Phần IV 30- CHUYỆN ÔNG XA KÍNH
Ông Xa Kính là người đời Minh làm quan tới bậc Thị lang. Thuở ông ấy còn nhỏ đi học, tối về mắc mưa lạc đàng, thấy đèn xa xa ở dựa chơn núi, đi tới nơi, tháy một cái chùa, bèn kêu cửa. Có một đứa tiểu đồng chạy ra mà nói rằng: thầy dạy tôi chực ông nảy giờ. Xa Kính ngó thấy một tấm biển treo giữa cửa đề hai chữ Thế huyền, bước vào chùa thấy một ông già chong đèn mà ngồi. Ông già thấy Xa Kính vào, vội vã đứng dậy chào mầng. Ông Xa Kính xin một cày đuốc để kiếm đàng mà về. Ông già cười nói có đuốc ở đâu giữa nầy mà phòng xin; có lá khô nhỏ nhỏ, nhà ngươi đốt mà sưởi áo quần cho khô đã. Xa Kính hỏi nhỏ, tên tiểu đồng nói tên ông già kêu là ông Tiêu Diêu, tên nó là Thiểu Cô, nghĩ là một vì quân tử ở ẩn, mới hỏi thiệt. Ông già nói: xưa thầy Thể Huyền đi tu trong hang Tiêu Diêu, ta cả đời chuyên nghề làm thuốc, ta thường tới lui trong núi. Sau ta nghe có nhà ông Đàо Hoằng ở tại đó, ta nhơn đi lấy thuốc, qua đó cất am đã lâu năm, bây giờ ý ta cũng muốn trở về. Xa Kính hơ áo rồi, bèn xin về. Ông già dạy Thiểu Cô dắt ra một con bò, biểu Xa Kính cỡi mà về; lại dạy một đứa tiểu đồng đem ra một cái cọ, ông già dở ra, lấy một cái mảo thầy chùa mà cho. Xa Kính không chịu mà rằng: chí tôi dốc lo việc nước nhà, có đâu ông cho tôi đồ như vậy. Ông già nói: thuở trước ta cũng có chí giúp đời, sau bỡi các người làm tướng bất tài không dùng kế ta, nước nhà phải hoạn họa; may ta nhờ một cái giỏ ấy mới khỏi nạn, bằng chẳng thì chẳng còn tử tế tới ngày nay; nhà ngươi nghe lời ta lảnh mảo ấy, ngày sau sẽ biết. Xa Kính chối dài không lảnh, ông già thấy không lẽ ép nài, một than thở mà thôi. Xa Kính đứng xa xa thấy trong giỏ sắp những đồ gỗ cùng đồ thầy chùa, không có đồ chi cho lạ, bèn lên lưng bò từ giã mà về. Vừa ra khỏi rừng, bò chạy như dông, giây phút tới nhà, Xa Kính kêu người nhà thắp đèn ra mà dắt bò, con bò liền rống lên, hóa ra cọp mà đi mất.
Sáng ngày, Xa Kính đi tìm am ông Thể Huyền, thì chẳng thấy am tự nào. Cách ít ngày ông ấy đi ngang qua phía tây cách bốn mươi dặm, thì thấy bên nền cũ ông Đạo Hoằng có một cái miểu cũ, mỉa mai chỗ đụt mưa ngày trước, trên vách có đề hai câu thơ rằng: Dạ lương nghi hữu vỏ; viện tịnh nhược vô tăng. Dấu mực còn ràng ràng, y như câu thơ ông Tô Dông Bа ngó thấy.
31- CHUYỆN ÔNG LƯU BÁ ÔNNgười ta đồn núi Thanh Diền có chuyện kì, nhằm lúc ông Lưu Bá Ôn còn ở ẩn, mỗi bữa ông ấy có ý rình coi. Thình lình cửa hang đá mở ra, ông Lưu chun vào, thấy trên vách đá có chữ đề rằng: vì ông Lưu cửa núi mở. Ông Lưu lấy đá gỏ cửa trong lại mở ra, vào một tầng nữa, liền thấy có một thầy đạo sĩ gối sách mà nằm. Thầy đạo sĩ nói vuối ông Lưu rằng: ấy là sách Binh thơ, rạng ngày mai nhà ngươi đọc thuộc, ta cho nhà ngươi. Ông Lưu chịu, lảnh sách về nội trong một đêm đọc thuộc. Thầy đạo sĩ phải giao sách Binh thơ y như lời nói. Vã lại thuở ông Lưu cơ còn nhỏ đi học trong chùa, có một người ở phòng riêng hay xuất thần đi chơi, khóa cửa lại hoặc một tháng, hoặc nửa tháng mới về. Xảy có sứ bắc qua ghé tại chùa, tối không có chỗ nghỉ, thấy phòng khóa bỏ không, bèn phá cửa phòng, thấy có một người nằm ngay đơ, nói rằng chết rồi, dạy phải thiêu mà chôn đi, để phòng cho sứ ơe. Chẳng dè hồn người ấy về, mà xác thì tiêu tan không biết nhập vào đâu, đêm đêm thường kêu khóc hỏi ta ở đâu bây giờ. Ông Lưu cơ nghe hỏi nhu vậy liền mở cửa sổ, nói ta ở đây. Hồn ấy liền nhập vào, cho nên ông Lưu cơ lại càng thông minh hơn trước bội phần: phép thiên văn, phép binh, ông ấy coi qua liền hiểu thấu.
