Phần II 11- ANH EM RUỘT GIÀNH GIA TÀI
Hai anh em thằng Mít chia gia tài giành lộn với nhau, đi mời xã trưởng phân xử. Chú xã cũng biết một hai câu chữ, tới tại nhà hỏi hai anh em bất bình với nhau làm sao? Người anh nói em tham, chia nhiều mà còn chê ít; người em nói anh muốn giành lấy một mình. Chú xã nói cả hai anh em không biết đều, trong sách có nói: chẳng lẽ coi tiền của hơn anh em, sao không biết xét mà đi giành xé với nhau cho mất sự thuận hòa trong gia đạo, lại làm cho mất thói lịch sự trong xóm làng; vã lại lời tục có nói rằng: đống trấu nhà chẳng để cho gà người bươi. Hai anh em phải tính cho êm với nhau thì là hơn. Hai anh em nghe nói bèn an lòng chia chác với nhau xong xuôi.
Cách ít ngày tới việc chú xã, người em chú xã cũng lấy sự chú xã tham muốn giành phần nhiều, mà đi kiện tới tổng. Hai anh em chú xã lại so đo hơn thiệt ngầy ngà với nhau quá hơn hai anh em thằng Mít. Hai anh em thằng Mít hay đặng mới đi hỏi chú xã: chớ sao ngày trước nhằm việc vuối tôi, thì cậu trưng sách vở mà giải hòa, nay tới việc cậu, coi ý cậu so đo ngầy ngà quá vuối tôi, vậy thì tình cốt nhục cùng phép lịch sự cậu ở đâu? Tên xã nói: ngày trước là việc các chú, gia tài cũng là của các chú, các chú hơn thua với nhau chẳng động gì đến tôi, cho nên tôi nói phải; chớ việc bây giờ là việc anh em tôi, gia tài cũng của anh em tôi, tôi không nói thì đau lòng, tức mình tôi phải nói; huống chi xử việc có kinh có quyền, ngày trrớc việc các chú là chánh kinh, ngày nay việc vuối tôi là tùng quyền, có khi dùng sách có khi bỏ sách.
12- VẼ HÌNH VAY BẠC
Tên Giáp túng xài tới nhà anh em bạn mà hỏi tiền. Người anh em bạn chịu cho, mà nài phải làm giấy. Tên Giáp lật đật về làm giấy đem qua, mà đứng giấy có một mình. Anh em bạn hỏi sao chị không đứng vào cho vui? Lại rằng: anh em mình vuối nhau, khi anh túng khi tôi túng, đặt ra làm giấy cho có chừng, đề phòng khi tôi túng, anh nhớ mà trả, chẳng phải tôi bắt nhặt anh trong đều ấy. Tên Giáp mau mau về nói vợ điềm chỉ vào giấy, đem qua cho anh em bạn. Người anh em bạn coi giấy, ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi lại nói rằng: giấy nầy, anh làm có ngày có tháng, vốn lời, giao ước chắc chắn, mà ngặt chưa nhằm ý tôi. Tên Giáp hỏi ý anh muốn làm sao? Người anh em bạn nói ý tôi muốn cho anh mua một tờ giấy kinh huyện cho lớn, rồi rước một tên thợ vẽ cho khéo. Tên Giáp hỏi mua giấy lớn, rước thợ vẽ cho khéo mà làm gì? Anh em bạn nói tôi thấy thuở nay ai nấy vay hỏi, thì cũng làm giấy như anh, song đến khi trả thì thường có điều khó lòng, không phải thế; cho nên ý tôi muốn cho anh mua giấy lớn, rước thợ vẽ khéo mà vẽ một tấm tượng cho y như chuyện hôm nay: là vẽ anh tới hỏi tiền tôi thì vui vẻ; và tôi cho anh cũng vui vẻ; vẽ đến khi đủ ngày tháng tôi đòi, anh trả cũng vui vẻ, đừng có cái mặt bò hung.
