← Quay lại trang sách

Phần IV 35. ĐẠI-TRƯỢNG-PHU, CHÍ-QUÂN-TỬ, VỚI PHÚ-TRƯỞNG-GIẢ

THUỞ xưa kia có hai anh em bạn thiết, một người tên là Đại-Trượng-Phu, người kia tên Chí-Quân-Tử. Anh trước giàu có, anh sau thì nghèo. Năng tới lui chơi bời với nhau.

Hai vợ chồng anh Đại-Trượng-Phu thấy anh kia nghèo cực, thì nói: Thôi, anh nghèo không có vốn mà buôn bán, có muốn lấy năm ba trăm chi đó thì lấy, mà dùng làm vốn đi buôn cho té ra một hai đồng, mà chi độ thê-nhi.

Anh Chí-Quân-Tử nghĩ đi nghĩ lại ; mình lấy thì được đó, hai vợ chồng cũng tử-tế có lòng thương, mà mai sau rủi có lỗ hay là đều nào, thì biết lấy chi mà trả. Nên không dám lãnh, nghèo thì chịu vậy: Cám ơn anh chị có lòng với em út! Tôi tính cũng không buôn bán chi, mà hòng lấy của anh chị khó lòng.

Vợ chồng Đại-Trượng-Phu, nhà thôi đã đủ đồ, chẳng thiếu vật chi, đồ nữ-trang cũng hiếm chẳng thiếu gì, mới tính với nhau lấy vàng đem cho thợ khéo, kéo chỉ đậu một con rùa vàng để chơi. Đưa năm lượng.

Cách ít lâu, Quân-Tử lại nhà chơi. Đại-Trượng-Phu mới hỏi: Anh đã có thấy rùa vàng hay chưa? - Rùa vàng hiếm chi thiếu gì? - Không, không phải rùa vàng ngoài đồng đâu. Cái nầy rùa vàng làm bằng vàng thật. - Cái thì chưa thấy.

Đại-Trượng-Phu mới biểu vợ đi lấy đem ra coi. Coi rồi để trong cái dĩa, ngồi uống rượu, nói chuyện hoài, rót thêm rót thêm hoài, hai anh em nằm ngủ quên đi.

Thằng con trai anh Đại-Trượng-Phu đi học trường xa, chạy về thăm nhà. Thấy con rùa tốt gói trong khăn, cầm đem đi chơi. Đến khi tỉnh dậy, quên lửng con rùa vàng.

Quân-Tử từ giã kiếu về, một chặp lâu Đại-Trượng-Phu sực nhớ lại con rùa, chạy về hỏi vợ, vợ nói không cất. Khó à! Không biết tính làm sao, không có lẽ nghi cho anh em, người có bụng dạ tốt.

Bữa kia Đại-Trượng-Phu đi lên nhà Quân-Tử chơi, thì hỏi mánh rằng: Hôm trước đó, con rùa vàng anh có cầm về chị coi không? Chẳng lành thì chớ! Quân-Tử sợ anh em nghi, thì chịu bốc lấy mình có cầm về. Đại-Trượng-Phu mới nói: Thôi để đó mà chơi hề gì.

Bước chân ra về, hai vợ chồng Quân-Tử không biết tính làm sao lo mà trả cho được, người ta thấy mình nghèo, người ta nghi cũng phải, không phép chối đi. Vậy mới bán nhà bán cửa, dắt nhau đi tới với ông Phú-Trưởng-Giả giàu có muôn hộ, vào lạy ổng, xin ở làm tôi, mà xin năm lượng vàng làm rùa mà trả cho ảnh. Ông Phú-Trưởng-Giả nghe biết việc, thì lấy vàng, kêu anh thợ làm con rùa vàng trước tới làm, rồi giao cho hai vợ chồng đem về trả. Mà không cho cố-thân, giúp mà thôi. Đàng kia cũng không chịu, cứ ở làm bộ-hạ chơn tay.

Cách đôi ba bữa, con trai Đại-Trượng-Phu, chơi no con rùa, cầm về đi thăm nhà luôn trót thể, vào mới hỏi: Cha mẹ thì thôi! Hổm may là tôi, phải người ta lạ, người ta đã lấy mất con rùa vàng đi còn gì? Hai vợ chồng chưng hửng, lấy làm lạ: Mẽ! rùa nào con mình lấy đi chơi? Rùa nào anh kia đem trả, không hiểu được.

Mới định chừng có khi anh Quân-Tử sợ mình có nghi lòng ảnh, nên mới làm của khác đem mà thế.

