Phần V 41- PHÉP MA
Vu Công thuở còn trai nhặm lẹ hay đánh quờn, sức lực mạnh bạo, đời vua Sùng Trinh, đi ứng thí kinh đô, tên đầy tớ xuống dịch nặng, lấy làm lo sợ. Xảy nghe trong chợ có người bói giỏi, hay đoán sống chết, Vu Công bèn đi bói thở coi tên đầy tớ chết sống thế nào. Vu Công vừa tới nơi chưa kịp nói, tên thầy bói nói thinh không rằng: có phải đầy tớ nhà ngươi đau, nhà ngươi đi bói thế chăng? Vu Công sửng sốt, tên thầy bói rước lấy mà nói rằng: người bịnh ở nhà không hề gì, một lo sợ cho nhà ngươi mà thôi. Vu Công xin bói chuyện mình, thầy bói đứng dậy làm bộ sợ hãi mà nói rằng: nhà ngươi ba bữa nữa chết. Vu Công thất kinh, thầy bói nói nhưng vậy ta cũng có phép, thôi chịu 10 đồng bạc đây ta cứu cho. Vu Công nghĩ đi nghĩ lại rằng chết sống đã có số, dầu cho thầy bói có phép cũng không cải đặng. Vu Công nói rồi liền sắp lưng ra về. Thầy bói nói: một chút một đỉnh mà tiếc, sau chớ ăn năn. Có một hai người thương Vu Công, sợ, nói nhỏ biểu liều đi, Vu Công không nghe. Thoát chúc tới bữa thứ ba, Vu Công cứ việc ngồi lẳng lặng để mà coi có chuyện gì. Té ra cả ngày không thấy đau đớn gì. Tối lại, Vu Công đóng cửa khêu đèn, cắp một thanh gươm ngồi chồm hổm đã hơn một canh, cũng không thấy phép chết ra làm sao. Buồn ý mới đi ngủ, vùng nghe ngoài cửa có tiếng róc rách, Vu Công lật đật dòm, thấy một đứa con nít vác giáo đi vô, tới đất thì cao bằng người lớn. Vu Công nắm gươm chờ dậy, mau tay chém một cái hụt đi, tên ấy hóa nguyên hình nhỏ lại, chun phóc theo lổ song mà trốn; Vu Công lẹ tay chém theo một gươm, nó nhào xuống, rọi đèn thì là hình nhơn giấy, đứt ngang lưng. Vu Công không dám nằm cứ việc ngồi chực, một hồi có một con gì chun lổ song mà vào, nanh vút như quỉ, nó vừa tới đất, Vu Công chém sả ra làm hai đoạn. Coi nó còn cục cựa, Vu Công sợ nó sống tại chém bồi, lưỡi nào cũng trúng, nghe không êm tiếng gươm, coi lại thì là đồ gốm, bể nát ra từ miếng. Khi ấy, Vu Công nhắc ghế ngồi ngay cửa sổ, con mắt chăm chỉ mấy lổ hở, giây lâu nghe ngoài song có tiếng thở như bò, có một con chi giựt song xô cửa rúng động. Vu Công sợ sập nhà, tính ra ngoài mà đánh lộn, vội vàng xô cửa chạy ra, thấy một con quỉ đứng cao đầu đụng mái nhà, trăng mờ mờ thấy mặt nó đen như lọ nồi, con mắt có ngời, không áo không giầy, tay cầm cung, lưng đai gươm. Vu Công sợ hãi, thằng quỉ giương cung bắn, Vu Công lấy gươm đánh vẹt tên rớt xuống, chờn vờn chém, nó bắn nữa, Vu Công nhảy tránh, mũi tên bay vụt vụt xuyên qua vách tường. Thằng quỉ làm dữ rút gươm huơi huơi chém tới, Vu Công né khỏi, lưởi gươm xuống đá cũng đứt lìa. Vu Công lòn vào dưới háng chém trúng mắt cá, thằng quỉ giận lắm hét lên chém xuống, Vu Công nép mình, lưỡi gươm nó xuống sả đứt chơn quần. Vu công nhảy lên nhắm ngang sườn nó, chém một gươm mạnh, thằng quỉ té ngữa ra. Vu Công chém bậy chém bạ, nghe như tiếng mỏ, rọi đèn coi thì là hình gỗ cao lớn bằng con người, cung tên nó hãy còn ràng trong lưng, diện mạo hung ác, mấy dấu chém đều có máu. Vu Công chong đèn mà chờ sáng, mới biết những quỉ yêu ấy, gốc bỡi thầy bói sai, để giết người ta, làm cho người ta tin nó có phép thần thông. Qua ngày sau Vu Công nói chuyện cho anh em hay, rồi đem nhau tới chỗ thầy bói, tên thầy bói ngó thoáng thấy Vu Công, bèn ẩn mình không ai thấy. Có người nói là phép tàng hình, dùng máu chó thì phá phép. Vu Công nghe lời sắm sửa sẵn sàng qua tới nơi, tên thầy bói cũng tàng hình như trước. Vu Công lấy máu chó rảy lối chỗ lão thầy bói đứng, liền thấy mặt mày nó vấy những máu chó, con mắt nó lườm lườm như qủi, bèn bắt trói lại đem nộp cho quan hành hình.