32- CÓ PHƯỚC LÀM QUANNăm Thiên Thuận, Vi Sĩ Ngô vâng chỉ về kinh, thuở ấy vua Anh Tông ngự đền Văn Hoa, đòi các quan tâu đối. Có một mình Vi Sĩ Ngô làm thinh, hồi lâu mới tâu rằng: kẻ khách thần dâng sớ. Ai nấy đều kinh sợ, vua Anh Tông buồn ý bèn ngự giá trở lui. Vi Sĩ Ngô ra tới cửa Tả thuận lấy mảo xuống coi, có một con bò cạp cắn đầu sưng đỏ lòm, ai nấy mới hiểu Vi Sĩ Ngô tâu đối không đặng là vì bò cạp. Tới đời Tống hiệu Thuần Hy, có quan Ngự sử vào đền tâu đối, nhắc tới việc vua Cao Tông, ông Ngự sử vùng sa nước mắt. Vua phán hỏi, ông Ngự sử tâu rằng nhớ công nghiệp tiên đế lao khổ. Vua Hiếu Tông cũng sa nước mắt, sáng ngày phê cho ông Ngự sử làm chức Thị Lang, mà chẳng hay ông Ngự sử bị rít cắn. Ấy kẻ bị bò cạp cắn, người bị rít cắn, cũng đồng bị trùng độc cắn mà may rủi xa nhau.
Sách khiển sầu. 33 - CHUYỆN NHẬM TÚ
Nhậm Kiến là người ở đất Ngư Đài, làm nghề bán da trâu, một chuyến mua da hết vốn, quyết qua Hiệp Tây mà bán. Đi dọc đàng, xảy gặp một người ăn chơi xưng là họ Thân, ăn nói phải thế, Nhậm Kiên kết làm anh em, rủ đi qua Hiệp Tây. Tới nơi Nhậm Kiến xán bịnh đau nặng, họ Thân, nuôi dưỡng tử tế. Cách hơn mười bữá bịnh trở nặng, Nhậm Kiên biết mình không xong, bèn nói với họ Thân rằng: nhà tôi nghèo khổ, cả thảy tám miệng ăn đều nhờ có một mình tôi, nay chẳng may tôi có bỏ thây đất nước người, đàng ngàn dặm chẳng biết nhờ ai, một nhờ anh là chơn tay tôi vậy. Trong túi tôi có hai trăm đồng tiền, anh lấy nửa mua hòm mà chôn tôi, dư thì anh tiêu dùng; còn một nửa anh gởi về cho vợ con tôi, biểu nó qua mà đem quan cữu tôi về; nhược bằng anh có lòng đem hài cốt tôi về xứ sở, tôi không suy tính với anh món chi cả. Nhậm Kiến nói rồi liền làm thơ trao cho họ Thân, qua tới tối thì chết. Họ Thân lấy năm sáu đồng mua một cái hòm xấu xấu, liệm Nhậm Kiến rồi, chủ nhà hối dời đi nơi khác, họ Thân mượn đều nói đi chùa, bèn đi mất không trở về. Qua một năm vợ con Nhậm Kiến mới đặng tin, thuở ấy con Nhậm Kiến là Nhậm Tú mới đặng 17 tuổi, nghe cha chết liền bỏ học, quyết đi tìm quan cữu cha, người mẹ thấy con còn nhỏ không nỡ cho đi. Nhậm Tú khóc lóc bỏ ăn, mẹ phải thế đồ lấy tiền cho con đi, lại cho một đứa đầy tớ đi theo. Nhậm Tú đi nữa năm mới đem quan tài cha về, chôn cất xong xuôi, thì trong nhà sạch bách. May Nhậm Tú thông minh, làm mãn khó rồi, bèn vào nhà học sanh; mà tánh hay chơi bời, mẹ răn khuyên không đặng, mẹ giận khóc bỏ ăn, Nhậm Tú sợ thề với mẹ không dám chơi bời, đóng cửa hơn một năm, bèn ăn đặng bổng học trò giỏi. Mẹ khuyẻn con dạy học trò, mà làng xóm thấy Nhậm Tú không có hạnh, không ai thèm cho con đi học.
Thuở ấy có một người chú họ họ Trương, buôn bán tại đất Kinh Sư, biểu Nhậm Tú đi theo, chịu giúp vốn cho mà buôn bán. Nhậm Tú mầng đi theo chú họ, tới đất Lâm Thanh đậu ghe ngoài vàm, nhằm lúc ghe thuyền đông, nghe những tiếng chèo tiếng cười ỏi tai, ngủ không đặng; chừng canh khuya nghe tiếng đổ hột lối trrớc mũi ghe, ngứa nghề cũ bức tức nằm không yên, thăm chừng thấy ai nấy ngủ mòm, lén xách túi tiền đồng, sắm sửa ra đi, sực nhớ lời mẹ dạy, lại để túi xuống tính đi ngủ, té ra bồi hồi ngủ không đặng, lấy túi ra bỏ túi vô, chờ dậy nằm xuống đôi ba bận. Sau hết y nhịn thèm không đặng, liền xách túi đi chuyền qua ghe gần, thấy hai người đương gầy ăn thua, bỏ tiền ra xin cho chơi. Hai người mầng cho vào sòng, Nhậm Tú ăn, một người thua sạch, lấy vàng nén cầm cho chủ chứa, lần lần đánh lớn đặt một cái tới một hai trăm. Ba ngươi đương đánh lớn, xảy có một ngưrời cũng qua ghe chăm chỉ coi chơi hồi lâu, rồi lấy vàng thế cho chủ chứa ngồi vô mà đổ.
Họ Trương nữa đêm thức dậy, thấy không có Nhậm Tú, mà nghe bên ghe gần có tiếng đổ hột, biết chắc cháu qua đó, liền bỏ ghe đi qua, có ý phá đám không cho cháu chơi, té ra tới nơi thấy cháu ăn tiền chất đống, làm thinh lấy đôi ba ngàn trở về, kêu bạn bè dậy qua ghe đổ hột vác tiền về ghe, hãy còn hơn một muôn đồng.