Đại-Trượng-Phu lật đật chạy lên trên nhà Quân-Tử hỏi thăm, thì người ta nói: Quân-Tử đã bỏ xứ đi đâu trên ông Phú-Trưởng-Giả, cố-thân [1] mà lấy vàng thường con rùa vàng nào đó, nghe nói vậy, không biết nữa.

Nghe vậy lại càng thêm lo. Tìm tới nhà Phú ông, hỏi thăm có hai vợ chồng Quân-Tử hay không? Người ta nói có. Kêu ra, hai đàng khóc ròng. Đại-Trượng-Phu vào trả con rùa vàng cho Phú ông, mà lãnh vợ chồng Quân-Tử về. Phú ông là người nhơn, không chịu lấy rùa: Anh có mượn của tôi sao anh trả? Còn hai vợ chồng Quân-Tử, tôi có bắt buộc chi, mà anh xin lãnh?

Tính không xong, trả vàng không lấy ; hai vợ chồng Quân-Tử mắc nợ không đi, trả rùa cho Quân-Tử. Quân-Tử không lấy. Túng mới đề-điệu nhau ra quan, mà xin quan xử.

Té ra ba nhà hết thảy đều thật là người ngay lành trung-trực, chẳng biết kể của cải ra giống gì, nguyên lo tu đạo-đức, lấy nhơn-ngãi mà ở với nhau. Ấy mới là người Quân-Tử.

Chú thích:

[1] Đọ thân, ở đợ

36. CHÚ LÁI ĂN « BA MƯƠI ĐỒNG » THỊT HEO

CHÚ lái mới xuất thân ; mà chứng người rít-róng hà-tiện hà-tặn quá, vắt chày ra mỡ đặng. Bạn bè đi với va, ăn cực ăn khổ lắm. Tới chợ ghé lại mua ăn, sai một thằng bạn lên chợ, mua ba mươi đồng thịt quay, đem xuống hối nó xắt ra: Bây lấy cái thớt bây xắt cho tao một dĩa, còn bao nhiêu bây ăn với nhau.

Ba mươi đồng thịt xắt một dĩa, thì có lẽ nào còn dư giống gì?

37. THAM ĂN VỚI CON

NGƯỜI kia có vợ, lại có một đứa con nhỏ ba bốn tuổi. Ở không, mới chạy ra ngoài đồng, tát ao bắt được ba con cá rô. Mà chứng người tham ăn. Lụi-cụi đi chẻ gắp nướng ăn. Thằng con thấy thèm, khóc đòi ăn. Mẹ nó dỗ: Cha chả! kìa con cá vàng dữ! Để rồi cha cho con ăn. Cha nó mới nói: Vàng gì, nghệ hay sao mà vàng? Con nó lại khóc nữa. Mẹ nó dỗ không nín. Mẹ nói mới nói: Kia cà, cá béo dữ, để rồi cha mầy cho ăn. Thằng cha lại đổ quạu: Cá đó, chớ heo hay sao mà béo?

Thằng con cứ khóc hoài, dỗ hết sức không nín. Mẹ nó bồng lại chỉ gắp cá: Nầy con! Cá nướng kia cà, để chín, rồi cha con coi con nào nhỏ, cha cho một con mà ăn. Nín đi, đừng có khóc. Cha nó lại càng quạu nói: Bao con bằng nhau hết, không có con nào nhỏ.

38. ĂN CƯỚP BUỒM VÌ THẰNG BẠN KHÙNG

CHIẾC ghe bản lồng đi hụt đoàn ở sau, chèo bơ vơ đi tới khúc vắng, ăn cướp ra chận đánh. Nào bạn bè, nào lái đều buông chèo, chịu phép, tính cự không lại. Chú lái ra ngồi chò-hõ sau bóng lái [1], buồn xo, cái mặt bằng hai ngón tay tréo.

Có một thằng bạn khùng khùng, ngồi xó khuôn bếp, tay cầm hai chiếc đũa bếp. Ăn cướp bước qua ; nó cầm đũa bếp chun vào trong mui, dỡ khoang ra, ngoắt ăn cướp vào mà dọn: Đây nầy, vào mà dọn. Miệng thì kêu, tay thì cầm đũa bếp ngồi đó tỉnh-táo, như tuồng không có chuyện chi vậy.

Anh đầu đảng ăn cướp phát nghi: Mẽ! Thằng nầy, thế có khi tài nghề gì lắm đây, nên nó làm bộ tỉnh queo. Thôi, buồm ta buồm! Xô ghe ra đi mất.

