. Người ta nói có ngó thấy Cống-Quỳnh nuôi con mèo giống in con mèo của vua, có khi nó đó. Vậy vua cho đòi ông Trạng tới, hỏi con mèo. Ổng nói một hai không phải. Vậy ổng bắt con mèo đem tới, biểu quân đem hai dĩa cơm, một dĩa đồ ngon, một dĩa đồ quẩy-quá: mèo của vua thì thường ăn đồ mĩ-vị, ngon-lành, mà của tôi đâu đồ ngon mà cho ăn, ăn những cơm nguội cơm-ngặm, mắm-muối quẩy-quá vậy thôi ; nếu nó ăn dĩa đồ ngon, thì thật là của ngài, mà như nó ăn đồ hèn, thì nó là của tôi chắc.

Đem ra, thì con mèo tập đã quen, cứ lại dĩa cơm nguội mà ăn, thì Cống-Quỳnh vỗ tay cười: Ậy! Của dân-sự nghèo nàn thì nó như vậy! Ôm mèo về mất.

Bên Tàu qua đi sứ, đem dưng vua một cái ve thủy-tinh, liền không có miệng, mà trong có nước, xin hỏi làm sao, mà lấy nước cho được. Vua cùng đình-thần bối-rối không biết giải làm sao. Vậy đòi Cống-Quỳnh tới, hỏi tính làm sao. Cống-Quỳnh mới nói: Tưởng là giống gì khó lắm, việc nầy liệu được mà. Vua mới giao cho anh ta đem về. Sáng ngày lợt-xợt vô. Vua ra lập trào rước sứ Tàu cho đặng giải việc hỏi. Ông Cống-Quỳnh tay xách dùi đục, tay cầm cái ve của sứ đem qua. Vua phán hỏi. Cống-Quỳnh quì xuống: Muôn tâu lịnh thiên-tử, Tàu hỏi làm thế nào lấy nước ra cho được? Vậy hễ muốn lấy cho được nước, thì phải đánh mới được. Và nói và đập bể cái ve đi.

Năm sau, sứ đem một con trâu có tài báng lộn ăn hết các trâu bên Tàu. Đem qua hỏi coi thử Annam có trâu nào giỏi hơn chăng. Vua đòi Cống-Quỳnh tới hỏi, coi thử tính làm sao.

Cống-Quỳnh vào chầu. Vua phán: Đó bây giờ Tàu người ta đem con trâu báng giỏi nhứt có tài, coi thử mình có đem ra cự ; Trạng tính làm sao?

- Muôn tâu Bệ-hạ, có khó chi, để tôi về tôi tính ; xin sứ để ba bữa. Ông Trạng về biểu bắt con nghé nhỏ còn bú, nhốt riêng nó ra, đừng cho bú ba bữa.

Tới ngày sứ đem trâu tiếng Tàu ra, ông Cống-Quỳnh dắt con nghé ra. Vua ngự ra, sứ bộ cùng triều-đình tựu tới coi. Thả trâu lớn của Tàu ra, nó hăng đứng nghinh đó ; Cống-Quỳnh thả trâu nghé ra. Nó nhịn bú đã ba ngày, khát sữa, thấy trâu lớn tưởng là trâu mẹ, lăng-căng chạy lại xúc-xúc dưới bụng nơi sau háng, trâu Tàu nhột chịu không đặng, chạy mà tránh cho khỏi kẻo nó rúc nhột. Càng chạy, nó chạy theo xúc, cong lưng chạy miết dài. Cống-Quỳnh đứng vỗ tay la: Trâu Tàu thua rồi! Trâu An-nam ăn rồi! Thèm đem trâu lớn đâu ; sức con nghé con, ốm tong ốm teo, mà trâu kia còn phải thua nữa là!

Bước qua năm sau, Tàu giận thấy mình thua trí người An-nam, mới sai sứ đem một cây gòn đẽo bào bằng gốc bằng ngọn, lại kéo sơn đôi ba nước, mất da mất thịt cây đi hết, ở giữa có để hai chữ: Túc tử. Đem qua đố An-nam biết là tên cây gì, lấy chữ đó, mà bàn cho ra tên. Lại đố biết đầu nào gốc, đầu nào ngọn.