Cách một hồi ba ngươi kia thua hết, tiền dưới ghe chứa không còn một đồng. Ba ngươi kia đòi ăn thua vàng, mà Nhậm Tú no rồi, có ý làm khó, không chịu chơi vàng. Họ Trương lại hối hấp biểu về, ba người kia nóng nảy, chủ chứa muốn nhờ tiền xâu, liền chạy hỏi ghe khác được hơn mười vạn đồng. Gầy sòng lại một hồi, bao nhiêu tiền đều về tay Nhậm Tú. Trời sáng Nhậm Tú đem tiền về ghe, ai nấy tảng lạc. Chủ chứa coi lại mấy trăm đồng tiền xâu đều hoá ra giấy tiền, thất kinh tìm qua ghe Nhậm Tú mà phân bua, có ý bắt Nhậm Tú thường. Đến khi hỏi tên họ làng quán thì là con Nhậm Kiến, chủ chứa rút cổ tháo mồ hôi mà trở về. Nhậm Tú hòi thăm ghe xung quanh, mới biết là họ Thân làm anh em với cha mình thuở trước. Nhậm Tú tới đất Hiệp Tây cũng có nghe tiếng họ Thân, thấy quỉ đã báo y, cho nên không hỏi chuyện cũ. Nhậm Tú hiệp vốn buôn chung với chú họ,mãn năm được lợi nhiều, lần lần làm nên một ông nhà giàu lớn. 34 - TRƯƠNG THÀNH
Người Dự Châu họ Trương ấy vốn sinh đẻ tại nước Tề, cơn bát loạn vợ bị giặc bắt, qua ngụ Dự Châu lập nghiệp chắp nối, mới sinh ra một đứa con tên là Nột; chẳng khỏi bao lâu vợ ấy chết, chắp nối một lần nữa lại sinh ra Trương Thành. Vợ sau họ Ngưu dữ, ghen ghét tên Nột, cầm như tôi mọi, cho ăn dơ, bắt đi hái củi mỗi ngày là một gánh, không có thì đánh chưởi khổ sở; bao nhiêu đồ ngon cất giấu cho Thành, cho Thành đi học. Thành lớn lên hay thương anh, thấy anh cực, can gián mẹ không thèm nghe lời. Một bữa, tên Nột vào núi đốn củi chưa đầy gánh, mắc mưa dông lớn ngồi đụt dưới kẹt đá, đến khi tạnh mưa thì trời đã tối, bụng đói lắm, gánh củi ra về, mẹ ghẻ coi không đầy gánh, không cho ăn. Nột đói quá vào nhà trong nằm dài. Thành đi học về thấy anh hoi hóp, hỏi anh đau sao? Anh nói đói lắm. Thành buồn bỏ đi ra, cách một hồi lộn lưng bánh đem vào cho anh ăn. Anh hỏi bánh ở đâu? Thành nói tôi ăn cắp bột mượn đờn ba lối xóm làm, anh cứ việc ăn, chớ nói ra. Nột ăn rồi dặn em đừng làm như vậy nữa, kẻo việc lậu ra mà lụy tới em; vã lại ăn được một ngày một bữa, có đói cũng không đến đỗi chết. Thành nói: anh yếu đuối lắm hái củi nhiều làm sao cho đặng? Qua ngày sau Thành ăn cơm rồi lén vào núi tìm tới chỗ anh làm củi. Anh thấy, thất kinh, hỏi em đi làm gì? Thành trả lời rằng: đi hái cùi giùm. Anh hỏi ai biểu? Em nói: tôi lén đi vô đây. Anh nói: không nói em làm được không, dầu em làm được cũng không nên làm, em phải về cho mau. Thành không nghe, chạy đi bẻ củi giùm cho anh, lại nói: mai tôi sẽ đem búa theo. Anh chạy lại không cho em bẻ, mà tay em đã trầy ra, giày dép lại rách. Anh nói: em không nghe lời mà về, anh phải hại mình anh cho chết đi cho rồi. Thành nghe anh dức lắm phải bỏ ra mà về. Nột phải đưa em ra nửa đàng mới trở lại. Đến khi Nột gánh củi về, lại qua trường học dặn thầy rằng: em tôi nhỏ dại, xin thầy cầm nó, đừng cho vào núi, cọp hùm dữ lắm. Thầy nói hồi sớm mai nầy không biết nó đi đâu, không thấy tựu trường, ta có đánh nó. Nột trở về nói với em rằng: tại em không nghe lời, nên mới phải đòn như vậy. Thành cười nói không có; sáng ngày mai lại lót tót cắp búa vào rừng. Anh sợ nói: anh đã biểu em đừng đi, sao hãy còn vào đây. Thành không nói rằng chi hết, cứ việc đốn hối hả, tháo mồ hôi, chừng đặng một bó, liền bỏ đó mà đi không nói với anh. Thầy thấy tới trưa cứ việc đánh, Thành mới thưa thiệt. Thầy khen Thành có lòng với anh, từ ấy không cầm nữa; anh sợ biểu đừng, Thành cũng không nghe. Một bữa có người ta đi lấy củi đông, thình lình cọp nhảy ra, ai nấy thất kinh ngã lăn, cọp tha Thành đi, Nột vác búa chay theo, búa nhằm đùi cọp, cọp đau chạy hoảng theo không kịp. Nột kêu khóc trở lại, ai nấy can gián, Nột lại khóc hơn nữa mà rằng: em tôi không phải như em ai, nó chết đây cũng vì tôi, tôi còn sống mà làm gì! Nột nói rồi liền lấy búa cắt cổ mà chết, ai nấy chạy lại giựt búa, thì đã phạm vào một tấc, máu chảy như xối, nằm không cục cựa. Mấy người hái củi sảng sốt xé áo ra mà ràng rịt chỗ phạm ấy, xúm nhau lại dịnh Nột về, mẹ ghẻ khóc mắng rằng: mày giết con tao, mày làm bộ cắt cổ cho khỏi tiếng nói đó. Nột rên mà rằng: mẹ đừng lo buồn, em tôi chết, tôi chẳng có lẽ sống. Đem Nột lên giuờrng đau đớn nằm không đặng, những ngồi dựa vách mà khóc. Cha sợ Nột cũng chết luôn, mỗi bữa thường lại giường đút cơm cho ăn, Mẹ ghẻ thấy vậy lại càng chưởi mắng. Nột thấy vậy bỏ ăn ba bữa mà chết.