Việc cơ may nhờ anh bạn buồm ; làm vậy mà khỏi bị ăn cướp.

Chú thích:

[1] Bánh lái

39. ĂN THAM HÚP CHÁO CỨT RÙA

CÓ hai vợ chồng nghèo khổ làm bạn với nhau, mới được một ít lâu. Mà người chồng thì có tánh hay ăn tham. Bữa kia đi ngoài đồng, gặp con rùa, bắt đem về ; mà sợ vợ ăn chung với thì nó ăn hết, mình ăn không có đã thèm. Vậy nó giấu đi.

Về nhà nói với vợ: Thôi, bây giờ ăn riêng, tao làm tao ăn, mầy làm mầy ăn. Mới dừng ngang, chia hai cái nhà ra. Xong xả rồi, nó mới lấy chảo, bắt nước lên, mà làm thịt con rùa, nấu cháo ăn.

Mà nghề đàn ông cụ-kệ không biết nấu, cho nên bắt con rùa để sống bỏ vào chảo nước. Bỏ đó chạy đi kiếm rau cỏ về mà ăn. Con rùa ỉa cho một bãi trong chảo, rồi nước nóng thét lấy, bò ra đi mất, chun qua chỗ bên vợ nó ở.

Đi mua rau về, chạy vô thăm, thấy cứt nổi lều bều, khen: Chà: Mới nấu nó đà nát bấy ra! Nhắc xuống đem ra húp cứt rùa một bữa no bụng, lại có khen ngon.

Bữa sau vợ nó xí được con rùa ; làm thịt nấu nướng tử-tế, qua mời chồng qua ăn. Hỏi thịt gì? Nói thịt rùa. Nó lại có khen: Chà bay! Con rùa có thịt béo biết ngon nầy! Hôm trước tao có bắt được một con ; mà tao nấu nó ra nước hết. Từ ấy mới thôi, mới hết ăn riêng, ở riêng.

40. LÀM TỈNH ĐƯỢC VIỆC, RỘN KHÔNG XONG

CÓ ông kia giàu có, mà nhà ở cheo leo một mình giữa cái cù-lao. Bữa ấy nước ròng, ăn cướp rủ nhau tới đánh, ghe nó đà áp vào tứ phía. Trong nhà bấn loạn [1] sợ đà té đái, mà ông chủ gượng làm oai, họa may nó có kiêng nó đi đi chăng ; mới làm bộ kêu trẻ thức dậy thắp đèn.

Trẻ thưa: Có ăn cướp nó đà vây bốn phía. Ông chủ nói: Vậy thì càng hay ; may cha chả là may! Bấy lâu nay trông cho các ảnh tới một chuyến, mà không thấy! Thôi, bây mở cửa ra hết cho khoảng-khoát.

Các bợm ở dưới ghe nghe nói ; thôi đà nổi ốc cùng mình: Mẹ ôi! Lão nầy có khi tài lắm đấy bây? Không biết cơ-mưu nó làm sao mà mình dám vô… Thôi, chi bằng ta lui đi chỗ khác. Hè nhau chống ghe đi ráo.

Chú thích:

[1] Rối loạn

41. NƯỚC TỚI TRÔN MỚI NHẢY

THUỞ ông Thượng trấn Nam-Kỳ lục-tỉnh, thì thiên-hạ bằng [1]yên. Trộm cướp, gian-giảo tịnh vô không có. Là vì người có oai lắm, người là bộ, mà tính-khí cang-cường, oai-dõng nghiêm-nhặt, binh-dân ai nấy đều khiếp vía. Hễ dạy chém thì chém, không ai dám cãi lịnh. Quờn [2] người lớn đặng tiền trảm hậu tấu.

Bữa kia người đang nghỉ trưa, mới biểu đem chém thằng kia ở phòng trà. Rồi người thức dậy, bộ buồn bực. Tới buổi ra khách, đưa tội nhơn bị án tử hồi nãy dẫn ra ; mà nó lấy cái gáo múc nước kẹp dưới háng ra ; nhảy cà-tứng trước mặt ông ấy. Thì ổng tức cười, hỏi nó làm gì vậy? Nó mới gởi: Bẩm lịnh ông lớn: Tôi nó đã cùng ; nước tới trôn mới nhảy, biết làm sao bây giờ. Thì ông lớn tha nó đi.