42- SỰ TÍCH CŨÔng Mẩn Công đi tuần phủ Hà Nam, gặp ăn cướp qua lục ghe, đáo soát nội ghe không có một vật gì quí, nó lục lưng ông ấy, thấy có mộl cái đai vàng của vua ban, nó chê ông tuần phủ nghèo không nỡ lấy.
Ông Trần Văn Khanh về hưu trí, một bữa ăn cướp tới nhà phá rương mở tủ, kiếm không có một món gì, ông Trần Văn Khanh năn nĩ nói với chúng nó rằng: anh em đêm hôm lặn lội tới đây, không có vật chi xứng đáng mà lấy cũng ngặt, thôi già còn năm ba cuốn sách rách, xin anh em chịu khó lấy đở đem về dạy con cháu. Ăn cướp nghe nói, kéo nhau ra đi. 43- HUỲNH SANH
Huỳnh Sanh là con nhà sang trọng, học hành giỏi có chí khí lớn, hay giao du với một ông thầy chùa ở ngoài 1àng, tình ý hiệp nhau. Chẳng khỏi bao lâu thầy chùa đi vắng, cách hơn mười năm mới trở về, thấy họ Huỳnh bèn than rằng: tưởng nhà ngươi đã đắc lộ, hay đâu hãy còn im trệ, trong thế phước mạng nhà ngươi bạc lắm, thôi để ta lo với âm phủ cho, chẳng biết nhà ngươi có chạy đặng mười ngàn chăng? Huỳnh Sanh nói chạy không đặng. Thầy chùa biểu chịu lấy nửa, còn nửa để thầy giúp, hẹn ba ngày phải cho có. Huỳnh Sanh chịu, về cầm đồ đạc, chạy hết sức mới được phân nửa ấy. Cách ba bữa thầy chùa đem đủ năm ngàn giao cho Hùynh Sanh. Thuở ấy, bên nhà Huỳnh Sanh có một cái giếng sâu múc hoài nước không cạn, người ta nói giếng ấy thông với sông biển vân vân. Thầy chùa biểu Huỳnh Sanh bỏ tiền để một bên giếng, dặn rằng: chừng nào thầy ra chùa, hãy xô xuống giếng, đợi chừng sôi nồi cơm, thấy có một đồng tỉền nổi lên, thì phải lấy đồng tiền rồi sẽ đi. Huỳnh Sanh không hiểu là chước gì, nghĩ lại nghiệm không cũng chưa chắc, mà mười ngàn trước mắt bỏ đi cũng uổng, mới lấy có một ngàn mà bỏ xuống giếng, còn chín ngàn thì giấu đi. Giây phút nước nổi bọt lên to, rả ra nghe như tiếng đồng, liền có đồng tiền nổi lên trên mặt nước, lớn bằng cái bánh xe. Huỳnh Sanh thất kinh lật đật lạy, rồi lại lấy bốn ngàn nữa mà bỏ xuống, nghe tiếng rổn rảng; té ra mắc đồng tiền lớn nằm cản ngang, tiền nọ không xuống nước. Trời gần tối thầy chùa tới quở, trách sao không bỏ hết. Huỳnh Sanh dối rằng đã bỏ sạch. Thầy chùa nói rằng: sứ âm phủ đem có một ngàn đi, còn nói dối làm sao. Huỳnh Sanh tức mình phải thú thiệt, thầy chùa than rằng: đại để những