13- CHUYỆN VƯƠNG THẬP
Tên Vương Thập là dân ở đất Cao Uyễn, đi vác muối lậu ban đêm gặp hai người đi đàng, ngỡ là quân canh ở hãng muối, lật đật quăng bao muối mà chạy; chẳng dè cóng chơn muốn chạy mà chạy không đặng, liền bị hai người ấy bắt, năn nĩ xin tha. Hai người ấy nói: ta chẳng phải là người ở hãng muối, vốn ta là quỉ. Thập sợ nói: có bắt thì cho tôi về nhà từ giã vợ con. Quỉ không cho, nói bắt mầy đây chẳng phải là bắt chết, chẳng qua là bắt đi làm xâu đở ít ngày mà thôi. Thập hỏi đi xâu việc gì? Quỉ nói dưới đền Diêm La, sông Nại Hà ứ lại, mười tám hầm phẩn tràn trề, cho nên phải bắt ba thứ người vét; còn bắt mấy đứa ăn cắp vặt, mấy đứa đánh xỏ lá, cùng những đứa bán muối lậu để mà rửa nhà xí. Tên Thập đi theo quỉ vào thành, tới một cái đền thấy vua Diêm La ngồi trên ngai mà tra bộ. Quỉ vào gỡi nói có bắt đặng một đứa buôn muối lậu tên là Vương Thập. Vua Diêm La ngó Thập giận mà nói rằng: Hễ bán muối lậu thì trên trốn thuế vua, dưới sâu mọt dân, mới gọi là bán muối lậu; chớ như những đứa các quan tham lam, hãng buôn gian gião chỉ là đứa buôn lậu, cả thảy là dân lương thiện nghèo nàn, liều một hai đồng vốn kiếm một hai đồng lời, thì chằng lẽ gọi là đứa buôn lậu. Khi ấy vua Diêm La quở hai thằng quỉ, bắt phải mua bốn đấu muối, lại lấy bao muối tên Thập quăng dọc đàng đem để tại nhà tên Thập; còn tên Thập thì cầm ở lại, giao cho nó một cây hèo, dạy nó phải theo quỉ mà đốc việc vét sông. Quỉ dắt Thập tới bên sông Nại Hà, thấy người ta lúc nhúc dưới sông như giòi, còn nước thì thâm đen mà đục ngầu, lại gần thúi tha chịu không nổi. Những người vét sông thì trần truồng, cầm ki cầm mai, hụp lên hụp xuống dưới sông, hốt những thây ma xương mục, đầy ki trạc liền khiêng đội mà lên, chỗ sâu lút đầu cũng phải lặn; có ai làm biếng thì Thập phải lấy hèo mà đánh. Các người đồng coi việc, đều ngậm một hoàn thuốc thơm, để mà chịu với mùi thúi. Xảy thấy có ông hãng muối ở Cao Uyên cũng loi ngoi dưới sông, Thập cứ làm dữ với ông ấy, xuống sông thì đập lưng, lên bờ thì khẻ chơn; ông ấy sợ cứ hụp nước chừa có hai lổ mũi, Thập mới thôi đánh. Cách ba đêm ngày dân phu chết hết phân nữa, công việc vét sông cũng hoàn thành. Hai thằng quỉ trước mới đưa Thập về nhà, bèn hồi tỉnh mà sống lại.
Duyên ngày trước tên Thập đi vác muối chưa về, sáng ngày vợ mở cửa, thì thấy có hai bao muối để tại nhà. Vợ đợi Thập lâu không thấy về, cho người đi kiếm, thì gặp Thập chết giữa đàng; khiêng đem về nhà, Thập hãy còn một chút hơi thở, ai nấy đều lấy làm lạ không hiểu làm sao, đến khi Thập sống lại mới học các chuyện. Còn tên hãng muối chết trong ba ngày trước, đên khi ấy cũng sống lại, mấy chỗ Thập đánh đều hóa ra ung độc lỡ lói thúi tha, không ai dám lại gần. Thập cố ý tới thăm, tên hãng muối ấy ngó thấy Thập, cũng còn hơi sợ, thụt đầu vào mền, in như hồi còn ở dưới sông Nại Hà. Tên hãng ấy đau một năm mới lành, không dám lảnh việc buôn muối nữa.
Sách Dị sử nói rằng: xét một vụ muối thuế, Triều đình gọi rằng lậu, chính là những người chẳng cứ nơi công; còn quan tham ô cùng kẻ buôn xảo trá gọi rằng lậu, thì là những người chẳng cứ nơi tư.