Thuở ấy trong làng có một người thầy pháp hay đi âm phủ, Nột gặp dọc đàng khóc lóc hỏi thăm em ở đâu! Thảy pháp nói không nghe ở đâu, bèn trở lại đem Nột đi tới một chỗ đô hội, thấy một người bận áo đen ở trong thành bước ra, thầy pháp đón hỏi giùm. Người áo đen kéo đãy ra, soạn giấy dư trăm mà không có họ Trương; thầy pháp nghi còn có giấy khác. Người áo đen nói, đuờng nầy về phần ta coi, có giấy nào lọt được. Nột không tin, nài thầy pháp vào thành, thấy quỉ mới quỉ cũ lăng xăng rộn ràng, cũng có người quen, hỏi thăm không ai biết cả. Thoát chúc nghe tiếng reo lên, nói có Phật Bồ tác ngự, ngữa mặt lên ngó thấy trên không có một người lớn, hào quang sáng suốt, thầy pháp mầng rằng: anh hai có phuớc là dường nào! Phật Bồ tác mấy ngàn năm mới ngự vào chốn âm ti mà cứu người khổ nảo, nay gặp thì là may lắm. Thầy pháp nói bắt Nột quì, còn các quỉ thì xăng văng nhảy nhót chúc tụng bốn chữ từ bi cứu khổ. Tiếng tung hò dậy đất. Khi ấy Phật Bồ tác lấy một nhành dương rưới nước cam lồ xuống mù mù nhu sương, giây phút tan sương Phật Bồ tác biến mất. Nột rờ cổ nghe uớt ướt, chỗ dấu búa không còn đau nữa. Tên thầy pháp bèn đem Nột trở về ngó thấy làng, mới từ biệt mà đi. Nột chết hai ngày thình lình sống lại, thuật hết mọi đều gặp gỡ, nói rằng Thành không chết; mẹ ghẻ nói Nột kiếm đều nói láo, lại càng chưởi mắng hơn nữa. Nột không biết lấy đều gì chữa chối, song rờ chỗ phạm búa thì lành, rán chờ dậy lạy cha, quyết lòng lặn lội tìm em, như tìm không đặng, xin cha chớ trông con trở về, một liều con như đã chết rồi. Cha không dám cầm, đem con ra nơi vắng vẻ than khóc một hồi. Nột cất mình ra đi, tới đâu cũng hỏi tin em, ăn mày ăn xin trót năm mới tới Kim Lăng, áo quần rách rưới, lẫng thẫng dọc đường, xảy thấy một đoàn cỡi ngựa hơn mười con. Nột chạy tránh bên mép đàng, có một vị quan trưởng, trạc bốn mươi tuổi sấp xuống, quân hầu tiền hô hậu ủng, lại có một vị thiếu niên cởi ngựa nhỏ, liếc mắt ngó Nột. Nột sợ là một vì công tử, không dám ngước mặt, chẳng dè vì thiếu niên ấy gò cương xuống ngựa, lật đật hô lên: không phải là anh tôi sao! Nột ngóc đầu nhìn thì là Thành, liền nắm tay em mà khóc oà; Thành cũng khóc hỏi anh làm sao ra thân lạc loài dường ấy. Nột tỏ sự tình, Thành lại thảm thương hơn nữa. Mấy người hầu cũng rùng rùng xuống ngựa, hỏi căn do bẩm lại với quan trưởng. Vì quan trưởng liền dạy để một con ngựa cho Nột cỡi đi luôn về nhà, hỏi hết nguồn cơn.
Số là ngày cọp tha Thành đi, không biết làm sao lại bỏ Thanh bên đường. Thành nằm đó hơn một đêm, xảy có ông Trương Thiên Hộ ở trong kinh đô mà về, đi ngang thấy Thành đẹp đẽ, thương mà ôm lấy, hỏi quê quán thì Thành nói ở xa xác, mới chở Thành về nhà, cho thuốc men dặt mấy chỗ dấu cọp. Cách ít ngày Thành lành đã, ông Thiên Hộ không con bèn nuôi làm con. Khi ấy Thành thuật lại đầu đuôi, Nột lạy tạ ông Thiên Hộ, Thành lật đật vào nhà trong lấy áo quần tơ lụa cho anh mặc rồi dọn yến tiệc đãi anh. Ông Thiên Hộ hỏi cha mẹ ở tại Dự Châu có mấy anh em? Nột thưa rằng không có, nói cha khi còn nhỏ thì ở nước Tề, sau mới lưu lạc ở đất Dự Châu. Thiên Hộ nói mình cũng là người Tề, lại hỏi cha mẹ Nột ở làng nào? Nột thưa rằng: ngbe cha nói ở ấp Đồng Xương. Thiên Hộ lấy làm lạ, nói mình cũng là đồng ấp, hỏi làm sao mà dời qua đất Dự? Nột thưa rằng: mẹ chính bị quân binh bắt, cha mắc giặc hết sự nghiệp, đi buôn bên đất Dự Châu cho nên mới ở đó. Thiên Hộ mới hỏi tên cha; Nột thưa lại, Thiên Hộ nhìn Nột trân trân, vội vã chạy vào nhà trong. Bỗng chúc mẹ ông Thiên Hộ ra hỏi Nột rằng: có phải mày là cháu nội ông Trương Bính Chi chăng? Nột thưa phải. Mẹ ông Thiên Hộ vùng khóc lớn nói với ông Thiên Hộ rằng: ấy là em mày đó. Anh em tên Nột sửng sốt không hiểu chi cả. Mẹ Thiên Hộ mới nói mình làm bạn với cha Nột được ba năm, gặp cơn giặc giả lạc loài qua đất Bắc, lam bạn với ông Chỉ Huy nửa năm sanh Thiên Hộ; qua sáu tháng ông Chỉ Huy mất lộc, Thiên Hộ nhờ phụ ấm làm quan, bây giờ cũng thôi. Lại rằng: mẹ nguồi nguồi nhớ kiểng nhớ quê, có cho người qua Tề hỏi thăm mà không nghe tin tức gì, ai ngờ cha bay chạy qua phía tây mà ở; lại nói với Thiên Hộ rằng: mày nhận em làm con thì mất phước. Thiên Hộ thưa rằng: có hỏi Thành mà Thành không hề nói là người Tề, tại nó còn nhỏ lắm cho nên không nhớ.