người bỏn sẻn thì chẳng có chí khí lớn, ấy là mạng số nhà ngươi, làm tới bậc Minh kinh mà hết, bằng không thì đã hiển vang rồi. Huỳnh Sanh tiếc lắm, này nĩ thầy chùa làm phép một lần nữa. Thầy chùa không chịu hẵn mà đi. Huỳnh Sanh coi dưới giếng thấy tiền còn nổi, lập thế dòng dây vớt lên, đồng tiền lớn bèn chìm đi mất. Năm ấy Huỳnh Sanh đậu phó bảng rồi thì kế chết, y như lời thầy chùa nói. 44- ĐÔNG PHƯƠNG SÓC
Vua Hán võ đãi yến quần thần, nhơn vui nói qua sách tướng rằng: nhơn trung ai dài một tấc, thì hưởng thọ được trăm năm. Ông Đông Phương Sóc chầu một bên vùng cười rè, quan hữu tư tâu rằng ông ấy không cung kính. Ông Đông Phương Sóc cất mão chịu tội mà rằng: kẻ hạ thần không dám cười bệ hạ, thật tình cười ông bành Tổ mặt dài. Vua phán hỏi, ông Đông Phương Sóc tâu rằng: trong sách nói ông Bành Tổ sống tới tám trăm tuổi, kính vưng lời bệ hạ dạy, thì môi trên ông Bành Tổ phải thòng thòng tám tấc, suy ra thì mặt ông ấy phải dài hơn một trượng. Ông Võ đế nghe nói cũng tức cười.
45- CÔNG GIÃ TRƯỜNG.Công Giã Trường là người nước Lổ cũng là học trò đức Khổng Tử, hiểu biết tiếng chim, nhà nghèo ở không nhưng, không có mà ăn cho đủ. Một bữa chim bay tới nhà ông ấy mà kêu rằng: Công Giã Trường, Công Giã trường, cọp bắt dê núi Nam San, người ăn thịt ta ăn gan, chóng theo bổi chớ dùng dằng. Công Giã Trườg đi tới núi quả bắt đặng con dê đem về làm thịt ăn. Chẳng dè chủ mất dê đi đánh dấu được sừng dê tại nhà Công Giã Trường, bèn đi cáo với ông Lổ Công, vu cho Công Giã Trường rằng ăn trộm. Công Giã Trường thưa thiệt, Lổ Công không tin tiếng chim, bắt Công Giã trường bỏ vô khám. Đức Khổng tử biết Công Giã Trường là người ngay thiệt, đi minh oan, mà Lổ Công cũng không tha. Đức Khổng Tử than rằng: ở chốn ly tiếc lẽ đâu không có người ngay mà mắc nạn. Chẳng khỏi bao lâu con chim ấy lại bay tới cửa khám mà kêu rằng: Công Giã Trường, Công Giã Trường, người nước Tề đem binh sang, sông Nghi thủy ở đầu đàng, kíp ngăn ngừa chớ nghi nan. Công Giã Trường nói lại với quan đề lao chạy tờ cho ông Lổ Công sai người thám, quả có binh nước Tề qua lấn bờ cõi. Lổ Công mới tha Công Giã Trường; cấp nhiều tiền bạc, lại muốn phong cho làm bậc Đại Phu, Công Giã Trường hổ vì nhờ tiếng chim, không dám chịu.
