Phần IX 79 – CHÓ ĐỒNG
Đời vua Thuận-trị thiên hạ loạn, người ta giết nhau như giết kiến. Lý-hóa-Long ở trong núi về làng, gặp binh kéo ban đêm, sợ bị giết lây, túng không chỗ trốn, bèn bò lại đống thây ma, nằm núp mà giả chết. Binh qua cũng chưa dám dậy, xảy thấy những thây không đầu không tay đứng dậy cả đám, có một cái thây đầu đứt còn dính tòn ten, cất tiếng lên mà rằng: con chó đồng tới, biết làm sao! Bao nhiêu thây khác cũng ứng lên rằng: biết làm sao. Giây phút đều ngã xuống hết, lặng lẽ như tờ. Họ Lý kinh hãi chờn vờn muốn chờ dậy, chẳng dè có một con gì, mình thú mà đầu người xốc tới, cúi xuống cắn bể đầu người ta kiếm óc mà ăn. Họ Lý sợ đút đầu dưới thây ma mà chịu, con ấy chạy lại lật vai không đặng, nó mới đùa thây đi, bày đầu họ Lý. Họ Lý hoảng kinh rờ dưới lưng được một cục đá bằng cái bát, nắm trong tay. Con quái cúi đầu muốn cắn, họ Lý vùng dậy la lên, đánh cục đá nhằm mồm nó kêu như tiếng chim, ôm mồm mà chạy, đổ máu ra cùng đàng. Họ Lý theo coi lượm được hai cái răng nhọn vắc, dài hơn bốn tấc, đem về cho người ta coi, không ai biết là con thú gì.
80 – CHUỘT CỐNG
Đời Vạn-lịch, trong cung-môn có một con chuộc lớn bằng con mèo, khuấy phá hết sức, vua cho đòi ngoài dân ai có mèo hay đem tới mà trừ con chuột, chẳng dè mèo lại bị chuộc ăn. Thuở ấy có nước lạ đem cống con mèo voi, lông trắng như tuyết, bắt nó bỏ vào phòng chuột ở, đóng cữa rình mà coi. Con mèo ngồi xo rỏ, giây lâu con chuột ở trong hang bò ra thấy con mèo, xốc chạy lại. Con mèo nhảy thót lên trên ghế, con chuột cũng nhảy theo; con mèo lại nhảy xuống, cứ việc làm như vậy trót trăm lần. Ai nấy đều nói con mèo dở không làm chi được. Té ra con chuột nhảy lên nhảy xuống, đuối chưng, tức bụng mệt thở dốc, ngồi trên đất mà lấy hơi. Con mèo vùng nhảy xuống, chụp đầu cắn bàng cổ con chuột, nhào lộn một hồi, mèo kêu ngầu ngầu, chuột kêu chít chít. Mở cữa ra thì thấy đầu con chuột nát tan. Mới biết con mèo trớ con chuột không phải nhát, là có ý để cho nó mỏi mệt: chuột tới thì mèo lui, chuột lui thì mèo tới, ấy là dùng trí.
Kìa đứa thất phu cắp gươm trợn mắt, làm mặt giỏi có khác chi con chuột.
81 – QUÂN MÒ HÓNG
Ông tổng trấn đất Giao-châu mua về hai thằng mọi đen thui như lọ nồi, náng chơn nó dày như mo, ngữa lưỡi gươm cho nó đi qua đi lại cũng không động chạm chi cả. Bắc đĩ gả cho nó, đĩ sanh con ra lại trắng; bạn tác nó cười nói không phải con nó, nó hồ nghi bắc con mà giết; té ra xương con cũng đen như xương gà ác, mới biết rằng lầm. Thường dạy hai đứa múa đánh võ, bộ tịch nó nhảy nhún cũng dễ coi.
82 – CHUYỆN ÔNG VU TRUNG THẰNG.