Các quan hiệp nghị mời Cống-Quỳnh tới hỏi: Sao ông tính nói cái ấy đặng hay là không? Cống-Quỳnh chịu, lãnh về nhà tính. Sáng ngày ra, vua ngự, lập ban cho sứ vào chầu, Cống-Quỳnh vào quì xuống tâu: chữ túc là lúa, chữ tử là con ; là hễ: còn lúa con ăn con no con mập, hết lúa con mòn con gầy ; thì là cây gòn. Còn viết nói đầu nào gốc, đầu nào ngọn, thì xin xuống mé sông tôi sẽ coi.

Vua quan cùng các sứ thảy đều xuống theo mà nghe nói. Dạy khiêng cây xuống. Ông Quỳnh mới thả day ngang qua sông, thì nó phải day trôi theo dòng nước ; đầu nào day trước ấy là đầu gốc.

Đến sau vua sai ông Cống-Quỳnh đi sứ bên Tàu. Nhằm khi có các anh tấn-sĩ mới đậu. Thấy sẵn, lại nghe tiếng Cống-Quỳnh giỏi văn-chương chữ nghĩa lắm, vua mới mời Cống-Quỳnh thử chơi ít bài ; mấy tấn-sĩ có tài làm thơ làm phú lẹ, hễ nhảy lên ngựa cầm viết lia, nhảy xuống thì đã viết rồi.

Cống-Quỳnh cũng không sợ, chịu ra thi. Dẫn ngựa voi ra nghiêm-trang tử-tế, phát viết, mực, giấy má xong rồi, nghe hiệu trống đánh một cái thùng, thì ai nấy nhảy lên ngựa. Cống-Quỳnh nhảy lên lấy viết huây huây ba cái lăng-quăng líu-quíu, rồi nhảy xuống hô. Rồi! Người ta chưa ai rồi hết: đem vở lại nộp.

Quan giám-khảo coi không ra, hỏi chớ Cống-Quỳnh viết giống gì lăng-quăng coi không được. Cống-Quỳnh nói: Chữ bên tôi tháu làm vậy đó, như ngài coi không đặng, để tôi viết lại chữ thảo hay là chơn tự cho ngài coi. Vậy mới viết thơ cũ thuộc lòng cho họ coi. Họ lấy cho được thứ nhứt.

Bữa kia quan thừa-tướng Tàu dọn tiệc, mời Cống-Quỳnh tới uống rượu chơi một bữa. Đàng-sá đâu đó có đào hầm, để gạt cho Cống-Quỳnh sụp mà chết, kẻo để Tàu chịu thua An-nam xấu hổ ; Chiếu bông nệm gấm trải liệt địa cùng đàng.

Ông thừa-tướng tới nhà mời và rước Cống-Quỳnh. Ra tới đàng có trải nệm bước xuống mời Cống-Quỳnh xuống đi bộ cho mát, biểu Cống-Quỳnh một hai đi trước; Cống-Quỳnh không chịu. Nhường cho quan thừa-tướng rằng: Tiên vi chủ, hậu vi khách. Quan thừa-tướng mời gãy lưỡi cũng không được, túng phải ra đi trước, Cống-Quỳnh khôn, cứ bước theo dấu chơn thừa-tướng thẳng tới nhà khỏi sụp vào đâu hết.

Ngày kia Cống-Quỳnh vui muốn khuấy chơi các quan triều một bữa. Chửng mới viết thiệp cho mời các quan tới tựu tại nhà uống rượu chơi.

Mặt trời chen lặn, võng dá các quan lải rải tới. Cống-Quỳnh mua rượu nhiều, ve chén bày ra bộn bàng ; còn biểu quân ở đàng sau nhà bếp cứ bằm thớt hoài. Nghe bằm lộp-cộp lạc-cạc hoài… Các quan tưởng có khi Cống-Quỳnh dọn trọng thể lắm. Chẳng ngờ cũng không thấy dọn chi.

Cống-Quỳnh ngồi cầm khách, cứ rót rượu mời các quan ; một chặp lại hối: trẻ coi lo dọn thoáng đi bây. Nó dạ rân. Cứ thỉnh thoảng rót rượu mời uống khan hoài; các quan đã xoàng xoàng đi hết ; thì càng vui càng nói chuyện inh-sình. Cống Quỳnh lại càng rót rượu đưa cho ông nầy ông kia ; dập thêm hoài.

