← Quay lại trang sách

Phần I 1- CHÍ KHÍ CAO

Thuở xưa vua Nghiêu muốn truyền ngôi cho Hứa Do (1) bèn đòi Hứa Do tới mà dạy rằng: trẩm nghe ngươi có đức lớn, trẩm muốn truyền ngôi cho ngươi, ngươi phải nối ngôi cho trẩm mà làm vua thiên hạ. Hứa Do nghe nói, tức cười, vội vàng đi xuống suối mà rửa tai. Cũng một khi ấy có người Sào Phủ là người giữ trâu đem trâu xuống suôi mà cho uống nước, thấy Hứa Do đương lum khum rửa tai, hỏi Hứa Do làm sao mà rửa tai? Hứa Do lắc đầu nói: ông Nghiêu đòi tôi, biểu tôi thì làm vua. Sào phủ nghe nói, liền đem trâu lên trên dòng nước mà cho uống. Hứa Do hỏi làm sao anh lại đem trâu lên trên ấy mà cho uống? sào Phủ rằng: anh rửa tai anh xuống đó, tôi sợ trâu tôi uống nhằm. Sào Phủ lại rằng: anh đi đâu cho người ta biết anh mà muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại bụng anh hãy còn danh lợi.

Nghe mà rửa chi bằng giữ vẹn đừng nghe.

Chú thích:

(1) Sách Trang tử nói: Hứa Do là người hiền đức, thuở ấy thưa lại rằng: Tiêu liêu sào lâm bất quá nhứt chi, yển thử ẩm hà bất quá mãn phúc, nghĩa là chim tiêu liêu làm ổ, bất quá trong một nhánh cây; trâu đầm uống nước chẳng qua đầy bụng, nhường hết thiên hạ cho tôi, cũng chẳng làm gì.

2- CÂU TIẾNG CHƯỞI CHO RỤNG LÔNG VỊT

Có một ông già nhơn đức hiền lành, cả đời không hề biêt chưởi ai. Lối xóm có đứa gian thấy ông ấy nuôi vịt, lén tới bắt trộm một con, đem về làm thịt mà ăn. Đứa gian ấy ăn con vịt rồi, không biết làm sao lông vịt mọc ra đầy mình, lấy làm sợ hãi; phần thì xốn xang khó chịu, phần thì xấu hổ, không dám ra khỏi nhà, vợ con nó chạy thuốc thang gì uống vào lông vịt cũng không rụng, nó lại càng kinh hãi hơn nữa; nó cầu khẩn hết sức, xin cho khỏi tật gì quái gỡ như vậy! Đêm kia nó nằm chiêm bao thấy thần nhơn mách bảo rằng: phải lạy ông già nhơn đức ấy, xin ông ấy chưởi cho một tiếng, thì rụng hết lông vịt, chẳng phải cầu thầy chạy thuốc làm chi. Trời vừa rựng sáng, thằng ăn trộm vịt, lật đật qua nhà ông già, ban đầu kiếm đều nói dối, mà rằng: tôi nghe ông mất một con vịt, tôi thấy thằng ở một bên tôi ăn cắp, nó sợ chưởi lắm, nếu ông chịu chưởi một tiếng, nó phải trả lại cho ông bây giờ. Ông già nói: Ối thôi! Mất còn, còn mất cũng chẳng làm gì, ai có hơi đâu mà chưởi nó cho mệt. Thằng ăn cắp thấy ông già không chịu chưởi, tức mình phải lạy mà thú thiệt rằng: tôi ăn cắp vịt ông mà bởi tôi ăn thịt nó rồi thì mình mẩy tôi mọc đầy những lông vịt, uống thuốc gì cũng không rụng; nay có thần nhơn mách bảo, dạy tôi phải thú thiệt cùng ông, xin ông chưởi một tiếng thì lông vịt sẽ rụng hết; vậy xin ông làm phước, chưởi giùm cho tôi một tiếng, kẻo tôi đau đớn khó chịu lắm. Nó và nói và khóc, ông già thấy vậy động lòng, mới chưởi một tiếng, tức thì lông vịt trong mình thằng ăn cắp rụng sạch, trơn tru lại như cũ.