Ông Vu-thành-Long làm quan Trung thằng đi kinh lược tới đất Cao-vưu, nhằm lúc ông Tấn thân ở đó gả con lấy chồng, bị ăn trộm lấy sạch đồ nữ trang. Quan phủ sở tại ngẩn ngơ hết phép tra không ra, quan Trung thằng dạy, đóng các cữa thành, chừa một cữa cho thiên hạ ra vào; dạy để lại quan phủ phải ra mà giữ cữa, hễ thấy có đồ khiêng gánh chở chuyên thì phải tra soát cho nghiêm nhặt; lại ra yết thị cho các nhơn dân ở trong thành, ai phải về nhà nấy, chực qua ngày sau có mặt cho người ta tra soát mà bắt cho đặng tang. Quan Trung thằng lại dặn riêng thầy đề lại: như có ai vào ra cữa thành đôi ba lần thì phải bắt. Qua tới giờ ngọ bắt được hai người đi mình không, không có gói gắm chi, quan Trung thằng chỉ mặt nói nó là ăn trộm. Hai người kêu oan, người dạy cổi áo ra mà xét, thì trong tay áo nó có hai cặp áo cưới. Số là nó sợ ngày sau người ta soát nhặt, lật đật đi dời đồ, mà đồ thì nhiều, phải lập thế đi nhiều lần, đem ra mới hết.
Lại khi ông Vu công còn làm tri huyện, đi dạo chơi bên huyện khác, sớm mai đi ngang ngoài đồng, thấy hai người khiêng một người bịnh nằm trên giường, trùm một cái mền lớn, lộ đầu tóc ra ngoài có giắt một cây trâm phụng; người bịnh nằm nghiêng, lại có ba bốn trai mạnh chạy theo sau, thay phiên chạy bên giường lấy tay ôm mền tù ém dưới mình người bịnh, dường như sợ gió lọt vào. Đi một hồi lại nghỉ vai bên đường, thay hai người khác khiêng. Ông Vu công đi qua, biểu lệ trở lại hỏi, thì mấy người nói em gái đau gần chết, phải khiêng đưa qua nhà chồng nó. Vu công đi được hai ba dặm, lại biểu quân lệ trở lại coi nó vào làng nào. Tên lệ đi theo thì thấy khiêng vào trong xóm nhà quê, vừa tới một cái nhà, liền có hai người trai ra rước. Tên lệ chạy theo bẩm lại, ông Vu công bèn hỏi ông huyện sở tại: trong thành có ai bị ăn trộm ăn cướp gì chăng? Quan huyện sở tại nói không có. Thuở ấy công lịnh nghiêm nhặt, cả quan lớn nhỏ đều sợ án trộm cướp, dẫu có ăn trộm, ăn cướp, giết người rõ ràng, ai nấy cũng giấu không dám nói ra. Vu công ghé quán, biểu người nhà thám chắc có nhà giàu bị ăn cướp cùng bị nó đốt chết. Vu công cho đòi con nhà giàu đến mà hỏi, người con nhà giàu cũng giấu giếm không dám nói. Vu công nói: tao đã bắt đặng ăn cướp cho rồi, không có chuyện chi mà sợ. Người con mới lạy xin cứu kẻo oan cha nó. Vu công đi thẳng tới nha quan huyện sở tại, biểu sai quân dõng lực, chừng trống trở canh tư phải ra khỏi thành; đi tới xóm nhà quê ấy, quả bắt đặng tám đứa, đánh sơ một hiệp, chúng nó đều chịu tội. Hỏi người bịnh đờn bà ấy là ai, chúng nó khai rằng: đêm ấy chúng nó mướn đĩ nằm trên giường ôm lấy đồ tang, tới chủ chứa thì đĩ cũng có phần. Ai nấy đều phục Vu công là thánh sống. Có kẻ hỏi làm sao ông ấy biết chuyện như vậy, ông ấy nói rằng không khó gì, tại người ta bất ý mà thôi, có lẽ đâu một người đờn bà nằm trên giường mà lại để cho mọi người thò tay ém mền đá động vào mình. Vã lại sự đổi vai mà đi thì là khiêng nặng; mỗi đứa lấy tay bợ sửa thì biết trong ấy có đồ. Chí như đờn bà ấy đã mang bịnh nặng, tới nhà làm sao cũng có đờn bà đón rước; té ra có hai người đờn ông ra rước mà cũng chẳng có dấu kinh sợ hỏi han một lời, lấy đó thì biết nó là ăn cướp.
83 – CHUYỆN VƯƠNG-TỬ-AN.