46- THI THÀNH HOÀNGÔng Tông Đạo thuở ở học sanh, đau nằm thấy một người nhà tơ cầm trát, dắt một con ngựa bướm trán tới mà mời đi thi. Tông Đạo nói rằng: chưa có kiểu vở gì ra mà đi thi làm sao đặng. Tên thơ lại làm thinh cứ giục đi hoài. Tông Đạo phải gắng gượng lên ngựa mà đi theo. Đàng đi lạ lùng tới một chỗ đô hội như đất kinh kì, lần vào thấy dinh dãy lầu đài quí trọng, có hơn mười ông quan lớn ngồi khách, lạ đặc không biết là ông nào; ngó lên trên biển có chữ đề là Quan trang mục, Tông Đạo nhận được bấy nhiêu mà thôi. Ngoài hiên có dọn hai cái đôn, đã có một vị Tú Tài ngồi trước, ông Tông Đạo tới sau lại ngồi kề một bên, trên có ghế bàn bút giấy để sẵn. Giây phút có giấy đề đưa xuống, thấy viết: nhứt nhơn nhị nhơn, hữu tâm vô tâm, tám chữ. Hai ông cứ đề làm theo, vở rồi đưa lên trên đền. Trong vở ông Tống Đạo có câu rằng: hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thưởng; vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt. Các thần coi vở chuyền tay khen ngợi chẳng khi đừng, bèn đòi ông ấy lên mà dụ rằng: nay đất Hà Nam khuyết Thành Hoàng, một mình nhà ngươi xứng chức ấy. Ông Tông Đạo nhớ sực lại, cúi đầu khóc lạy mà rằng: kẻ học trò nhờ ơn sai khiến, đâu dám từ nan, ngặt vì mẹ già bảy mươi tuổi, không người phụng dưỡng, xin cho tôi nuôi mẹ tôi trăm tuổi rồi, tôi chẳng dám từ. Trên có một vị giống hình đế vương dạy tra bộ coi bà mẹ sống bao lâu. Xảy có quan lại râu dài lấy bộ coi qua, bẩm rằng số bà già còn sống chín năm nữa. Coi ý ông nào cũng dùng dằng, có một mình ông Quan Đế dạy rằng: không can chi, thôi bắt Trương Sanh quyền nhíp chín năm rồi hãy đổi; lại rằng: lẽ phải bắt ép nhà ngươi, nhưng bởi nhà ngươi có lòng hiếu thảo, huỡn cho chín năm, đến kì sẽ đòi nhà ngươi. Ông Quan Đế cũng phù hủy ông Tú Tài một hai tiếng, rồi đó hai ông lui ra. Ông Tú Tài nắm tay ông Tông Đạo đưa ra cho tới ngoài nội, nhơn nói mình là người ở Тrường Sơn họ Trương, làm thơ đưa có câu rằng: hữu hoa hữu tửu xuân thường tại, vô nguyệt vô đăng dạ tự minh. Ông Tống Đạo lên ngựa từ biệt, về tới nhà dường như chiêm bao. Khi ấy ông Tông Đạo chết đã ba ngày, bà mẹ nghe tiếng rên văng vẵng trong hòm, lật đật dở hòm đem ông ấy ra nửa ngày mới nói được. Hỏi ra bên núi Тrường Sơn quả có Trương Sanh chết nội ngày ấy. Đến năm thứ chín, mẹ ông Tông Đạo thiệt chết, tống táng xong rồi, ông ấy tắm rửa vào nhà nằm thíp thíp. Ngày ấy cha mẹ vợ ông Tông Đạo ở xa, thấу ông ấy cỡi ngựa bao tiền bao hậu, kiều khấu rực rỡ, có xa giá hầu hạ đông, vào lạy tạ mà đi, ai nấy lấy làm lạ, chạy đi hỏi thì ông ấy đã mất rồi. 47- HAI ANH EM HỌ THƯƠNG
Anh em họ Thương, một người giàu một người nghèo, nhà ở khít vách. Đời vua Khương Hy, năm mất mùa, người em thút mút, lo đuợc bữa trưa không bữa tối. Có một bữa mặt trời đã xế qua, mà chưa có gạo nấu, người em đói bụng xăng văng không biết làm sao. Người vợ biểu qua bên anh mà xin gạo, người chồng nói: xin uổng công, phải anh tao thấy tao nghèo mà biết thương, thì có đâu đến nỗi này. Người vợ không nghe biểu một hai đi, người chồng cực chẳng đã sai con qua một hồi lâu