Kẻ bày chuyện bàn rằng: ấy tội ăn trộm đáng sợ hãi là dường nào, vì một lần ăn trộm mà lông vịt mọc ra đầy mình; vã sự chưởi bới cũng nên xa lánh là thế nào, vì một tiếng chưởi trừ hết tội ăn trộm.

3- ĐỊA NGỤC Ở MIỀN DƯƠNG GIAN

Có một người chết tức, phải đi theo quỉ xuống âm phủ, vua Minh Vương tra bộ không có tên, nói quỉ bắt lầm, dạy quỉ phải đem trả lại dương gian. Người bị quỉ bắt lầm có ý tọc mạch, muốn coi chỗ âm ti ra làm sao, mới nói nhỏ với quỉ, xin đem đi coi cho biết. Quỉ nghe lời, dẫn nguời ấy đi coi khắp chín cửa ngục, tới một chỗ thấy có một thầy sải bị cột ngang bắp vế mà treo ngược lên, kêu van rên siếc khốn nạn. Người ấy bước gần, coi tạn mặt, thì là anh ruột mình, liền thất kinh hỏi quỉ làm sao mà anh mình phải treo lên khốn khổ như vậy. Quỉ nói tại nó quyên tiền người ta, tưởng để mà làm phước, chẳng dè quyên đặng bao nhiêu, nó đánh bạc hết bấy nhiêu, cho nên phải phạt tội nó như vậy. Người ấy lại hỏi quỉ: có lẽ gì mà cứu anh mình chăng? Quỉ nói phải ăn năn sám hối thì khỏi.

Đến khi người quỉ bắt lầm sống lại, nhớ việc mình thấy dưới âm phủ, bèn tưởng tới người anh ruột đương tu bên chùa Tập Phước, mới đi qua đó mà thăm anh. Tới nơi thấy anh nằm xó vách, đau một cái ung lớn ở duới bắp vế, phải treo chơn lên, in như chuyện thấy dưới âm phủ, thì lấy làm sợ hãi, hỏi anh làm sao mà phải treo chơn lên? Người anh nói: tao đau cái ung độc dữ quá, nêu không treo chơn lên, thì nó đau thấu ruột gan. Người em học lại mọi việc mình đã thấy dưới âm phủ cùng các lời quỉ nói, thì người anh thất kinh ăn năn thống hối, qua ít ngày chỗ ung độc lành; từ ấy mới trở nên một ông thầy sải tốt.

Kẻ bày chuyện bàn rằng: đứa tiểu nhơn thường nói chừng nào xuống địa ngục sẽ hay; mà chẳng biết những sự họa hại ở đời này, thì rõ ràng là hình phạt dưới địa ngục.

3- ĂN MÀY XIN VÀNG NÉN

Có một người giàu có lớn, mà hà tiện cũng lớn, cứ bo bo giữ của không chịu làm phước cho ai. Có một tên ăn mày tới xin quyết một nén vàng, người nhà giàu phát giận, nói giá ăn mày dám xin tới vàng nén, biểu đày tớ đuổi đi. Tên ăn mày la lết không chịu đi, cứ việc ở trước nhà mà xin mãi. Trong nhà không ai thèm nói tới, tên ăn mày sớm đi xin ăn chỗ khác, trưa lại lộn về ở tại nhà giàu mà nài hoài cho đặng nén vàng. Nó làm như vậy đã đặng ba năm, người nhà giàu thấy nó có công gắng vó, cũng mỏi lòng mà chịu cho. Tên ăn mày được nén vàng, thì làm bộ nhảy nhót mầng rỡ bội phần, liền cổi áo gói lại mà đi. Khi tên ăn mày đi ra một đỗi, thì người nhà giàu sai một đứa đầy tớ theo rình coi lão ăn mày đem nén vàng đi đâu, cùng làm chuyện gì với nén vàng. Tên đây tớ đi theo xa xa, thấy lão ăn mày đi thẳng ra ngoài đồng, tới chỗ bóng mát ngồi xuống mở áo lấy nén vàng, dồi lên dồi xuống mà giởn chơi, coi ra ý mầng rỡ lắm. Cách một hồi lão ấy buồn ngủ, nằm chèo queo, nén vàng thì để trần một bên chỗ ngủ. Đứa đầy tớ nom đặng, chờ lão ăn mày ngủ mòm, lén lại lấy nén vàng đem về cho chủ, chủ mầng còn nén vàng, liền đem đi cất. Lão ăn mày thức dậy thấy mất nén vàng, không thèm tìm kiếm, xăm xăm trở lại nhà giàu mà xin nén khác. Ông nhà gìau nói: mới cho một nén làm gì hết đi, mà còn xin nữa? Lão ăn mày nói: tôi vừa nhắm mắt, nó liền mất đi, nên phải xin ông nén khác. Ông nhà giàu nghe nói, dường như ai soi sáng tấm lòng, liền hiểu sự đời: hể con người ta nhắm mắt rồi thì chẳng còn của cải sự nghiệp gì nữa; mới khẫn nguyền xin táng của cải mà làm phước với thiên hạ; sau nghĩ lại, mới biết người ăn mày ấy là tiên.