14- TÍCH CỌP LẠY
Đất Lư Khê có người siêng năng ham học, thông kinh sử, ở với cha mẹ rất hiếu thảo. Đời Hồng Võ năm đầu, học trò ấy đi học phương xa, qua tới mùa đông thường hay về thăm cha mẹ. Một lần y đi về vừa tới một cái khe, gặp cọp nhảy ra đón đàng, y sợ không biêt tránh đâu cho khỏi. Cọp làm bộ cúi đầu như lạy, rồi sẽ lén lại cắn áo y mà kéo. Y đi theo tới rừng rậm, cọp nhả áo mà ngồi, y tỉnh lại cũng ngồi ngang với cọp mà nói rằng: mi là cọp, lẽ nào mi không ăn tao, tao chết vì mi, tao chẳng tiếc, ngặt cha mẹ tao già hơn bảy mươi tuổi, mi dung tao thì tao mới báo hiếu cho cha mẹ tao đặng; như số tao phải cọp ăn, thì sau tao cũng không khỏi miệng mi. Cọp nghe nói liền đứng dậy, kéo vạc áo y mà đem lại chỗ cũ, rồi bỏ đó mà đi. Chỗ ấy người ta kêu thành danh là chỗ cọp lạy.
15- CHUYỆN CẢNH THẬP BÁT
Đất Tân Thành có tên Cảnh Thập Bát đau nặng biết mình không lẽ sống, bèn nói với vợ rằng: chầy kíp đây phải lìa nhau, tao chết rồi, lấy chồng hay là ở vậy mặc ý mầy; nhưng vậy mầy phải nói cho tao biết ý mầy muốn làm sao. Vợ làm thinh không chịu nói, tên Cảnh cứ hỏi hoài, lại nói: ở vậy là hay mà lấy chồng cũng là sự thường, muốn làm sao thì nói, chẳng hề chi mà sợ; tao lìa mầy, mầy giữ tiết thì bằng lòng tao, mầy có lấy chồng khác thì tao hết đều tưởng nhớ. Vợ buồn bực mà nói rằng: nhà nghèo sạch trơn như chùi, anh sống hãy còn bữa đói bữa no, biểu tôi giữ tiết làm sao cho đặng! Tên Cảnh nghe nói liền nắm cánh tay vợ mà hét lên rằng: đành đoạn chưa! Vừa dứt tiếng liền tắt hơi, nắm cứng cánh tay vợ không buông. Vợ la lên, người nhà chạy vô, trì gở hết sức mới buông.
Cảnh không dè mình chết, chạy ra ngoài cửa thấy hơn mười cổ xe, mỗi cổ là mười người, liền lấy một miếng giấy viết tên dán trên xe, nguòi dẫy xe thấy Cảnh, hối Cảnh lên xe cho mau. Cảnh coi trong xe đã có chín người, đếm cả Cảnh là mười, lại thấy tên mình dán sau rốt, xe đi rầm rầm, cũng chẳng biết là đi đâu. Cách một hồi đi tới một chỗ nghe người ta nói là đất tư hương, Cảnh sanh nghi, vã nghe mấy người dẫy xe nói nhỏ với nhau rằng: hôm nay sẽ chém ba người, Cảnh lại sợ lắm; nghe kĩ thì là tiếng quỉ nói, Cảnh mới biết mình đã thành quỉ rồi; nghĩ lại việc nhà còn có một mẹ già, sợ mai sau vợ mình cải giá, ắt là không ai phụng dưỡng, nước mắt chảy ra ròng ròng. Cách một chặp ngó thấy một cái đài cao vọi vọi, thấy người ta mang trăng xiềng kêu khóc, lên xuống từ đoàn, nghe nói là đài Vọng hương. Ai nấy tới đó đều rùng rùng xuống xe, mấy người dẫy xe đánh đón làm hung dữ, tới Cảnh thì lại hối lên mà thôi. Cảnh lên đặng ba bốn mươi bậc, tới chỗ chót vót, ngó mông ra, thì nhà cửa người ta ở trước mắt, ngó nhà mình thì mù mù, lấy làm thương nhớ quá chừng.