Vậy lấy theo tuổi thì Thiên Hộ đã 41 tuổi làm anh cả. Thành 16 tuổi làm em út, Nột 20 làm anh ba. Thiên Hộ đặng hai em, lấy làm vui mầng, tính trở về quê quán, bà mẹ dùng dằng sợ về không chỗ gởi mình. Thiên Hộ nói thế ở chung được thì ở chung, bằng chẳng thì ở riêng, trong thiên hạ có nước nào là không có cha. Khi ấy mới bán hết nhà đất quyết chí ra đi. Tới nơi Nột với Thành chạy về báo trước cho cha hay. Té ra từ Nột đi, mẹ ghẻ cũng chết, còn một mình cha già, bỗng chúc thấy Nột vào và mầng và sợ, thấy Thành lại mầng quá nói không được, nước mắt chan oà. Nột, Thành lại nói có mẹ con Thiên Hộ tới, ông già vùng lau nước mắt, không biết làm sao mà mầng, không biết làm sao mà buồn, đứng sững sốt. Thiên Hộ vào chào hỏi rồi, mẹ Thiên Hộ ôm ông già mà khóc, ông già thấy tôi tớ trai gái hầu hạ đầy nhà, ngồi đứng không yên. Thành không thấy mẹ, hỏi ra thì mẹ đã chết rồi, van khóc om sòm. Thiên Hộ xuất tiền cất nhà cửa, rước thầy dạy hai em; ngoài tàu ngựa giậm, trong nhà tôi tớ dầy dầy, hóa ra một nhà sang giàu dưới thế.
35- SỰ TÍCH CON BÀN BÀOTrong sách Sưu Thần kí có nói rằng: đời vua Cao Tân, có tên Phòng Vương làm loạn, quan binh đi đánh nhiều trận thất lợi. Vua Cao Tân mới chiêu mộ trong thiên hạ ai lấy đặng đầu Phòng Vương, thì sẽ phong cho làm thiên hộ hầu, lại gã con cho nữa. Thuở ấy vua Cao Tân có nuôi một con chó hay theo vua ra vào, lông năm sắc đặt tên là Bàn Bào. Một bữa con chó ấy đi đâu mất không ai kiếm tìm được. Chẳng dè nó thoát qua bên Phòng Vương, Phòng Vương biết là chó vua nuôi liền dọn yến tiệc nổi ca nhạc vui mầng với con chó. Phòng Vương uống rượu say nằm ngủ mê, con chó lén vào cắn cổ, rút lấy đầu Phòng Vương tha chạy về bỏ trước đền. Vua Cao Tân thấy quả là đầu Phòng Vươug, mầng lắm, dạy cho nó ăn cơm thịt cùng đồ mỹ vị, con chó không ăn nằm dài tới đôi ba bữa. Vua Cao Tân coi ý con chó nằm vạ, phong cho con chó làm Cối Kê Hầu, gã năm gái tốt, cho ăn lộc một ngàn nóc gia. Con chó thấy vua không thất ước, mầng chờ dậy ăn uống như thường. Đến sau nó đẻ ra ba trai sáu gái, tuy giống người ta mà dưới đít có đuôi, nối sanh ra một nước gọi là Mọi Khuyển Nhung. 36- CHUYỆN MỘT VÌ TƯỚNG QUÂN
Ông Tra Y Huỳnh là người Tích Giang, tiết thanh minh đi dạo chơi ngoài đồng, vào một cái chùa, thấy trước tiền đeờng có để một cái chuông xưa lớn hơn ghè mái, trên dưới có dấu đất dấu tay mới ràng ràng. Họ Tra nghi dòm phía dưới, thì thấy có một cái thúng lớn, không biết đựng giống gì, biểu nhiều người nắm quai chuông mà dở lên, thì không nhúc nhích. Họ Tra lấy làm lạ ngồi rót ruọu uống, đợi coi có ai về mà dở chuông ấy ra. Một hồi có một người ăn mày vào, ôm những đồ đi ăn xin, để một bên chuông, rồi một tay dở chuông một tay bỏ đồ ăn vào trong thúng; dở lên để xuống hai ba bận, dồn hết đồ ăn vào thúng, rồi bỏ đi ra. Giây lâu lại trở về dở hé lấy đồ ăn, nhẹ nhàn cũng như mở tủ. Ai nấy lấy làm kì, họ Tra hỏi: chú mạnh mẽ dường ấy, sao còn đi xin ăn? Tên ăn mày nói mình ăn nhỉều quá cho nên không ai dám mướn. Họ Tra khuyên biểu đi ở lính, tên ăn mày nói sợ không ai dùng. Họ Tra đem tên ăn mày về nhà, cho ăn uống thì sức ăn bằng năm sáu người, cho quần áo lại với năm mươi đồng tiền mà đưa đi.