5- ĐẦU THAI BA KIẾP

Họ lưu hay nhớ việc kiếp trước, nói có một kiếp mình sanh làm chức quan, mà tánh hạnh xấu xa; đến khi được 62 tuổi thì chết, xuống chầu vua Minh Vương, nhờ ơn tiếp đãi cũng như quan. Đến lúc tra bộ, vua Minh Vương thấy y có nhiều vít tích, bèn nổi giận dạy quỉ kéo y xuống, bắt đi đầu thai làm ngựa. Quỉ vâng lời bắt y trói lại, dẫn đi tới một cái nhà ngạch cửa cao, y vừa xắm rắm bước qua, quỉ đánh thét đau lắm, y té quị xuống, ngó lại thì thấy mình ở chuồng ngựa, nghe tiếng người ta văng vẳng rằng: con ngựa cái đẻ được một con ngựa đực ngộ nghỉnh. Trong trí y hiểu rõ ràng, ngặt nói ra không được. Khi ấy đói lắm, cực chẳng đã, y phải bú con ngựa cái. Đến khi được bốn năm tuổi, thì cao lớn mà nhát roi, chủ cởi có yên nệm, cho đi chậm chậm, thì dễ chịu; mắc sắp đầy tớ cởi trần, hai mắt cá nó thúc vào hông thì đau thấu tim phổi, tức mình y bỏ ăn ba ngày mà chết. Vua Minh Vương tra bộ, nói y chưa mãn phạt, quỡ sao có ý tránh trút, dạy quỉ lột da, bắt đi làm chó. Y lấy làm xấu hổ, quỉ đánh xối, đau đòn, y có ý nhào xuống dưới chơn tường cho chết; té ra mình nằm dưới chỗ chó đẻ, con chó cái lại mà cho bú,thì mới biết mình sinh ra một lần nữa. Lớn lên thấy phẩn cũng biết dơ, mà ngửi thì nghe thơm; song y thề lòng không chịu ăn. Thân làm chó mấy năm, lấy làm tức tối, muốn chết mà sợ vua Minh Vương nói mình cố ý qui tị, còn ông chủ nhà lại nuôi dưỡng tử tế không chịu giết. Ngày kia, y cố ý cắn ông chủ nhà rách thịt ra. Ông chủ nhà giận mới đập y một gậy, y chết xuống hầu vua Minh Vương, vua Minh Vương giận y sao làm chó dại, đánh ít trăm, bắt đi làm rắn, bỏ y vào khám tối. Y leo vách, đục nhà mà chun ra, ngó lại thì mình đã hóa rắn thiệt, nằm dưới cỏ. Khi ấy y mới làm lời nguyện không hại loài sống, cứ nuốt trái cây mà chịu. Làm rắn dày năm, nghĩ muốn tự vận mà sợ phép, hại người ta mà chết cũng không khá, y mới lập tâm kiếm một phép chết cho êm. Vậy ngày kia, y đương nằm trong bụi, nghe tiếng xe đi ngang, y mới bò ra nằm giữa đàng, xe liền cán y đứt làm hai đoạn. Vua Minh Vương thấy y lại mau mau trở xuống, cũng lấy làm lạ, nhưng vậy thấy y khiêm nhượng xưng thiệt mọi đều, cũng nghĩ về sự y vô tội mà bị hại, bèn cho phép y đầu thai làm người là ông Lưu công. Lưu công sanh ra liền biết nói, văn chươg kinh sử coi qua liền thuộc, năm tân dậu cử bậc hiếu liêm, thường khuyên người ta rằng cỡi ngựa phải lót lá phủ, còn sự cỡi trần mà thúc mắt cá, thì đau ngựa hơn là đánh roi.