Khi ấy có người bận áo cụt đứng một bên Cảnh, hỏi tên họ Cảnh, Cảnh bày tên họ. Người ấy nói mình là thợ mộc ở Đông hải, thấy Cảnh chảy nước mắt, hỏi có chuyện chi không an trong lòng, Cảnh bèn nói thiệt. Tên thợ mộc rủ Cảnh nhảy xuống mà trốn, Cảnh sợ quỉ theo bắt, tên thợ nói không hề gì; Cảnh lại sợ đài cao nhảy không thấu, tên thợ biểu cứ việc nhảy theo. Vậy tên thợ nhảy trước, Cảnh nhảy theo sau, tới đất không có làm sao cả hai. Cảnh sực nhớ tên mình còn dán trên xe, liền trở lại thấm nước miếng bôi tên, rồi lại chạy miết dài không dám dừng chơn; cách một hòi tới xóm vào nhà thấy thây chưa liệm, bèn nhập vào mà sống lại. Cảnh la khát nước, cả nhà đều kinh hãi, đổ thang thuốc cách ít ngày mà mạnh. Từ ấy Cảnh dứt tình không thèm ăn ở với vợ nữa. 16- CỌP CÓ NGHĨA
Đất Triệu thành có bà già hơn bảy mươi tuổi, mà có một đứa con trai mà thôi. Ngày kia con vào rừng bị cọp ăn, bà già kêu van thương tiếc, tức tối không biết làm sao, bèn đi kiện với ông huyện. Ông huyện tức cười mà nói rằng: phép quan xử kiện người ta, không xử kiện cọp. Bà già lại kêu khóc hơn nữa, ông huyện quở cúng không sợ. Ông huyện thấy bà ấy già cả không nỡ làm oai, bèn chịu đòi cọp mà xử. Bà già cứ việc cúi đầu la lết đợi cho có trát mới chịu về. Quan huyện tức mình hỏi trong nha lệ có tên nào dám đi đòi cọp, xảy có tên Lý đương say xoàng xoàng ra giữa nha vổ bụng chịu đi. Quan huyện liền dạy viết trát; bà già thấy vậy mới chịu dậy mà về. Tên lệ tỉnh rượu hoảng kinh, mà hãy còn tưởng ông huyện làm chuyện gạt bà già, bèn đem trát vào mà tгả. Quan huyện nổi giận quở rằng: mày xứng tài hay, sao mày còn trả trát? Tên lệ túng thế bẩm xin trát bắt quân ví cọp, ông huyện cho, tên lệ đặng trát về qui những người làm nghề ví cọp, đêm ngày núp dọc rừng núi, trông bắt cho đặng một con kẻo quan huyện quở. Cách hơn một tháng bắt không đặng cọp, tên lệ phải đòn dư trăm, lấy làm oan khúc chịu không đặng, bèn đi tới miễu ở triền núi mà vái, kêu khóc lạt giọng. Giây lâu có một con cọp ở đâu đi xốc vào, tên lệ thất kinh sợ không khỏi. Cọp lầm lủi đi tới giữa cửa miễu ngồi thịch xuống, con mắt không dáo giát. Tên lệ thấy vậy bèn nói rằng: Như phải mi hại con bà già, thì phải cúi đầu chịu tao trói. Vái rồi liền lấy dây cột cổ cọp, cọp trập tai chịu cột một bề. Tên lệ mới dắt cọp về nhà, ông huyện hỏi có phài mi ăn con bà già chăng? Cọp gật đầu. Ông huyện lại rằng: xưa nay có luật hễ ai giết người thì phải chết, vã bà già ấy có một con, mà mi giết đi, thì còn ai nuôi bà ấy, nếu mi thế công việc nuôi dưỡng bà ấy như con bà ấy vậy, thì tao tha mi. Cọp gật đầu, ông huyện bèn dạy mở tгói, biểu cọp đi. Bà già đương giận ông huyện không giết cọp, mà thường mạng cho con, sáng ngày mở cửa thấy một con hưu bỏ trước nhà, bèn kêu hàng xóm, bán thịt bán da lấy tiền mua cơm gạo. Từ ấy cọp cứ đem thịt tới hoài, có khi nó tha vàng bạc, giẻ lụa tới mà bỏ giữa nhà, làm cho bà già no đủ. Việc nuôi dưỡng lại hơn con ruột, bà già mới đem lòng thương cọp. Mỗi khi cọp tới thì nằm dưới thềm cả ngày, chẳng động tới người tới vật, ai nay bình yên chằng còn nghi sợ. Cách ít năm bà già chết, cọp tới kêu hộc giữa nhà, nhờ có của bà già dành để, trong họ lo việc tống táng phủ phê. Cất đặt vừa rồi, cọp chạy tới, ai nấy thất kinh vỡ chạy; cọp tới trước mồ gầm kêu động địa, hồi lâu mới đi. Người xứ ấy có lập một cái miễu nghĩa hổ, cho tới bây giờ hãy còn.