Cách hơn mười năm, cháu họ Tra ngồi tri huyện tại đất Mân, xảy có một vì tướng quân tới viếng. Hai đàng đàm đạo, vì tướng quân hỏi ông huyện có biết ông Y Huỳnh chăng? Ông huyện nói là chú họ; lại hỏi nhơn sao tướng quân biết ông Y Huỳnh. Vì tướng quàn nói ông ấy là thầy, xa nhau hơn mười năm, lòng hằng tưởng nhớ, xin gởi lời cùng thầy qua chơi một chuyến. Ông huyện nghĩ chú mình là người văn thơ, sao lại có học trò võ, cũng ừ gọi là. Sau có ông Y Huỳnh tới, ông huyện học lại, Ông Y Huỳnh quên lững không biết là ai, mà bỡi vì tướng quân trao lời cặn kẻ, liền dạy bắt ngựa đi tới cửa ông tướng quân. Ông tướng quân thấy giấy thiếp đưa vào, vội vã chạy ra hầu rước ngoài cửa ngõ. Ông Y Huỳnh nhìn coi lạ đặc, ngờ là ông tướng quân lầm, mà ông tướng quân lại càng khiêm nhượng, rước khách vào ba bốn vọng canh. Ông Y Huỳnh thấy các con hầu lăng xăng, biết là nhà trong, dừng chơn không dám bước, ông tướng quân lại cúc cung xin vào, đứa cuốn rèm, người dọn ghế đều là con hầu. Ông Y Huỳnh ngồi xuống xăm rắm hỏi thăm, liền thấy có đứa đem đồ triều phục cho tướng quân bận vào, xóc sửa ngay thẳng, lại dạy ít đứa hầu sửa soạn cho ông Y Huỳnh ngồi lên ghế trên chính đính, rồi ông tướng quân mới xuống múa lạy như thể chầu vua. Y Huỳnh sửng sốt không biết chuyện gì. Ông tướng quân bái lễ tất, thay áo thường ngồi đãi, cười mà nói rằng: thầy không nhớ tên ăn mày dở chuông sao? Họ Tra mới nhớ sực chuyện hơn mười năm. Ông tướng quân dọn yến tiệc thết đãi ân cần, lo cho tới giấc ngủ. Họ Tra thấy tướng quân trọng hậu, ăn ngồi không yên, xin trở về, tướng quân không cho, cứ việc kiểm điểm gia tài, của cải, tôi mọi, lừa ngựa, dạy biên ra cả thảy. Một bữa ông tướng quân nói với họ Tra rằng: tôi làm nên thiệt nhờ thầy, nay gia tài của cải thảy thảy mọi món, tôi chia ra làm hai, một nửa để dành cho thầy, ấy là của thầy tôi không dám hưởng dùng một mình. Họ Tra không chịu, ông tướng quân không nghe, dạy tớ trai mọi gái phân nhau sắp dọn bắt ngựa lừa chuyên chở của cải rần rần một lủ đưa họ Tra về. Sau họ Tra can án về việc tu sử mất chức cũng nhờ sức quan tướng quân mà đặng khỏi.
37. BÀN CHIÊM BAOCó một người nằm chiêm bao thấy mình hóa ra con chó cỏ, không biết lành dữ thề nào, tới thầy bói, xin bàn giùm. Thầy bói bàn nói: điềm chiêm bao ấy khá lắm, ấy là điềm lộc thực, đến mai sẽ có người mời ăn. Tên đi bàn chiêm bao về, qua ngày mai quả có người mời ăn, mầng khoe khoang nói thầy bàn giỏi. Tên anh em bạn nghe được, trong ý cũng muốn kiếm ăn, toan nhận diện, chạy tới thầy bói nói bất tử mình cũng thay mình hóa ra con chó cò, họa may thầy có bàn cho là điềm lộc thực. Chàng dè thầy bói bàn cho là điềm dữ, nói rằng: chú phải giữ mình, kẻo chúng xô chú xuống sông. Tên ấy bỏ ra về, ngẩm nghĩ trong mình rằng: mình nói láo, mà lão thầy cũng bàn bậy, thôi để mai đây khòng có chuyện gì, mình sẽ qua mắng lão thầy chơi; và đi và nói, không dè mình đã qua cầu, mà cầu thì chật hẹp có hai ba cái xe qua lại; chàng và ngó thấy xe đi khít một bên, lật đật tránh, sớn sác bước hụt lọt chủm xuống sông. Sáng ngày tên ấy tới hỏi ông thầy bói: anh kia thấy mình hóa ra chó cỏ, thầy đoán là điềm lộc thực cũng nhằm, còn tôi cũng ngó thấy như vậy, thầy lại đoán phải té xuống sông, mà cũng không sai, sao cũng thì chiêm bao, mà có người may người rủi thể ấy? Thầy bói nói rằng: người ta chiêm bao thiệt, người ta được điềm lành, chú mắc chiêm bao giả, cho nên cũng khiến cho thầy bàn không sai. Trong sách có nói rằng: thổ long sô cẩu linh ư vị đảo chi tiền, mà bất linh ư kí đảo chi hầu, nghĩa là rồng đất chó cỏ có linh là hồi chưa đảo vỏ, chớ đến khi đảo vỏ rồi thì chẳng còn linh gì nữa. Vậy hễ cầu đảo việc rồi thì bao nhiêu chó cỏ người ta đều quăng xuống sông. Bỡi đó con chó cỏ người ta thấy trước, còn đương linh, còn có đồ cúng cấp, chí như con chó chú đặt đều nói thấy sau, không ai còn dùng, cho nên chú phải xuống sông.
38- TRỒNG LÊMột người nhà quê chở lê ra chợ mà bán, giống lê thơm ngọt bán đuợc tiền, xảy có một thầy đạo sĩ áo quần lang thang tới trước xe mà ăn xin, người nhà quê đuổi không đi, giận chưởi mắng nhiều tiếng. Thầy đạo sĩ rằng: lê cả xe, già xin có một trái giá đáng bao nhiêu mà chú làm bộ giận dữ thế ấy! Ai nấy biểu người bán lê coi trái nào xấu xấu cho lão già một trái, cho lão đi đi, tên bán lê không chịu cho. Tên trùm chợ thấy ngầy ngà, bèn lấy tiền mua một trái cho thấy đạo sĩ, thầy đạo sĩ lạy tạ, lại nói với ai nấy rằng: ta tu trì, ta chẳng biết tiếc của là cái gì, thôi ta cũng có lê quí, ta xin đem ra mà cho mọi người ăn. Có kẻ nói: như thầy có lê, thầy còn xin làm chi. Thầy đạo sĩ nói: ta có ý kiếm hột mà trồng bây giờ. Nói rồi liền cắn trái lê mà ăn, còn hột thì nắm trong tay, lấy ra một con dao đào lỗ sâu hai ba tấc, bỏ hột lê xuống dập đất lại, biểu hàng phố đem nuớc nóng mà tưới. Có người cắc cớ xin nước sôi đem ra, thầy đạo sĩ lấy đổ ngay xuống lổ trồng lê. Ai nấy chăm chỉ coi, thấy lê đội đất mọc lên, giây phút thành một cây lớn nhánh nhóc sum sê, nở hoa sinh trái lớn đại thơm ngát, hoằng hoại một cây. Thầy đạo sĩ cứ từ chót vót hái xuống, hái đặng bao nhiêu liền phân chia cho mấy người coi ăn. Hái hết trái rồi liền lấy dao đốn cây lê, nghe tiếng dao chạc chạc một hồi cây ngã, thầy đạo sĩ bèn kéo cả cây thủng thỉnh mà đi. Té ra hồi thầy đạo sĩ trồng lê, người bán lê cũng chen vào coi với thiên hạ, quên phứt xe lê. Thầy đạo sĩ đi rồi, anh ta mới ngó lại, thì lê mất hết không còn một trái, mới biết thầy đạo sĩ lấy lê mình phân phát cho thiên hạ ăn. Coi trên xe đứt mất hết một cái nài xe, dấu chặt còn ràng ràng; anh bán lê nổi xung chạy theo, ra tới góc tường thấy nài xe bỏ đó, mới biết thầy đạo sĩ đốn lê là chặt cái nài ấy. Thầy đạo sĩ đi đâu không biết, tên bán lê ngơ ngẩn, cả chợ đều cười.
