Phần X 86 – CHIM TRẢ THÙ.
Chùa Thiện-tân có chim séo làm ổ trên chỉ vỉ, tiếng tục kêu là thu kì; trên ván bửng có một con rắng lớn, mỗi khi chim vừa đủ lông ra ràng, thì bò ra nuốt hết; chim mẹ buồn kêu ít ngày rồi bay đi mất. Ai nấy không dè nó trở lại nữa, té ra năm thứ ba nó lại tới mà làm ổ như trước. Con nó vừa lớn lên, nó liền bay đi, ba bữa mới trở về, vào ổ kêu còn mà cho ăn. Con rắn lớn ấy cứ việc bò ra, vừa động ổ, hai con séo thất kinh kêu la thảm thiết, bay bổng lên trên mây xanh. Một hồi nghe tiếng ào ào, trời đất tối tăm, ai nấy sợ hãi, ra coi thì thấy một con chim lớn, kiến sè che mất mặt trời, ở đâu trên không ùn ùn liện xuống như dòng, đánh một bấu con rắn đứt đầu, phá gia thu tan nát rồi chớp kiến bay đi, hai con séo bay theo sau đường như làm lễ đưa. Phá ổ rồi, hai con séo con té xuống, một con sống một con chết, thầy chùa bắt con sống để nuôi trên lầu chuông; giây lâu hai con séo lớn trở về cho ăn như cũ, đến khi con nó bay được, liền đem nhau đi mất.
Sách dị sử bàn rằng: năm sau còn tới là chẳng dè có họa nữa; năm thứ ba cứ việc làm ổ chỗ cũ, thì kế báo thù đã sắp rồi; ba ngày không trở về, thì chắc là đi khóc bên Tần đình.[8] Chim lớn ấy thì là tiên gươm, thình lình bay tới, đánh một cái rồi lại bay đi, diệu thủ không không (tay phép không không) có gì hơn nữa.
87 – CHIM HỒNG.
Đất Thiên-tân có một người đánh bẩy đặng một con chim hồng, con chim trống bay theo cho tới nhà, bay lên đáp xuống kêu la tối ngày rồi mới bay đi. Sáng ngày, người đánh bẩy dậy sớm đi ra ngoài đồng thì thấy con chim trống bay tới rồi, và kêu và bay theo đậu một bên chơn, người ấy liền chụp mà bắt nó luôn. Chẳng dè con chim nghiểng cổ mửa ra nữa thoi vàng, người đánh bẩy hội ý, nói trong mình rằng thế nó đem vàng chuộc vợ, bèn thả con chim mái. Hai con chim bồi hồi, chẳng khác nửa mầng nửa sợ, rồi đem nhau bay mất. Người đánh bẩy cân vàng được hai lượng sáu có dư. Ấy chim muông biết gì, mà có tình với nhau dường ấy, có phải trong sự tử biệt sanh ly, người ta cũng vậy chăng!
88 – CHUYỆN VOI.
Đất Hồ-quảng có tên thợ bắn, cắp ná vào núi, mệt nằm ngủ quên dọc núi, thoát chốc có một thớt tượng tới thò vòi bắt cả người cả ná bỏ lên trên lưng mà đi. Tên thợ bắn sợ hết hồn, chắc mình phải chết; té ra nó đi một đỗi tới cây cao lớn, nó để y ngồi dưới gốc cây rồi, nó cúi đầu rống lên một tiếng, voi bầy chạy tới vây xung quanh, làm như muốn cậy sự gì. Còn thớt tượng lớn thì quì xuống ngước mặt ngó trên cây rồi lại ngó xuống tên thợ dường như biểu leo. Tên thợ hội ý bén đạp lưng thớt tượng, vịn cây mà trèo lên ngồi tại cháng ba. Một hồi, có một con hạm chạy tới, mấy chục thớt tượng đều nằm nép xuống. Con hạm lựa một thớt mập, hòng bắt mà ăn, tượng sợ sệt đều ngó lên trên cây dường như cầu cứu. Tên thợ kéo ná bắn một phát trúng nhằm chỗ nhược con hạm chết ngay. Bao nhiêu thớt tượng đều nhảy mầng múa lạy. Tên thợ trèo xuống, thớt tượng trước cũng quì xuống kề lưng, thò vòi kéo áo biểu cỡi. Tên thợ cứ việc cỡi, thớt tượng bèn đem đến một chỗ, lấy chơn moi lên, thấy ngà chôn vô số. Tên thợ nhảy xuống đem ngà lên, kiếm dây bó buộc lại xong xã, thớt tượng chở hết lên lưng, đưa ra khỏi núi mới trở lại.
89 – CHUYỆN TÊN ẤT.