Ngồi uống khan làm vậy cho đến hết nửa canh hai. Ông nào ông nấy, thôi say mèm, nằm thài-lai ra đó hết. Quân hầu đi theo, thì đã cho về hồi chiều hết rồi.

Vậy ông Cống-Quỳnh biểu quân trong nhà đưa các quan về, lại dạy nó tráo dinh hết, tới đâu thì bảo mở cửa đem thẳng vào giường kẻo ngài say đã mê-mết rồi. Quân dạ dàn võng dá ra. Võng các ổng đem lộn dinh hết.

Đến sáng ngày ra, ai nấy thức dậy ngó sao mùng mền khác lạ không phải nhà mình, xẻn-lẻn 36 ra ai về dinh nấy, biết bị Cống Quỳnh khuấy chơi rồi, căm-căm trong bụng Quỳnh dọn trọng thể lắm. Chẳng ngờ cũng không thấy dọn chi.

Cống-Quỳnh ngồi cầm khách, cứ rót rượu mời các quan ; một chặp lại hối: trẻ coi lo dọn thoáng đi bây. Nó dạ rân. Cứ thỉnh thoảng rót rượu mời uống khan hoài; các quan đã xoàng xoàng đi hết ; thì càng vui càng nói chuyện inh-sình. Cống Quỳnh lại càng rót rượu đưa cho ông nầy ông kia ; dập thêm hoài.

Ngồi uống khan làm vậy cho đến hết nửa canh hai. Ông nào ông nấy, thôi say mèm, nằm thài-lai ra đó hết. Quân hầu đi theo, thì đã cho về hồi chiều hết rồi.

Vậy ông Cống-Quỳnh biểu quân trong nhà đưa các quan về, lại dạy nó tráo dinh hết, tới đâu thì bảo mở cửa đem thẳng vào giường kẻo ngài say đã mê-mết rồi. Quân dạ dàn võng dá ra. Võng các ổng đem lộn dinh hết.

Đến sáng ngày ra, ai nấy thức dậy ngó sao mùng mền khác lạ không phải nhà mình, xẻn-lẻn [1] ra ai về dinh nấy, biết bị Cống Quỳnh khuấy chơi rồi, căm-căm trong bụng giận ông Cống Quỳnh.

Mà ông Cống Quỳnh ngoan lắm, chạy đón các quan đang đi vô chầu, nói: Cơ khổ! Tệ quá! Hôm qua cầu vui uống rượu cầm chừng chờ trẻ nó dọn ăn, mà mắc bụng đói say sớm làm không ai ăn hết ; thấy các ông say tôi hối quân võng các ông về kẻo để khuya nhiễm mù sương có khi khốn. Té ra các ông báo tôi, thôi hôm nay thịt cá ê-hề ăn không hết.

Cách năm mười bữa, Cống Quỳnh xin cấm chợ ba bữa để cho ổng phơi sách. Thiên-hạ đồn Cống Quỳnh phơi sách, đâu đó rủ nhau đến coi. Đến bữa ấy, ổng biểu quân đem chiếu trải giữa chợ, cổi quần cổi áo ra nằm giữa đó. Người ta hỏi: Ủa! Nghe nói ngài phơi sách, mà sao ngài làm làm cái gì vậy? Ổng mới chỉ cái bụng ổng nói: Sách ở trong bụng, chớ sách ở đâu?

Ông Cống Quỳnh thường hay đi đò, mà ổng không có trả tiền: tháng kia qua tháng nọ ổng cũng không có trả. Quân đưa đò nó mới đòi ổng ; ổng nói: Thôi để mai mốt tao trả cho. Ổng về mua tre mua lá, chở ra giữa dòng sông, cất lên một cái chòi, viết ba chữ dán vào đó: Chưởi cha đứa nào coi về học lại.

Thiên-hạ nghe ông Cống-Quỳnh làm gì lạ không biết, thì đua nhau tới đó mướn đò ra coi. Coi rồi vô, kẻ khác hỏi chớ giống gì vậy? Ai nấy đều nói: Nói không được, hãy ra đó mà coi lấy. Đò đưa đà không lập [2] ; lấy tiền ; lấy tiền cũng đã mê.