Chú thích:

[1] Bình

[2] Quyền

42. TRÂU MỌT CHẢY NƯỚC

THẰNG cha kia nghèo, dại đặc [1] không biết làm một cái gì hết. Nghe người ta nói nghề làm ruộng, thì khá chắc ăn. Vậy nó mới vác tiền đi coi trâu mà mua. Đi cùng xứ, tối ngày vác tiền về. Vợ nó hỏi: Chớ đi mua trâu, làm sao một ngày trọn, mà không đặng con nào hết? Nó mới nói: Trâu hiếm lắm thiếu gì? Mà lựa không được con nào nên thân mà mua ; con nào con nấy mọt ăn, chảy nước ra hết. Là vì nó ngó thấy trâu đái, nó nói trâu có mọt, chảy nước dưới bụng.

Chú thích:

[1] Dốt đặc

43. TRẦN-MIÊN-KHỐ-CHUỐI

THUỞ xưa có một anh học trò khó, tên là Trần-Miên-Khố-Chuối, con nhà khó khăn, mà hay siêng-năng cần quyền việc học-hành ; nghèo là quá đổi nghèo, áo quần xơ-xải rách te rách nát, vá trăm cật [1]; lấy lá chuối mà đống khố. Theo chìu lòn học trò giàu, mà nhờ hột cơm rớt, ăn những cơm thừa cá cặn. Chúng bạn chẳng nghĩ hất hủi đày đọa tất tưởi bắt quét trường, múc nước, mài mực. Tối tăm đèn dầu chẳng có, theo nhờ sáng trăng, cùng là nháng đốm-đốm mà coi mà học, đêm ngày xôi-kinh nấu sử chẳng nệ khó nhọc.

Đến buổi mở hội thi, thì chúng bạn tựu trường ; anh ta cũng theo ôm trắp cho chúng mà đi. Ai nói là tên học trò? Tưởng là đệ-tử theo phò các thầy quần dài áo rộng. Mà nhờ hoàng-thiên bất phụ độc thơ nhơn, phát phước thi đậu, sau được vinh-vang [2] . Còn mấy anh em bạn thì rớt hết.

Ở đời có kẻ giả dại qua ải cứ thủ phận, bèo theo bèo, sen theo sen, lần hồi mà trời độ vận lập thân nên. Con nhà học trò cũng nên lấy đó mà bắt chước, lấy đó mà suy hai chữ thạnh suy, là đường con tạo hay đi với đời.

Chú thích:

[1] Mảnh

[2] Vẻ vang

44. BÀI THƠ CÁI LƯỠI

ÔNG Nguyễn-Đăng-Dai, là người công-thần với nhà nước, đánh Nam dẹp Bắc ; trấn cõi Bắc mấy năm, thiên-hạ bình yên, bá-tánh an-cư lạc-nghiệp. Đang giữa đám công danh, lâm bịnh mà chết. Để lại một người con, học-hành chữ nghĩa văn-chương cũng chẳng thua gì ai. Nối nghiệp cha, cũng làm quan ở phẩm hàm, hưởng lộc nước.

Bữa kia nhằm lúc chuyện ông Hoàng-Bảo mới rồi, vua đãi yến các quan ; ngài ăn cắn nhằm lưỡi ; luôn dịp ngài ban mời các quan làm thơ chơi. Lấy việc ăn cắn nhằm lưỡi làm đề. Ai nấy đều làm. Coi thơ các quan rồi ; tới con ông Dai, quì xuống dưng bài thơ mình. Bài thơ tứ-cú đặt như vầy:

Ngã sinh chi sơ, nhữ vị sinh,

Nhữ sinh chi hậu, ngã vi huynh.

Kim triêu hạnh hưởng cao lương vị,

Hà nhãn độc thương cốt nhục tình?

Bài thơ làm thì hay, mà có xâm [1] trách vua sao chẳng nghĩ tình anh em cốt-nhục, mà nỡ ra tay hại ông Hoàng-Bảo là anh. Cho nên vua dạy đem ông ấy ra cửa Ngọ-môn, mà phạt ít chục hồng-côn. Rồi đem vàng bạc thưởng tài người hay.

Chú thích:

[1] Ngầm

45. ANH HỌC TRÒ SỬA LIỄN CỬA NGÕ PHỦ ÔNG HOÀNG

CÓ người học trò còn nhỏ tuổi mà đã già [1] chữ nghĩa lắm. Lúc dọn phủ cho đức ông nhứt ở, thì triều-đình có hội nhau lại, mà đặt một câu liễn cửa ngõ đức ông. Đắp chữ vôi thếp vàng tử-tế.

Hai câu ấy đặt như vầy:

Tử năng thừa phụ nghiệp.

Thần khả báo quân ân.