trở về tay không. Người vợ hỏi con qua bên ấy bác nói làm sao? Đứa con nói: bác trai giùng dằng ngó mặt bác gái, bác gái nói anh em ở tư riêng, ai có nồi nấy, không ai có sức mà lo bao đồng. Vợ chồng người em làm thinh, góp nhóp tấm manh vành sắt bán lần, đổi lấy từ hột tấm mà ăn. Trong làng có quân hoang thấy người anh giàu có, nửa đêm leo vách tường vào nhà, vợ chồng người anh sợ hãi la làng, xóm giềng đều ghét không ai thèm tiếp cứu; túng lắm phải kêu em, người em nghe tiếng chị dâu kêu muốn chạy qua, mà người vợ cản lại la lớn lên mà rằng: anh em đều có tư riêng, phải ai tai nấy, ai lại biết ai. Giây phút ăn cướp phá cửa, bắt hai vợ chồng người anh trói lại, khêu đèn chai mà hỏi của. Hai vợ chồng kêu khóc khốn nạn, người em nóng ruột nói rằng: dầu anh mình ở vô tình, cũng chẳng lẽ cho mình làm thinh mà không cứu. Nói rồi liền đem con nhảy qua tường la lớn tiếng, ăn cướp biết tiếng người em có nghề võ giỏi, lại sợ làng xóm tới tiếp, liền kéo nhau đi mất. Coi lại cổ vế chị dâu đều cháy nám, người em lật đật kêu tôi tớ đở lên giường rồi mới ra về; người anh cũng bị thương tích, mà của cải không mất món gì, mới nói với vợ mà rằng: nay của mình còn lại, là nhờ thằng em, ấy là của nó cho mình, phải chia ra mà cho nó. Người vợ nói: phải có anh em tử tế, đã không đến nỗi phải chịu đau đớn như vầy. Người em hết gạo nấu, có ý trông anh trả ơn, té ra đợi càng lâu càng vắng, người vợ chịu không được, biểu con xách mũng theo; bác cho đặng có một nồi, người vợ chê ít muốn trả lại, người chồng can không cho trả. Cách vài tháng đói thét chịu không nỗi, người em nói với vợ rằng: nay mình hết kế, còn có một căn nhà, thôi ta bán đứt đi cho anh hai, có lẽ anh hai sợ ta đi đi, không chịu mua mà cho ta giống chi chăng; ví dầu anh hai có mua, thì ta cũng có tiền mà nuôi mạng sống; người vợ cũng lấy làm phải, bèn sai con cầm giấy qua nhà người anh. Người anh bàn với vợ rằng: dầu em mình có bụng bất nhơn, sao cũng là tay chơn mình, nó đi đi thì mình quạnh quẻ, chi bằng trả giấy mà châu cấp cho nó. Người vợ rằng: nó giợm đi là có ý rúng mình, như mình chịu châu cấp thì là mắc mưu nó; trong thiên hạ những người không anh không em đều phải chết hết đi sao? Ta cơi vách tường lên cho cao, sửa nhà lại chắc chắn thì cũng vững bền, thôi chịu mua cho nó mà nới nhà ra cho rộng, để nó đi đâu mặc nó. Hai vợ chồng bàn luận xong rồi, liền kêu người em so danh điểm chỉ, giao tiền bạc đủ số. Người em bán nhà rồi, bèn dời qua làng khác mà ở, quân hoang nghe người em đi, lại rủ nhau tới đánh bắt người anh làm khổ sở, bao nhiêu vàng bạc phải đem ra mà chuộc mạng. Đến khi ăn cướp kéo đi, lại khai cửa vựa, kêu nhà nghèo lối xóm tới mặc ý xúc, trong giây phút lúa sạch còn vựa không. Qua ngày sau người em hay đặng chạy qua, thì người anh đã bất tỉnh nói không ra tiếng, mở mắt thấy em lấy tay cào chiếu mà thôi, một hồi liền tắt hơi. Người em giận lắm đi kiện tại huyện, mà ăn cướp thì đã trốn xa không bắt chi được. Còn những người xúc lúa kể hơn một trăm, thì là những dân nghèo khổ trong làng, quan huyện cũng không biết xử làm sao.