Dỡ chòi rồi, quân chèo đò, nó còn đòi tiền ông Cống-Quỳnh nữa. Ông mới nói: Bây mắc tao bây giờ thì có chớ, mà bây lại theo đòi tao nữa? Vậy chớ ai làm cho bây đặng mối mấy bữa đó? Bây có biết không?

Chuyện Cống Quỳnh còn nhiều đều dễ tức cười, mà như nói tinh những chuyện ấy, thì nó mất vui, mất hay đi. Để xen chuyện nầy chuyện kia nhiều thứ thì hay hơn.

Chú thích:

[1] bẻn lẻn

[2] Không kịp

31. CON CHÓ VỚI CON GÀ

CON chó đi gặp con gà trống mới chào, rồi nói: Tôi trông cho gặp anh một chuyến, mà hỏi một chuyện. Con chó mới hỏi: Trời phú tính cho anh hay, chớ phải chơi sao! Sao lại biết canh ba, lại khi gần sáng dậy mà gáy ; ngày ngày cũng vậy. Con gà nói: Cái là trời đã phú tánh hễ tới chừng thì gáy.

Rồi con gà mới hỏi: Còn như anh làm sao anh biết có người đi mà sủa? - Vốn cái tâm tôi thuộc đất: hễ động đất là động tới tâm tôi, nên tôi biết. - Mà khi anh nằm dưới đất thì làm vậy, chớ như khi anh nằm trên ván, thì biết sao được mà sủa? - Chừng tôi ở trên ván, nghe chúng sủa, thì tôi bắt chước sủa hùa theo mà thôi.

32. BỐN ANH THẦY CHÙA LÀM PHƯỚC MÀ PHẢI CHẾT

CÓ một thằng nài giữ voi, cắc-cớ cỡi voi đi ngang qua thấy buồng dừa xiêm nạo, đánh đòng đeo đó mà bẻ, chẳng ngờ con voi nó đi tuốt đi, bỏ anh ta lại tòn ten đó. May đâu bốn anh thầy sãi đi qua ; thằng chăn voi khóc la xin các thầy cứu. - Mô-phật! Biết sao bây giờ! Thôi, ta lấy áo nhựt-bình ta, mà nắm bốn người bốn chéo, cho nó buông xuôi xuống rớt vào trong ấy, thì khỏi giập xương.

Nó ở trên nó buông tay rớt xuống, mắc cao quá, cái áo nó thụn lại mạnh quá, bốn cái đầu trọc đụng lại với nhau, đâu lại thêm cái buồng dừa rớt chụp lên trên, chết tươi đi cả bốn thầy.

Thằng chăn voi sống, không biết làm sao, mới vác bốn cái thây ma đem về, để sau buồng. Đem ra một thầy nằm đàng trước ; chạy đi mướn người ta chôn. Giá cả xong rồi mới nói: Tôi nói trước với anh em, có chôn thì chôn cho tử-tế, huyệt cho sâu! Anh tôi sống chẳng lìa tôi, vì thương tôi quá, nay chết rồi, sợ có khi cũng không muốn lìa, lại ảnh là người tu, có khi có phép.

Các ảnh vác mai vác xuổng đi ra đào ; nghề làm mướn trông cho mau rồi, về lấy tiền ; mới đào sơ-sài cạn-cạn vậy, vác quách ra dập lại, khỏa đất không dện. Lăng-căng về đòi tiền.

Chủ đám ra đón nói: Cơ khổ! các anh làm tệ quá, tôi đã nói trước, làm cho người ta, thì làm cho đáng ăn đồng tiền người ta. Đó, về đó mà coi. Làm sao ảnh lót-cót về nằm đó?

Các ảnh về thấy nằm đó. Lạ dữ nầy! Vác ra lịch-ịch, đào chôn nữa, mà trời đã gần tối, lật-đật lấp lại đó, bỏ về hỏi tiền. Mới quày về thấy anh chủ đám chạy ra kêu: Các anh thật bất-nhơn quá! Đó, chôn chưa kịp khỏa đất, ảnh đã trở về nằm trỏng. Vào đó mà coi.