Anh học trò đi ngang qua cửa, thấy câu liễn, đứng lại coi, không ưng ý: đi học về giận đứng lại đó, không cất nón. Quân canh nhựt cửa đó, liền bắt ; hỏi sao vô phép không cất nón? Có biết đó là phủ ông nào chăng? Người học trò nói: Tôi biết, mà mắc tôi giận, thấy câu liễn đặt không nhằm, nên quên lấy nón xuống.

Quân mới dẫn vào Thái-tử đông-cung. Đức ông hỏi. Người học trò cũng cứ khai thiệt làm vậy. Chừng đức ông cho mời đình-thần vào, mới kể tự sự cho các quan nghe, rằng tên học trò chê câu liễn các quan đã đặt ngoài cửa.

Vậy mới hỏi học trò, vì làm sao mà chê, bây giờ có dễ sửa lại hay không? Thì anh học trò nói: Đặng. Đức ông biểu: Bẻ làm sao thì bẻ đi, rồi sửa đi thử coi. Anh học trò mới bẩm: câu liễn ấy thất lễ, là vì đặt con đứng trước cha, tôi đứng trước vua ; làm vậy sao cho phải? - Ừ, nói nghe được. Mà bây giờ sửa lại làm sao? - Bẩm lịnh các ông lớn, sửa lại như vầy, thì hay quyết [2] đi mà thôi.

Phụ nghiệp tử năng thừa.

Quân ân thần khả báo.

Các quan ai nấy đều khen. Vua cho người ấy đậu tấn-sĩ: lại ban cho một ngàn quan tiền thưởng tài ; triều-đình lại thưởng ít ngàn nữa.

Chú thích:

[1] Giỏi

[2] tuyệt

46. TRÉT CHAI CHO TRƠN

TÊN thợ lấp vò kia ngồi nơi trại một mình, đang nấu chai mà trét ghe. Xảy đâu có một tên trên rẫy cỡi lừa đi ngang đó, thấy lạ, mới đứng lại, nhảy xuống, bước vô coi và hỏi rằng: Không biết anh nấu chi đó hé? - Chú mầy không thấy nấu chai đó sao? - Nấu chai làm chi vậy, anh? - Nấu chai trét ghe, chớ làm chi? Thuở nay không thấy người ta trét ghe sao? - Tôi ở trên rẫy, ghe cộ đâu mà thấy? Mà trét làm chi vậy, anh? Khéo hỏi không! trét cho nó trơn, cho ghe đi cho mau.

Vậy hà! …Tôi không có ghe, mà có con lừa đây, nó chạy tợ rùa bò. Không biết ước chừng trét chai nó, nó có trơn, có chạy mau hơn không? - Mau lắm chớ! - The thía! Không dám nào xin anh làm ơn trét giùm nó cho tôi chút ; được không? - Sao không được? Đâu chú mầy vén cậy đuôi nó lên, qua trét giùm cho mà coi.

Tên rẫy mừng, dắt lừa lại, vén luốt đuôi lên, chú thợ múc một vá chai sôi, hất tạt vô chỗ ấy đó… Con lừa bèn nhảy nai, phóng riết… Tên rẫy mừng khen rằng: Phép hay thiệt! Cám ơn anh!… Ủa cơ khổ! Thôi rồi! Nó chạy mau quá, mất rồi… Tôi theo bắt sao cho kịp?… Thôi, anh chịu khó làm ơn trét tôi luôn thể, trét bằng hai, cho tôi rượt cho kịp. - Mặc ý.

Chú thợ tạt cho một vá chai sôi ; anh ta nhủi xuống, la lên: Cha ôi! chết tôi! trơn đâu mà chạy!.

47. THẦY BÓI BỊ TRÁC CỔI QUẦN VẮT VAI ĐI GIỮA CHỢ

THẰNG cha thầy bói kia, đi đâu, có mướn đứa dắt để chỉ chừng đường sá. Mà nhằm đứa lý-lắc hay chơi pha-lửng ; dặn nó hễ có mương thì nó la lên, cho thầy ta biết mà nhảy kẻo sụp.

Đi ngang qua chợ đông, nó muốn khuấy chơi, nó nói: Mương, thầy, mương! Nhảy, thầy, nhảy! Thầy nghe nói nhảy một chặp. Rồi nó nói: Đây cái hào lớn, thầy cổi quần ra mà lội mới được. Anh thầy tin tưởng là thật, cổi tuột quần ra vắt vai đi xung xăng giữa chợ. Thiên-hạ thấy trếu làm vậy, thì cười om cả chợ.