17- ĐUỔ1 YÊU QUÁITên Từ Viễn là học trò ở ấp Trường Sơn, nhơn lúc loạn đổi dòng vua, bỏ nhu học qua nghề thầy pháp, xa gần đều nghe tiếng. Trong ấp có một ông nhà giàu, sắm lễ vật, viết thơ cho ngựa đi trước, Từ Viễn hỏi rước việc gì, tên đầy tớ nói không biết, chủ tôi biểu làm sao cũng mời thầy cho đặng. Từ Viễn tới nơi thì thấy bày yến tiệc, thết đãi trọng hậu, mà chủ nhà cũng chẳng nói vì cớ gì mà rước. Từ Viễn không yên hỏi hoài, chủ nhà nói không có chuyện chi, cứ mời rượu, đàm đạo nghiêm trang, nói chuyện dông dài. Chẳng dè tгời vừa tối, chủ nhà xin dời tiệc vào trong vườn. Vườn ấy trồng cây cối kiểng vật xinh tốt, đẹp đẽ; giữa vườn cất một cái nhà cũng đẹp, mà trên ván bửng bụi đóng, lưới nhện giăng, coi ra cũng buồn. Uống vài chập, chủ nhà dạy thắp đèn, Từ Viễn xin kiếu không dám uống nữa. Chủ nhà dạy bãi rượu pha trà, tôi tớ lật đật cất dọn bát chén, đem để bên ghế trà. Uống nước chưa được nửa chừng, chủ nhà nói có việc xin kiếu, bèn bỏ thầy ấy ở đó mà đi. Tên đầy tớ nán lại giây lâu rồi bưng đèn đem thầy đi ngủ bên mái tả, để đèn trên bàn rồi cũng sấp lưng ra đi, coi ý lếu láo. Chú thầy tưởng có khi nó đi lấy mền tới mà ngủ chung cho có bạn. Té ra đợi mỏi mê không thấy thằng đầy tớ, mà nhà thì vắng vẻ quạnh hiu; chú thầy mới dậy đi đóng cửa. Ngoài song trăng sáng giọi vào giường, nghe dằng dõi những tiếng trùng tiếng dế, trên cây thì nghe những tiếng chim cú chim mèo, chú thầy rởn ốc lạnh mình, bồi hồi ngủ không yên giấc. Còn trên ván bững thì nghe tiếng đi đạp rầm rầm, một hồi thấy thòng xuống một cái thang, lần lần đem dựa một bên cửa mạch, chú thầy sợ, mau mau lấy mền trùm đầu nằm không cục cựa. Xảy nghe tiếng mở cửa, chú thầy hé mền dòm ra, thấy cửa mở hoát, có một con gì không biết, đáu thú mà mình người, cao như ngựa, lông lá xồm xàm, đen thui, nanh vút chẻm chẻm, con mắt có ngời, đi ngay vào chỗ để bát dĩa ăn hồi chiều tối, cúi xuống mà liếm đồ ăn dư, nó liếm một cái hết mấy cái bát dĩa. Liếm sạch bát dĩa rồi nó chạy bên giường chú thầy nằm, nó ngửi mền chú thầy. Chú thầy hoảng kinh tốc mền chụp đầu con quái ấy, ôm đó mà la. Con quái bị chụp mền thình lình, cũng hoảng kinh giựt đầu ra mà chạy mất. Chú thầy sảng sốt mang áo chạy đi trốn, té ra cứa vườn đóng chặt, ra không đặng, bèn leo vách tường mà ra nhằm chỗ tàu ngựa. Thằng giữ ngụa thấy chú thầy bơ vơ, nó cũng nghi; chú thầy mới nói các việc, rồi lại xin ngủ nhờ.
Trời gần sáng chủ nhà cho người đi thăm, không có chú thầy, chủ nhà phát nghi kiếm táo tác, gặp chú thầy ở trong nhà ngụa. Chú thầy giận lằm bằm nói rằng: tôi, phép gì cũng làm đặng, ngặt có một chuyện trừ yêu quái, tôi chưa quen cho mấy, ông mời tôi, ông không nói trước, ông hiểm như vậy nghĩa là ông giết tôi đó; phải tôi hay trước, tôi đem đồ nghề tôi theo, tôi có sợ nó ở đâu. Chủ nhà chịu chẳng phải mà rằng: tôi chỉ sợ nói tbiệt, thầy không chịu làm, cũng không dè trong túi thầy không có đồ nghề, thiệt tôi có lỗi với thầy nhiều quá. Chú thầy không bằng lòng quày quả mượn ngựa mà về. Từ ấy yêu quái trong vười cũng tuyệt. Mỗi khi chủ nhà dọn đãi khách trong vườn, đều cười mà nói với khách rằng: mình chẳng hề quên công ơn thầy Từ Viễn.