Các ảnh giận lụm-cụm, lại vác ra chôn nữa. Chôn vừa rồi, lại thấy chủ chạy ra la-lối om-sòm. Các ảnh nói: Lạ nầy, mấy tôi đào sâu dữ lắm mà, mà còn dậy mà về được? Vác ra. Đào huyệt sâu hơn sáu bảy thước mới bỏ xuống dện-diệt [1] tử-tế. Thôi, chuyến nầy chắc, dậy không được đâu. Kéo nhau về lấy tiền.

Đi ngang qua cái cầu ngang, trời tối mờ mờ, thấy anh thầy sãi ở đâu ngồi ỉa đó. Nó giận đã sẵn, nó mới chưởi: Mẹ cha thử! Về làm sao, về hoài về hủy đi vậy cà! Đạp anh thầy cho một đạp, rớt chủm dưới sông, uống nước chết đi.

Chú thích:

[1] Nện

33. ANH LÀM QUAN EM LÀM DÂN

HAI anh em ruột đi học với nhau một thầy, tháng ngày xôi-kinh nấu-sử với nhau. Tới kỳ ra đi thi, người anh đậu được làm quan trấn-nhậm nhằm chỗ người em ở. Mà vô tình ; chẳng có đoái hoài tới lui thăm viếng gì hết thảy. Thiên-hạ xầm-xì xầm-xả với nhau: Lạ! Sao anh em ở với nhau như mặt trời mặt trăng?

Người em mới bỏ chỗ ấy, mà xuống dưới rừng sác mà ở. Thì may người anh làm quan, đi giảng dân tại chỗ ấy, mới ghé lại nhà ; lấy viết, viết bốn câu thơ mà hỏi:

Tư bề sóng bổ xao

Ở đây nhờ lộc nào?

Con cái đặng mấy đứa?

Sưu-thuế đóng làm sao?

Người em lấy viết, viết lại bốn câu nầy:

Tư bề sống bổ xuyên

Ở đây nhờ lộc thuyền

Vợ xẻ gai chằm lưới

Chồng đánh cá đổi tiền.

34. THẰNG CHỒNG KHỜ, NGỒI ĂN CÓ DÂY DỤI

CÓ hai vợ chồng. Vợ thì lanh-lợi, tử-tế, còn chồng có chứng láu ăn. Hễ ngồi lại lua-láu ăn hối ăn hả. Cho nên vợ nó lấn lướt nó đặng.

Bữa kia có anh em bạn tới nhà chơi, nó nói với vợ nó: Có khách, mầy phải thưa phải dạ cho tử-tế, kẻo người ta chê cười. Vợ nó ừ. Một lát nó làm bộ xăng-văng chạy vô hối dọn cơm, thoáng đi mà ăn. Con vợ nó thấy nó đặng nể làm rộn-bộ quá, ních chiếc đũa bếp trên đầu nó một cái cốc.

Nó giả đò nó đánh vợ: Tao đã biểu cho săn tay nghé! Chậm sao hơn là rùa!

Khách nghe mới la: Cái anh thì thôi, để thủng-thẳng cho chĩ mần! đói khát gì mà hối dữ vậy?

Lộn ra ngồi cầm khách một chặp lại chạy vô. Nó lại đánh cho nữa. Đến chừng gần bưng cơm, vợ nó ngắt nó vô dặn: Nầy! Có người ta, ăn thì phải cho tề-chỉnh, đừng có giữ theo chứng cũ gắp lia băng-cung mà xấu hổ chúng cười. É! mà anh hay quên lắm! Để tôi cột cái dây dụi, hễ chừng nào tôi giựt cái dây dụi, thì gắp thì ăn.

- Xong xả rồi, ra mời anh em ngồi lại. Ban đầu còn giữ, khi vợ nó nhắp, thì nó và nó ăn. Vợ nó mắc xớ rớ trong bếp. Rồi thì con gà chạy ngang qua, mắc dây giựt lia! Nó ở ngoài tưởng vợ nó giựt biểu ăn mau ; trước còn cằm đũa, sau nó giựt lia, bỏ đũa xuống, hai tay bốc thuồn vào họng. Khách ngồi sửng, không biết làm sao, mà nó làm dị-cục làm vậy.