Người anh chết để lại một đứa con mới được năm tuổi, nhà nghèo rồi, nó cứ qua bên chú mà ở, năm bảy ngày cũng không về, đưa nó về thì nó khóc, thiếm nó cũng không ngó tới. Người chồng nói cha mẹ nó bất nghĩa, nó có tội gì, bèn mua bánh mà đưa nó về. Cách ít bữa người em lại lén vợ con, đội lúa qua cho chị dâu, dặn phải nuôi cháu, cứ việc làm như vậy một hai năm, cho đến khi chị dâu bán được nhà có tiền ăn, mới thôi qua lại. Sau mất mùa nữa, thiên hạ chết đói đầy đàng, nhà người em thêm miệng ăn càng thêm bẩn chật. Khi ấy con người anh được 15 tuổi yếu đuối không làm gì đặng, người em biểu đi theo con mà bán bánh. Một đêm người em nằm chiêm bao thấy anh tới, mặt mũi thảm sầu mà nói rằng: anh nghe lời đờn bà, hóa ra mất nghĩa anh em, em đừng tưởng tới chuyện cũ mà thêm điều hổ thẹn cho anh; nay chỗ nhà cũ bán đi mà hãy còn bỏ không, em phải mướn mà ở, đàng sau chỗ cỏ mọc rậm có chôn tiền, em đào lên mà làm vốn, đem con anh về mà nuôi, còn mẹ nó thì bỏ đi đừng ngó tới. Người em thức dậy lấy làm kì, chịu nhiều tiền cho chủ, mướn được nhà cũ anh, kiếm phía sau đào được năm trăm quan tiền. Từ ấy mới bỏ nghề cũ, biểu con cháu hai đứa lập tiệm buôn bán. cháu thông minh tính toán giỏi mà lại thiệt thà, một đồng tiền cũng không dám khuất lấp. Một bữa tên cháu xin lúa cho mẹ, thiếm nó không muốn cho, chú nó thấy cháu hiếu thảo đem lòng thương, liền cho nó tiền tháng để châu cấp mẹ nó. Trong năm bảy năm, chú nó làm nên giàu có. Sau mẹ nó chết, chú già cả bèn chia đôi gia tài mà cho cháu. 48- LỘC ĐỜI
Có một người sang giàu hay làm nhiều điều thất đức, người vợ thường lấy điều quả báo mà ngăn can, cũng không thèm nghe. Ngày kia có thầy tướng tới nhà, ngồi chăm chỉ ngó người sang giàu mà rằng: tôi coi tướng ông còn ăn lương hai chục hộc, bột hai chục hộc mà hết lộc trời. Người sang giàu không tin, nói với vợ rằng: kể một người ăn trót năm hết hai hộc bột, tính ra lộc trời cũng còn dư hai mươi năm thì cũng khá, vã lại làm lành cũng chết, làm dữ cũng chết. Người ấy không biết kiêng sợ, cứ việc làm điều ác đức như cũ, chẳng dè qua năm sau mắc bịnh tiêu khát ăn chừng nào đói chừng nấy; một ngày ăn hơn mười bữa mà cũng còn đói, mãn năm ăn đủ số phải bỏ mình. 49- NHÍP CHÁNH
Ông Lộ Vương làm vua đất Hoài Khánh nết buông lung, thường ngự đi chơi thấy gái tốt thì bắt ngang. Ngày kia vua thấy vợ Vương Sanh lịch sự, giục xe ngựa theo tuốt vào nhà Vương Sanh. Vợ Vương Sanh kêu khóc vua cũng không nghe, làm dữ bắt bỏ lên xe mà đi. Vương Sanh thấy vậy ngã lòng chạy đi núp một bên mồ Nhíp Chánh, có ý chờ vợ đi ngang qua mà trối một hai lời. Hồi lâu vợ đi tới, ngó thấy chồng vùng nhào xuống xe mà khóc; Vương Sanh tức tối nói không ra tiếng, quân hầu biết là Vương Sanh liền bắt đánh khổ sở. Thoát chúc trong mồ nhảy ra một người cao lớn, tay cầm gươm bạc, oai khí lẩy lừng hét lên mà rằng: ta là Nhíp Chánh đây, con nhà lương thiện lẽ đâu ai được cướp giành, ta nghĩ chúng bay như muông săn, người ta đuổi đâu đi đó, ta không nỡ giết, gởi lời về cho vua bây, nếu vua bây không cải dữ về lành, thì ta sẽ lấy đầu. Quân hầu đều kinh sợ bỏ xe mà chạy, người cao lớn nhập vào mồ không thấy nữa. Vợ chồng Vương Sanh lạy mồ đem nhau về, mà cũng còn sợ vua bắt lại nữa, cách hơn mười bữa không có tin tức gì, trong lòng mới yên. Còn ông Lộ Vương từ ấy cũng tởn mà bớt thói dâm.