Vương-tử-an là học trò có danh ở đất Đông-xương khoa trường lạo đảo, nghĩa là việc thi cử, hằng khốn đốn. Vào trường rồi, lấy làm bức tức; gần ngày phóng bảng, uống rượu say mèm, về nhà mà nằm. Xảy có người nói có ngựa báo tin, họ Vương lồm cồm chờ dậy, biểu thướng một muôn. Người nhà thấy say cũng nói cho qua việc rằng đã thướng rồi. Họ Vương ngủ lại, giây phút có người vào báo rằng thầy đã đậu tấn sĩ. Họ Vương nói mình chưa đi kinh, có đâu lại đặng tấn sĩ cập đệ? Người ấy nói trường ba rồi, thầy quên sao, họ Vương mầng chờ dậy hối thướng một muôn. Người nhà lại gạt nói: đã thướng rồi, xin hãy ngủ yên. Cách một hồi có người vào báo rằng: thầy vào điện thí, đậu Hàn-lâm có Trường-ban tới chực. Quả có hai người áo mão nghiêm trang vào lạy trước giường. Họ Vương nghĩ trong mình không lẽ không đi làm vinh với làng xóm, cứ việc kêu Trường-ban, lạt giọng mà không ai thưa. Người nhà cười nói: Trường-ban đi đâu rồi, ngủ đi đã. Một lát Trường-ban trở lại, họ Vương đấm giường, giậm chơn, mắng rằng quân ngu đi đâu. Trường-ban nổi giận nói: thằng cha tham nhăng, ta nói chơi, mà nhà ngươi mắng thiệt à. Họ Vương nổi nóng, vùng chờ dậy đánh Trường-ban văng mảo, rồi cũng té dụi xuống; người vợ chạy lại đở, nói say gì dữ vậy. Họ Vương nói: quân Trường-ban dể ghét, mình có ý răn nó, mình có say ở đâu. Người vợ cười nói trong nhà có một đờn bà ngày nấu cho thầy ăn, tối dọn cho thầy ngủ, có Trường-ban ở đâu lạc loài cho tới chỗ bần cùng. Khi ấy họ Vương cũng đã bớt say, nhớ lại thì là chuyện chiêm bao.
84 – TRA ÁN.
Ấp Tây-nhai có họ Cổ đi đàng bị người ta giết, cách đêm vợ ở nhà lại thắt Cổ mà chết, em họ Cổ tức mình đi kiện bông lông, (lệ kêu là kiện do hà.) Thuở ấy ông Phí-công làm tri huyện sở tại đi lấy lược nghiệm, thấy trong lưng họ Cổ có một cái đẩy đựng năm đồng bạc, thì biết không phải vì tiền bạc. Quan huyện cho đòi hai làng bàn cận, xét hỏi sơ qua thì chẳng ra mối mang chi, bèn cho làng về, không đánh ai một roi; dạy phải có ý do thám kỷ cang, mười ngày báo một lần. Cách nửa năm việc nguôi ngoai, em họ Cổ oán ông huyện nhơn nhu, tới trước nha nói lớn tiếng. Quan huyện giận đuổi nó đi, nói ai giết anh mầy, mầy đã không biết mà chỉ, mầy lại muốn cho tao gia hại tới người lương thiện sao? Em họ Cổ kêu oan không đặng, giận lẩy về chôn anh chị, không thèm nói tới chuyện ấy nữa.
Một bữa có mấy người thiếu thuế, quan huyện có ý cho đòi tới nha; có tên Châu-thanh sợ quan quở, vào trước bẩm rằng đã lo đủ, liền lấy túi bạc trong lưng mà nạp. Quan huyện coi bạc rồi, bèn hỏi nhà nó ở đâu, nó thưa rằng ở gần ấp Tây-nhai; hỏi cách mấy dặm, nó thưa rằng chừng năm sáu dặm; hỏi năm ngoái họ Cổ bị người ta giết, mi có bà con quen biết gì với tên ấy chăng? Nó thưa rằng không quen biết. Quan huyện thạnh nộ nói mầy giết tên ấy, mầy còn nói rằng không biết. Châu-thanh một hai nói không, quan huyện không nghe, dạy đem ra tấn, nó liền xưng ngay.
Số là vợ họ Cổ muốn đi viếng sui gia, không có vòng bông thì lấy làm mắt cở, la dức biểu chồng đi mượn. Chồng không thèm đi, vợ phải đi mượn một mình; mà đồ....