39- ĐẠO BẠCH LIÊN (1)Người đạo Bạch Liên, nguyên ở Sơn Tây, không ai nhớ tên họ, vốn là người hay dùng tà thuật dị đoan, có nhiều người ái mộ theo làm học trò. Một bữa người ấy sắm sửa đi xa, lấy ra một cái chậu để giữa nhà, trên có chậu úp, dặn học trò đừng dở ra mà coi. Người ấy đi rồi, học trò tọc mạch dở chậu ra, thì thấy đựng nước lả, trên mặt nước có một chiếc ghe đươn bằng cỏ, bườm chèo sẵn sàng. Học trò cắc cớ khoát nrớc, chiếc ghe nhảy lên nhảy xuống hòng nghiêng úp, học trò sợ vịn chiếc ghe rồi đậy lại như cũ. Giây lâu thầy về làm mặt giận quở học trò sao không vâng lời. Học trò đều thưa không có chuyện chi không vâng lời. Thầy nói khi nảy tao ở ngoài biển ghe gần chìm, nói dối tao làm sao. Lần khác ban đêm thầy đi chơi, để một cái đèn lớn giữa nhà, dặn học trò giữ, đừng để gió tắt. Qua canh hai thầy không về, học trò buồn ngủ nằm vật dọc ghế, lúc dậy thì đèn tắt, lật đật đi thắp. Kế thầy về quở. Học trò nói: chúng tôi có ngủ ở đâu mà bỏ đèn tắt. Тhầy nói: bay để tao đi thầm hơn mười dặm, mà hãy còn chối. Học trò thất kinh; người ấy làm nhiều chước lạ như vậy kể chẳng xiết. Sau vợ bé thầy tư tôi với học trò, thầy hay mà không nói. Một bữa thầy biểu tên học trò đi cho heo ăn, tên học trò chun vào chuồng liền hóa ra con heo, thầy kêu hàng heo bắt làm thịt bán ngoài chợ, mà không ai biết. Cách ít ngày cha tên học trò không thấy con về, qua hỏi, thì thầy nói nó không tới. Cha tên học trò hỏi thăm khắp chỗ, không có tin tức gì. Xảy có một tên học trò bạn hay được chuyện ấy nói đi nói lại, cha tên học trò bị giết mới phát đơn đi kiện tại huyện. Ông huyện sợ lão thầy có phép độn (2) không dám bắt, chạy tờ bẩm xin quan trên cho quân lính cho đông mà vây nhà lão thầy, bắt cả vợ con bỏ vào củi giải qua tỉnh thành, đi ngang qua núi Thái Hành Sơn. Chẳng dè trong núi có một người cao lớn dị thường, sầm sầm đầu ngang ngọn cây, con mắt bằng cái bát cô tô, miệng bằng trang cái ảng, nanh dài một thước, đứng trước đầu đường, quân lính kinh sợ không dám đi. Lão thầy nói nó là yêu, vợ tôi trừ nó mới được. Quân lính nghe lời mở trói, vợ lão thầy vác giáo ra, người kì dị ấy nổi giận táp một miếng mất xác. Ai nấy cũng kinh hãi, lão thầy nói nó đã hại vợ tôi, thì phải cho con tôi ra, quân lính thả con lão thầy ra, con cũng bị nuốt như mẹ vậy. Ai nấy thất sắc, không biết làm sao, lão thầy giận khóc nói nó đã hại vợ tôi rồi lại hại con tôi, chẳng lẽ nhịn đặng, phải có tôi ra cho tôi giết nó. Quân lính thả lão thầy, trao đao mác hối đi. Người giềnh giàng ấy hằm hằm xốc lại, đánh với nhau một lát, lão thầy liền bị nó nắm đặng bò vào miệng, trương cổ nuốt ngay vô bụng rồi cứ việc đi khoan thai.
Chú thích:
(1) Đạo Bạch Liên ấy nhiều người nói gốc bởi Từ Hồng Nhu đốt hương thơm dụ người ta theo làm riêng một đạo, chuyên thờ thần quỉ, tin những việc dị đoan.
(2) Độn là phép coi chỉ tay, coi giờ nào về hung thần, kiết thần mà biết việc quá khứ vị lai.