Sácb dị sử bàn rằng: như lão thầy ấy làm hoảng ôm mền chụp đầu con thú, miệng la bải hãi rổi liền giấu phứt đi, đừng có nói tới chuyện sợ sệt, một nói lớn lối rằng: mình đã đánh đuổi nó được, thì thiên hạ cũng tin chắc là thầy cao tay ấn không ai bì.
18- RỦ NHAU CHẾT MỘT LƯỢTĐất Tế Dương có một ông già sáu mươi tuổi đau bịnh mà chết. Con cháu lo việc tống táng, xảy nghe ông già kêu la lớn tiếng, ai nấy chạy vào thấy ông ấy sống lại, đều mầng rỡ hỏi thăm. Ông già cứ nói với vợ rằng: tôi tính đi luôn không trở lại, chẳng dè đi đặng ít dặm, xảy sực nhớ bà, nếu bỏ bà ở lại một mình, ấm lạnh không chỗ nương nhờ, sống như vậy cũng không ra cái gì, chi bằng đi theo tôi luôn thể, bởi đó tôi trở về, có ý đem bà đi theo. Ai nấy lấy làm lời nói sảng sốt, không đem vào tai. Ông già lại nói nbư vậy nữa. Bà già nói: được như vậy cũng hay, ngặt tôi đương sống mà ông biểu chết, thì chết làm sao đặng? Ông già khoát tay nói rằng không khó gì, thôi bà hãy sắp đặt việc nhà cho mau. Bà già cười cứ việc đứng một bên, ông già hối lắm, bà già phải ra ngoài, cách hồi lâu bèn trở vào mà nói dối rằng sắp đặt đã yên. Ông già biểu đi thay quần áo, bà già không đi; ông già hối mãi, bà già sợ mất lòng, mới đi thay rồi lại trở vào. Con cháu thấy vậy đều che miệng mà cười. Ông già day đầu xít gối vổ bà già biểu nằm. Bà già nói con cháu ở trước mặt, vợ chồng nằm kề vai với nhau coi làm sao đặng? Ông già đấm giường mà rằng: nằm mà chết với nhau, chuyện chi mà khó coi! Con cháu thấy ý ông già nóng nảy, đều khuyên bà già nằm chung gối, tôi tớ trong nhà đều tức cười. Giây phút thấy bà già hết cười, rồi lại nhắm mắt; cách một hồi lặng lẻ như ngủ, lại gần rờ da lạnh như đồng, mũi không còn hơi thở; ông già cũng chết, ai nấy đều hãi hùng.
19- BỐN MƯƠI NGÀNĐất Tân Thành có một ông giàu có, nằm chiêm bao thấy một người chạy vào nhà mà nói rằng: ông thiếu bốn mươi ngàn, nay phải trả lại. Ông ấy lật đật hỏi, thì người ấy thoát vào nhà trong mà đi mất. Đến khi ông nhà giàu thức dậy, thì vợ chuyển bụng đẻ đặng một đứa con trai. Ông ấy biêt nó là oan nghiệt, bèn lấy bốn muôn đồng tiền để riêng ra một chỗ: nhứt thiết sắm sanh đồ ăn, áo mặc, hay là chạy thuốc thang cho con trẻ ấy thì cứ lấy tiền ấy mà tiêu. Khi con nít ấy đặng ba bốn tuổi thì số tiền còn có 700. Tình cờ bà vú bồng con nhỏ ấy lại gần giỡn chơi, ông nhà giàu bèn kêu con mà nói chơi rằng: bốn mươi ngàn gần hết rồi, mày phải đi đi. Ông ấy nói vừa rồi, con nít ấy liền biến sắc dàu dàu, nghẽo cỏ trợn mắt; lại ôm nó thì nó đã tắt hơi, bèn lấy tiền dư 700 ấy mà lo việc cấp táng cho nó. Ấy cũng nên gương cho những người mắc nợ mà không chịu trả.