Sách dị sử nói rằng: giữa loài lông sừng mà có bậc vương công cùng quan lớn lộn vào, ấy là tại giữa bậc vương công cùng quan lớn, chưa chắc là không có loài lông sừng chen vào vậy. Con người ở đời phải làm lành: kè hèn làm lành cũng như là trồng cây mà hái hoa; kẻ quí làm lành cũng như đã có hoa mà bồi lấy cây. Hễ trồng cây thì cây lớn; bồi cây thì cây bền. Nếu chẳng vậy, thì có khi phải kéo xe, phải người ta dàm khớp mà làm ngựa; hoặc phải ăn dơ, bị người ta ăn thịt mà làm chó; hoặc phải trườn bò có vãy có vi, phải bà cắt, thầy bòi ăn mà làm rắn.

6- KIỆN MẤT NÀNG DÂU

Đời nhà Minh có một người cưới vợ, vừa rước về tới nhà, dở màn ra thì thấy kiệu không. Hai họ lấy làm chuyện dối nhau, bèn đi thưa tới quan huyện sở tại. Quan huyện hỏi, mai dong cùng đầu tộc đầu quả quyết rằng: nàng dâu có lên xe. Quan huyện chưa biết xử làm sao. Nhằm lúc có việc gấp, quan huyện phải đi khám điền, tới chỗ giáp giái, thấy có một cây cao lớn dị thường, tàn nó che hết hai mươi mấy mẫu ruộng, không ai cày cấy đặng. Ý quan huyện muốn đốn đi mà các người già cả cùng các kẻ theo hầu can gián, nói là chỗ thần nương dựa, nếu dân sự có đều không cung kính thì phải đau phải bịnh mà chết. Quan huyện không nghe, bắt dân tráng vài mươi người, cầm binh trượng, nổi chiêng trống kéo tới gần gốc cây, xảy thấy ba người mặc áo mão đón đàng, đứng bên phía tả mà phân rằng: chúng tôi là thần cây nầy, ở đây đã nhiều năm, xin quan huyện lấy lòng nhơn mà tha thứ. Quan huyện nạt lên một tiếng, ba người ấy biến mất, liền dạy trai vác rìu xốc vào, vừa chém xuống thì thấy chảy máu ra, ai này đều sợ hãi mà dang ra. Quan huyện tức giận giựt rìu đốn một mình, ai nấy sợ phải trở vào mà đốn. Cốt hơn hai trăm lưỡi rìu cây ấy mới đứt, thấy trên ngọn cây có một ổ lớn, có ba người đờn bà trong ổ rớt xuống gần chết, người ta đổ thuốc cách một hồi mới sống lại. Hỏi làm sao mà ở trên cây, ba người đờn bà nói: năm trước chúng tôi bị bão đưa lên trên ấy, ở đó cũng như ở trên lầu cao có ba người vui vầy, ăn uống đồ mỹ vị, thường ngó xuống dưới lầu, thì thấy thành thị ở trước mặt, có một đều không thang mà xuống, không dè là ở trên ngọn cây. Quan huyện hỏi kỉ quê quán, đều cho đưa chúng nó về, tra ra có một đứa chánh là con dâu ngồi kiệu mà mất đi, thì vụ kiện mất nàng dâu mới yên. Quan huyện lấy cây lớn ấy phá ra mà làm nhà khách, từ ấy mới hết yêu quỉ, đất xung quanh trở nên ruộng tốt.

Ấy ma có không là tại nơi người, hễ tin thì có, mà mạnh mẽ không tin như quan huyện ấy thì là không có.

7- PHẬT ĐỔ MỒ HÔI

Có tiếng đồn tượng phật ở chùa Biện Châu đổ mồ hôi, ai nấy đua nhau đi coi, kẻ cúng món này, người dâng món khác, lễ vật đầy đàng; nhứt là đờn bà thì có nhiều người đem hàng giẻ chặm mồ hôi để may áo cho con, lấy làm linh thính: con bận đặng áo ấy thì sức mạnh bình yên.