... thì quí báu, đi đàng người vợ phải gói lại, giấu trong tay áo, đến khi về coi lại thì gói mất, chồng thì nghèo không sức mà thường, rầu rỉ muốn chết. Ngày ấy tên Châu lượm đặng gói đồ, biết là đồ vợ họ Cổ làm rớt, chờ họ Cổ đi khỏi, nửa đêm leo vách vào, nhằm lúc vợ họ Cổ nực nằm nhà ngoài. Tên Châu lấy gói đồ ra cho, có ý đồ đờn bà hòa gian, vợ họ Cổ không chịu, tên Châu không nghe, muốn làm hung. Vợ họ Cổ nói khéo rằng: không phải tôi chê cậu, tôi thấy chồng tôi thường đau ốm, thủng thẳng đợi chồng tôi chết rồi sẽ hay. Tên Châu nghe đặng bỏ ra về, đón đàng giết họ Cổ, tối lại tuốt qua nói với vợ họ Cổ rằng: anh đã bị người ta giết rồi, thôi trước nói làm sao, bây giờ phải nhìn lời. Vợ họ Cổ nghe nói khóc lớn lên, tên Châu sợ chạy mất. Sáng ngày vợ họ Cổ cũng chết. Ông Phí công xét rỏ tình hình làm tội quyết cho tên Châu. Ai nấy đều phục ông ấy thần minh, mà chẳng biết ông ấy lấy cớ gì mà tra án ấy. Ông Phí-công dạy rằng: tại mình gặp việc không chủ ý, chẳng có sự chi là khó. Số là khi đi lấy lược nghiệm được đẩy bạc thấy đề chữ vạn, đến khi coi bạc tên Châu, thì cũng đề chữ vạn, ấy là đồ một chủ; hỏi nó có quen biết thì nó nói không, lời nói cùng diện mạo gian xảo, cho nên mới biết chắc việc nó.
85 – TRA ÁN (THỨ HAI).
Hồ-thành với Phùng-an đồng ở một làng mà có đều thù khích nhau. Cha con Hồ-thành ngang tàng, Phùng-an cũng lòn cúi chơi bời, mà Hồ-thành cũng không lấy làm ưa. Một bữa đồng ngồi uống rượu say, Hồ thành khoe tài, nói lớn lối rằng chẳng sợ chi nghèo, muốn làm giàu nhỏ cũng chẳng khó gì. Phùng-an thấy Thành nghèo mà nói đổng thì cười. Thành làm mặt giận nói rằng: thiệt bữa nọ đi chơi may gặp một lão lái buôn giàu chở hàng hóa đầy xe, tôi giết quách lão đi, tôi bỏ thây lão dưới giếng loạn, tôi có sợ ai mà phòng giấu giếm. Phùng-an cũng cười. Thuở ấy em rể Hồ-thành là Trịnh-luân có gỡi cho Hồ-thành hai ba trăm đồng bạc, Hồ-thành thấy Phùng-an cười liền lấy ra cho Phùng-an coi. Phùng-an thấy vậy mới tin. Mãn tiệc rượu rồi, Phùng-an về nhà lén đi cáo với ông huyện, quan huyện cho bắt Hồ-thành tới cũng khai thiệt; hỏi Trịnh-luân có gỡi bạc, Trịnh-luân cũng chịu có; sai lệ đi tới giếng loạn lập thế dòng một người xuống coi quả có một cái thây không đầu. Hồ-thành thất kinh không đàng chối cải, cứ kêu oan ức mà thôi. Quan huyện dạy đánh và cùng nói rằng: Việc có bằng cớ rỏ ràng mà còn kêu oan làm sao; liền dạy xiềng rùn Hồ-thành bỏ vào ngục tối, nhứt diện hiểu thị cho các làng ai có bà con bị giết thì tới mà thưa. Cách một ngày có một người đờn bà tới quì đơn nói là vợ người bị giết, chồng nó đi vay của tên Giáp ba trăm đồng bạc mà đi buôn bán, Hồ-thành chận đàng mà giết đi. Quan huyện rằng: người chết dưới giếng, e không phải là chồng mi. Đờn bà ấy nói quả quyết là chồng nó. Quan huyện bèn dạy đem thây lên, đờn bà ấy coi quả là chồng mà không dám lại gần, đứng