40- THẦY ĐẠO SĨ Ở NÚI LAO SƠNXưa ấy có tên Vương Sanh cũng là con nhà thế gia, từ nhỏ mộ đạo, nghe núi Lao Sơn có tiên nhiều, bèn đội níp qua đó. Trèo lên chót núi thấy có am tự vắng vẻ, ở trong có một thầy đạo sĩ ngồi chiếu lát, diện mạo đẹp đẽ; hỏi chuyện thì thầy đạo sĩ nói nhiều lẽ cao xa, Vương Sanh bèn xin làm học trò. Thầy đạo sĩ nói e nhà ngươi chịu khó không đặng. Vương Sanh quả quyết nói chuyện chi khó nhọc cũng làm đặng. Đến chiều tối học trò về đông, Vương Sanh thấy đều xá mỗi một trò, rồi ở lại đó. Trời vừa rựng sáng thầy đạo sĩ kêu Vương Sanh trao cho một cái búa, biểu đi theo học trò mà đốn củi. Vương Sanh vâng lảnh búa đi hái củi hơn một tháng, tay chơn sưng trầy khốn cực chịu không đặng, trong ý muốn trở về. Đêm kia đi lấy củi vể, thấy có hai người tới uống rượu cùng thầy, trời tối trong nhà chưa thắp đèn, thầy lấy một tấm giấy cắt làm mặt kính dán vào trong vách, giây phút mặt trăng mọc lên sáng sốt chiếu cả nhà, các học trò nhảy nhót hầu hạ xung quanh. Một người khách nói: trăng thanh đêm toại, chẳng lẽ vui một mình, liền vói lên trên ghế lấy một bầu rượu, biểu học trò chia nhau mà uống cho say. Vương Sanh nói trong mình cái hồ nhỏ mà phân chia sao cho đủ. Khi ấy mỗi trò đều kiếm chén, lật đật giành nhau mà rót, sợ hết rượu đi, té ra rót hoài cũng có hoài, đều lấy làm lạ với nhau. Rồi đó người khách thứ hai nói nhờ ơn cho mặt trăng soi sáng, lẽ phải đòi nàng Hằng Nga (1) xuống mới vui. Nói rồi liền lấy một chiếc đủa quăng vào trong mặt trăng, xảy thấy một gái xinh tốt ở trong mặt trăng đi ra, hồi mới ra không đầy một thước, xuống vừa tới đất thì cao bằng người ta, lưng eo, cổ nhỏ, múa hát dịu dàng, rồi nhảy lên trên ghế, ai nấy lấy làm lạ, bổng chúc huờn lại chiếc đủa, ba ông đều cả cười. Một ông lại rằng: đêm nay vui vẻ cũng nên vào cung trăng mà yến ẩm cùng nhau. Nói rồi ba ông đều vào trong mặt trăng, học trò đều thấy ba ông ngồi uống rượu như hình trong kiếng. Cách một hồi mặt trăng lờ, học trò thắp đèn đem ra, thì còn có một mình thầy đạo sĩ, hai người kia đi đâu mất, thấy trên ghế còn đồ ăn, trên vách thì có một miếng giấy tròn như hình mặt kính mà thôi. Ông đạo sĩ hỏi học trò uống có vừa không? Học trò đều thưa uống no đủ. Ông đạo sĩ nói: uống no đủ thì phải đi ngủ cho sớm, đến mai còn phải đi hái củi. Các học trò lui ra, Vương Sanh mầng thầm không còn nghĩ tới sự về. Ngày kia Vương Sanh thấy công việc một ngày một khổ, mà thầy cũng chẳng truyền nghề gì cho, tính đợi chờ cũng mỏi, mới từ giã mà rằng: kẻ môn đệ ở xa xuôi, tìm tới thấy mà học phép tiên, dầu chẳng đặng phép trường sanh, miễn là học đặng nghề chi nhỏ mọn cũng thỏa tấm lòng; nay theo thấy đã hơn ba tháng, chẳng qua là học một nghề làm củi, sớm đi tối về, thiệt ở nhà tôi cả đời chưa tầng chịu cực như vậy. Thầy đạo sĩ cười mà rằng: ấy ta nói nhà ngươi chịu cực không đặng, quả có như vậv, thôi đợi sáng ngày ta cho nhà ngươi về. Vương Sanh rằng: tôi lên làm việc vàn cũng đã lâu ngày, xin thầy nghĩ lại mà cho tôi một chút phép chi cho khỏi sự luống công vô ích. Thầy đạo sĩ hỏi nhà ngươi muốn phép gì? Vương Sanh thưa rằng: tôi thấy thầy muốn đi đâu thì đi, phên vách cũng không ngăn trở đuợc, như cho tôi được phép ấy thì cũng đã đủ. Thầy đạo sĩ cười, chịu chỏ, bèn truyền mấy câu chú, biểu Vương Sanh đọc lấy một mình. Thầy hô vào, Vương Sanh trở mặt vào vách mà không dám vào. Thầy hô: vào thử coi. Vương Sanh bước chậm rãi đi vào tới vách dội lại. Thầy hô cúi đầu chạy xông vào đừng giục dặc. Vương Sanh lui ra ít bước chạy sấn vào tới vách, sướt qua như không có vách, ngó lại quả thấy mình ở bên kia vách, mầng lắm vào tạ thầy mà về. Thấy dạy về phải giữ mình thanh tịnh, bằng không thì không hiệu đó; rồi đó thầy đem tiền gạo cấp cho Vưng Sanh về đường. Vương Sanh về tới nhà khoe khoang với vợ, nói: tao học đặng phép tiên hay quá, dầu là vách đá, tao cũng đi xuyên qua thong thả. Vợ không tin, Vương Sanh làm thử cho vợ coi, bèn lui ra ít bước, chạy đâm sầm vào vách; té ra đụng vách té ngửa ra, bất tỉnh nhơn sự, vợ đở dậy thì trán u lên một cục bằng cái trứng vịt. Vợ cười nói là phép mọc sừng, Vương Sanh mắc cỡ chửi lão đạo sĩ dạy bậy.
Chú thích:
(1) Truyện ngoài nói: Ngươi Hậu Nghệ xin Tây Vương Mẫu được một hoàn thuốc trường sanh, người vợ ăn cắp nuốt đi, chạy lên cung trăng hóa ra nàng tiên gọi là Hằng Nga. Có bài thơ rằng: Hằng Nga thuyết dược xuất nhơn gian, tàng tại nguyên cung bất phóng hoàn, Hậu Nghệ biến tầm chung phất hoặch, thùy tri thiên thượng diệc dung gian.