Xưa có một người già mà không con, hỏi một ông Hòa thượng vì cớ gì mà mình không con. Ông Hòa thưrợgg trả lời rằng: nhà ngươi không thiếu người ta, người ta không thiếu nhà ngươi thì làm sao cho có con. Bỡi vì sanh con lành, thì để mà trả duyên ta, sanh con dữ thì để mà đòi nợ ta; có con chớ mầng, con chết chớ rầu.
20- BỢM BẢINgười nhà ông Ngự sử buồn ra ngoài chợ đứng chơi, xảy có một người áo mão tử tế lại gần mà nói chuyện, lần lần hỏi tới tên họ chủ nhà, hỏi làm quan chức gì, người nhà nói lại mọi đều. Người tử tế ấy cũng bày tên họ, nói mình là họ Vương là tay trong nhà cao sang. Hai đàng nói chuyện với nhau vui vẻ; họ Vương mới nói qua chuyện làm quan hiễm nghèo; nói các quan lớn cũng đều lập thế dựa theo hàng quí thích, mà không biết quan ngự sử dựa thế ai. Người nhà cười nói chủ mình không lấy thế ai cả. Họ Vương nói ấy gọi là sợ tốn nhỏ mà quên hại to. Người nhà hỏi vậy phải gởi mình vào đâu? Họ Vương nói bà công chúa tôi ăn ở lễ nghĩa, lại hay cứu giúp người ta, có một ông Thị lang cũng nhờ tôi mà làm quen với bà tôi; như quan ngự sử có lòng rộng rãi đừng tiếc một đôi ngàn vàng, tôi chịu đem người ra mắt bà tôi. Người nhà ông ngự sử nghe vậy, mầng hỏi thăm nhà, họ Vương liền chỉ một cái nhà lớn, lại nói: ở với nhau một nẽo không biết nhau sao? Người nhà về thưa lại, ông ngự sử mầng rỡ dọn yến tiệc, sai người nhà ấy đi mời, họ Vương hớn hở qua nhà ăn uống, khen ngợi đức tánh bà công chúa, nói kĩ cang các việc trong phủ; lại nói như không phải là người ở một đàng một nẽo, dẫu cho vàng trăm, cũng không chịu giúp cho ai. Ông ngự sử càng đem lòng cảm mến. Tiệc rồi họ Vương từ giã ra về, biểu ông ngự sử sắm sanh lễ vật, để y thừa cơ y nói, tối sớm cũng có tin lành. Cách ít bữa, họ Vương cởi ngựa nghiêm trang tới nhà ông ngự sử, hối ông ấy sắm sửa đi cho kíp; lại nói bà công chúa nhiều việc, người ta tới ra mắt chật cửa, từ sớm mai cho đến chiều không có khi hỡ, nay lịnh bà rảnh, phải đi cho mau, bằng chậm thì không lẽ hầu đặng. Ông ngự sử lật đật lấy vàng ròng cùng nhiều hàng giẽ đem theo; đi quanh quẹo hơn mười dặm đàng mới tới phủ bà công chúa. Tới nơi, một mình họ Vuơmg đem lễ vật vào, ông ngự sử chực ngoài, hồi lâu họ Vương ra truyền nói lịnh bà cho đòi quan ngự sử vào. Liền có một ít người cũng ra truyền hô tiêp rước, ông ngự sử khóm róm đi vào, ngước mặt thấy một bà ngồi trên cao lịch sự như tiên, áo mão rực rỡ, còn các gái hầu thì đều mặc áo gấm đứng hai bên. Ông ngự sử sấp mình quì lạy đủ lễ, rồi nghe truyền cho ngồi bên nhà bông; dạy pha trà thì thấy những chén trà bằng vàng. Bà chúa phủ hủy một đổi tiếng, ông ngự sử cúc cung lui ra, nghe ở trong truyền cho giày thêu, mão hoa. Ông ngự sử về nhà nghĩ công ơn họ Vương trọng lắm, bèn làm thơ qua tạ, thì cửa đóng chặc không người, tưởng là họ Vương đi chầu bà chúa chưa về; ba ngày ba lần tới cũng không thấy ai, cho người đi hỏi thăm bên cửa bà chúa, thì cửa đóng then gài, hỏi người ở đó đều rằng: không có bà chúa nào, trước đây có một ít người tới mướn nhà mà ở, mà đã dọn đi cách ba bữa rồi. Người nhà về thưa lại, thầy trò đều tức mình ách ách.