Nhíp Chánh là người nước Tề, thuở sống có tài thích khách. 50- NGƯU THÀNH CHƯƠNG
Ngưu Thành Chương là người buôn vải ở đất Giang Tây, cưới con họ Trịnh sanh ra một trai một gái. Thành Chương được 33 tuổi, đau nặng mà chết, thì đứa con trai tên là Trung mới được 12 tuổi, đứa con gái được 9 tuổi. Trịnh thị ở góa không đặng, bán hết sự sản, đi lấy chồng khác, bỏ con bơ vơ không chỗ dựa. May, Thành Chương có người chị dâu bà con họ, tuổi đã sáu mươi, nghèo nàn góa bụa không người làm tay chơn. Hai đứa con Thành Chương mới nương theo bác gái; ở vùa được ít năm, chẳng dè bác gái mất, lại càng khốn khổ hơn nữa. Tên Trung lớn lên lo nối nghiệp cha mà ngặt không vốn; đứa em gái lấy chồng giàu, năn nỉ mượn chồng được ít chục đồng, giao cho anh đi buôn bán. Trung được bạc liền qua Kim Lăng, đi dọc đàng lại rủi bị ăn cướp đánh lấy sạch, trôi nổi không về đặng. Ngày kia tên Trung đi ra chợ, thấy một người ngồi bán hàng giống cha như hệt, lén hỏi tên họ thì cũng in tên cha. Trung ngẩn ngơ không hiểu làm sao, mỗi bữa cứ ra chợ, léo hánh một bên, coi tình ý, mà người bán hàng cũng không ngó ngàng. Cách ba bữa Trung dọ đặng sự tình, coi cách đi đứng, nói cười quả là cha đẻ, nhưng vậy cũng không dám nhìn, nói nhỏ với mấy đứa ở, xưng mình là người đồng quán, xin ở mướn mà thôi. Làm khế rồi, người bán hàng coi thấy tên họ cùng xứ sở Trung, hình như biến sắc, hỏi Trung ở đâu mà đến? Trung khóc nói tên cha, người chủ phố sửng sốt một hồi rồi hỏi Trung rằng: mẹ mầy mạnh giỏi thế nào? Trung không dám nói cha chết, thưa khéo rằng: cha tôi đi buôn đã sáu năm không về, mẹ tôi đi lấy chồng khác, may có bác dâu nuôi dưỡng, bằng không thì đã chết rồi. Chủ phố buồn thảm xưng mình thiệt là cha. Cha con bèn nắm tay nhau van khóc một hồi, lại đem nhau vào nhà trong cho biết mẹ ghẻ. Bà kế mẫu đã hơn 30 tuổi mà không con, được Trung thì mầng rỡ bội phần. Thành Chương thở ra thở vào, muốn về quê quán một khi, mà vợ ngăn cản không cho về, cực chẳng đã ở lại dạy con buôn bán. được ba tháng bèn giao sổ sách, sắm sửa về Giang Tây. Thành Chương đi rồi, tên con nói với mẹ ghẻ rằng cha chết thiệt. Mẹ ghẻ thất kinh nói: cha mi qua buôn bán ở đây, làm bạn với tao đã sáu năm nay mà nói chết làm sao. Trung học chuyện đầu đuôi, mẹ con lấy làm kì dị. Cách một ngày đêm Thành Chương đã trở về, dắt theo một người đờn bà đầu bỏ tóc xỏa, Trung lại gần coi thì là mẹ ruột. Thành Chương xách tai người đờn bà, mắng chưởi sao có bỏ con, người đờn bà không dám cục cựa, Thành Chương cắn ngang cổ người đờn bà, người đờn bà kêu con cứu, Trung thấy vậy chen mình cản ngang không cho cắn. Thành Chương giận lắm, chẳng dè người đờn bà biến đi đâu mất, ai nấy la lên nói là quỉ; giây phút thấy Thành Chương biến sắc thảm sầu quăng áo xuống đất, hóa ra một đạo hắc khí, rồi cũng biến mất. Mẹ con kinh sợ lấy áo mão liệm vào hòm mà chôn tử tế. Tên Trung noi theo nghiệp cha làm giàu có lớn, sau về nhà hỏi thì mẹ đẻ cải giá chết trong một ngày, cả nhà đều thấy Ngưu Thành Chương.