xa xa mà-khóc. Quan huyện dạy rằng: nay đã bắt đặng đứa hung phạm, đã kiếm đặng thây; ngặt còn thiếu một cái đầu, mi phải về đã, ngày nào kiếm đặng cái đầu sẽ đòi tới mà phân xữ. Rồi đó quan huyện cho đòi Hồ-thành, dạy nội ngày mai phải đem cái đầu ra, bằng không thì xiềng rùn lại nữa. Lệ dẩn Hồ-thành đi, tối ngày dẩn về hỏi thì Hồ-thành cứ việc kêu khóc mà thôi. Quan huyện dạy mài gươm đem Hồ-thành đi chém, rồi biểu dẩn trở lại mà nói rằng: có khi đêm hôm mầy lật đật vác thây đi mà rớt đầu lại chỗ nào phải nhớ mà tìm cho ra. Hồ-thành khóc xin hưởn cho nó kiếm. Quan huyện hỏi người đờn bà có mấy đứa con? Người đờn bà thưa rằng không. Hỏi chồng nó có bà con đâu chăng? Nó thưa rằng có một người chú họ. Quan huyện than thở nói: Còn nhỏ tuổi mà góa chồng, linh đinh như vậy thì biết làm sao! Người đờn bà khóc xin quan huyện đam lòng thương xót. Quan huyện nói tội giết người thì đã đành rồi, chỉ đợi cái đầu thì án mới tiêu; hễ tiêu án thì lo lập đời khác không can gì. Nhưng vậy con còn nhỏ tuổi chớ ra vào chốn công môn làm chi. Người đờn bà nghe nói khóc lạy tạ ơn mà lui ra. Quan huyện liền tống trát bắt làng phải đi kiếm cái đầu. Qua bữa sau có người đồng thôn tên là Vương-ngủ báo rằng đã được cái đầu. Nghiệm phải đầu, cho tên ấy lãnh thưởng xong xui rồi, quan huyện cho đòi người chú họ tới mà dạy rằng: nay án lớn đã thành, mà cháu nhà ngươi thì không con, người vợ cũng còn nhỏ, không biết làm chi mà ăn, thôi thì cho nó cải giá cho sớm, sau nầy cũng không còn việc gì nữa; như quan trên có bẻ bác, một mình nhà ngươi tới đối chất cũng đủ. Người chú dùng dằng không chịu, quan huyện quở mới lảnh giấy mà về. Người đờn bà hay đặng liền đi tạ ơn, quan huyện phủ uỷ ân cần, lại dặn như có ai muốn cưới thì tới thưa cho mình biết. Người đờn bà lui ra một chặp, liền có người đầu đơn xin cưới nó làm vợ. Hỏi ra thì là Vương-ngủ là người báo chỉ cái đầu người bị giết. Quan huyện cho đòi người đờn bà trở lại mà rằng: đứa giết chồng mi là ai, mi có biết chăng? Đờn bà thưa là Hồ-thành. Quan huyện nói không phải, đứa giết chồng mi quả là mi với Vương-ngủ: tao biết đã lâu, song có ý làm chậm chậm là sợ e còn có chỗ oan; vậy chớ thây chưa đem lên khỏi giếng, cớ sao mà biết chắc là chồng mi, có phải là mi biết trước chăng? Vả lại chồng mi chết còn bận áo vải rách, mấy trăm đồng bạc ở đâu cho có. Quan huyện lại nói với Vương-ngủ rằng đầu để chỗ nào, sao một mình mi biết rõ ràng dường ấy: mi làm gấp như vậy, có phải là có ý lấy nhau cho mau chăng? Hai đứa thất kinh mặt không còn chút máu, cứng họng nói không đặng một lời. Quan huyện dạy tấn cả đôi đều chịu tội.
Số là Vương-ngủ với đờn bà ấy tư thông với nhau đã lâu, lập mưu mà giết người chồng, lại gặp nhằm lúc Hồ-thành nói chơi. Quan huyện tha Hồ-thành; còn Phùng-an thì làm tội vu cáo, đánh đòn, đồ ba năm. Án thành, không có một người phải oan hình.