Quan phủ sở tại cũng lật đật đem vàng bạc tới cúng; bà phù lại làm chay. Bỡi đó các quan văn võ, làng xóm cùng các người buôn bán, rùng rùng đem tiền bạc tới cúng, dật dều đàng sá, giành nhau sợ mình cúng sau. Quan phủ cho người đi coi, ai cúng bao nhiêu đều biên vào sổ. Cách mươi bữa người dạy đóng cửa chùa, nói rằng phật hết đổ mồ hôi, không can chi phải cúng nữa. Tính trong ngày người ta cúng dư muôn, quan phủ dạy đem hết vào kho, để mà phát cho quân lính.

Ấy quan phủ thấy người ta có thói đua nhau đem tiền bạc mà làm chuyện vô ích, thì người dùng chước thâu trữ, để mà làm việc có ích.

8- MƠ TƯỞNG VIỆC KHÔNG CÓ

Xưa có một người tới số phải đi đầu thai, nài vua Luân hồi phải у như lời xin thì mới chịu đi. Vua Luân hồi hỏi xin làm sao, người ấy tâu xin cho: cha làm Thượng thơ, con Trạng nguyên; quanh nhà ngàn khoảnh nhứt hạng điền; ao sâu vưòn rộng loài loài sẵn; vợ tốt hầu xinh thảy thảy hiền; đầy nhà vàng ngọc cùng gạo lúa; đầy tủ giẻ hàng với bạc tiền; mình ngồi phẩm nhứt trong thiên hạ; an hưởng vinh hoa thọ bách niên. Vua Luân hồi nói quả có kiểng vui dường ấy, thì chẳng hết cho trẩm đi, có đâu cho tới nhà ngươi.

Có mấy người anh em bạn ngồi nói chơi, hỏi ý nhau muốn làm sao? Có người nói ý mình muốn vàng bạc cho nhiều; có người nói ý mình muốn làm quan Thứ sử Quảng Lăng; có người nói ý mình muốn cỡi hạc mà lên cõi tiên. Người thứ tư nghe các người ấy nói như vậy, thì cười mà rằng: ý tôi muốn cột tiền lưng mười vạn, cỡi hạc mà lên cõi Dương Châu.

Người bày chuyện bàn rằng: con người sanh ra ở đời chẳng có sự chi bền chắc; nếu mình có ý vọng tưởng, thì chi bằng câu cỡi hạc mà lên cõi tiên.

Chuyện khiển sầu.

9- NÓI MỊ

Có một người hay nói thù phụng, đi viếng một ông huyện, vừa vào tới dinh thì khen rằng: quan huyện nhơn đức, thứ dữ cũng phải cảm mà tránh đi phương xa; bữa qua tôi vào tới địa hạt, tôi thấy cọp kéo nhau cả bầy mà đi sang phía bắc. Quan huyện nghe tiếng nói mị thì không ưa, nhưng vậy cũng gượng gạo làm vui mà tiếp khách. Cách một hồi làng tới báo rằng đêm bữa qua cọp ăn hết ba mạng, xin quan huyện truyền quân ví bắt cho kíp, kẻo nó ăn hết thiên hạ. Ông huyện hỏi nhơn sao làng nói một thể, thầy nói một thể? Người bạn hữu cười mà nói gượng rằng: trong thể các ngài bắt người ta theo dọc đàng đó.

10- CHUYÊN MÌNH THÌ QUÁNG

Vợ ngươi Hứa Doãn có đức hạnh mà kém bề nhan sắc, Hứa Doãn hỏi: Nghe nói đờn bà có bốn đức (l), mà cô có mấy? Người vợ trả lời rằng: tôi kém có một bề nhan sắc mà thôi chớ, tôi nghe con nhà học trò có trăm hạnh, vậy cậu có bao nhiêu hạnh? Hứa Doãn nói: hạnh nào tôi cũng đủ. Vợ rằng: người ta có một bịnh là không biết mình, cậu ham nhan sắc hơn đức hạnh, sao cậu dám nói rằng đủ? Hứa Doãn nghe nói liền hổ thẹn, từ ấy mới thật lòng kính thương vợ cho đến trọn đời.

Chú thích:

(1) Bốn đức là công, dung, ngôn, hạnh.