Tên Ất vốn là quân tử ngồi rường,[9] người vợ lấy làm sợ hãi, thường khuyên chồng giải nghiệp. Tên Ất nghe lời chừa nghiệp cũ, ở vậy ba năm nghèo khổ chịu không nổi, tính phải đi làm dữ một chuyến nữa rồi hãy thôi dứt, bèn giả chước đi buôn, tới thầy bói hỏi hướng nào khác. Thầy bói nói phía đông nam có lợi, mà lợi cho tiểu nhơn, bất lợi cho quân tử. Tên Ất nghe thầy nói nhằm ý, mắng thầm, bèn đi qua hướng nam, tới đất Tô-tòng, ngày ngày dạo chơi ngoài làng hạnh, cho tới một đôi tháng. Một bữa y vào chơi trong chùa, thấy bên góc tường có hai ba chồng đá, y lấy làm lạ, cắc cớ lấy một hòn đá chồng thêm rồi bỏ ra đàng sau tháp nằm chơi. Trời vừa tối xảy nghe tiếng nói chào rào, độ chừng hơn mười người, có một người chạy lại đếm đá nói sao có dư, đem nhau ra sau tháp thấy Ất nằm trơ, hỏi: chú chất đá thêm phải không? Ất chịu có; hỏi làng quán tên họ, Ất kiếm đàng nói dối. Khi ấy nó bèn giao binh trượng cho Ất, biểu đi theo, tới một tòa nhà giàu, chúng nó bắt thang leo qua tường mà vào, chê Ất bợ ngợ mới tới, bắt ở ngoài tường mà giữ đồ. Một hồi nó quăng ra một gói, rồi lại dòng xuống một cái rương, Ất biết trong ấy có đồ, bèn bẻ khóa tóm thâu đồ quí dồn vào một bao, mau mau vác chạy đi, tìm đàng về nhà. Ất nhờ vốn ấy bèn cất nhà lầu, mua ruộng đất, lo cho con vào học sanh, quan sở tại cấp cho một tấm biểng đề hai chữ Thiện sỉ treo trước cữa lầu. Sau phát án, mấy đứa ăn cướp đều bị bắt, Ất nhờ không ai biết tên họ làng quán, khỏi tội. Việc qua rồi lâu lắc, Ất say rượu mới nói chuyện cũ, chẳng đè có ba thằng ăn trộm rình nghe đặng, leo tường vào bắt anh ta trói lại, khêu đèn chai vào rún mà hỏi của, bao nhiêu vàng bạc anh ta phải tuôn ra mà chuộc mạng.
Ấy là Hoạnh tài bất phú. Của phi nghĩa mình hưởng được thì là không có đạo trời.
90 – CHUYỆN TÊN GIÁP.
Có tên dân nghèo, gần mãn tháng chạp, trong mình không có manh áo cho lành, nghĩ qua tết-nhứt lấy chi mà ăn mặc, lén vợ vác một cây hèo ra núp xó mả, chờ có ai đi lẻ bọn, chận mà ăn cướp. Hồi lâu thấy một người lom khom đi tới, anh ta vác hèo chạy ra, thì là ông già vác bao gạo đứng xó ró bên đàng, nói nội mình không có giống gì, chỉ có năm ba cân gạo mới xin bên thằng rể đem về ăn đở đói. Tên Giáp không nghe, giựt bao gạo, lại muốn lột cái áo rách của ông già, ông già năn nỉ lắm mới thôi. Giáp vác gạo về, vợ hỏi gạo ở đâu? Giáp nói dối rằng gạo người ta tụi tiền cờ bạc, chớ gạo ở đâu! Giáp nghĩ chước ấy hay, ngày sau lại ăn quen đi nữa, hồi lâu thấy một người vác đoản côn cũng tới tại gò mả, ngồi chồm hổm ngó mông, coi ý cũng là một người đồng đạo. Giáp thụt lui trở ra, tên kia thất kinh hỏi ai vậy? Giáp nói là người đi đàng. Hỏi sao không đi? Giáp nói tôi đợi anh. Tên kia cười. Hai đàng hiểu ý nhau, nói chuyện nghèo khổ. Canh khuya không đặng vật gì, tên Giáp buồn ý muốn về. Tên kia nói: anh đi làm nghề, mà coi ý còn quê, xóm trước kia có nhà gả con lấy chồng, dọn dẹp cả đêm, lẽ nào cũng mỏi mệt; thôi anh theo tôi, có được sẽ chia đôi. Giáp mầng đi theo tới cửa ngỏ, cách vách nghe nấu bánh, biết trong nhà chưa ngủ, rình bên vách. Một chặp có người mở cữa đi gánh nước, hai người lẻn vào, thấy đèn leo lét để đàng phía chái, nhà trong thì tối đen. Một người đờn bà nói: con hai chịu khó đi coi nhà trong, đồ đạc con để trong rương, không biết đã khóa chưa. Nghe tiếng con gái nhỏ nhỏ, nói giọng chả chớt, làm biếng, hai người mầng thầm, ẩn bóng chạy vào nhà trong, mò nhằm cái rương, dở nắp thăm coi nghe ra sâu hóm. Tên kia nói thầm, biểu Giáp chun vào lấy được một gói đưa ra. Tên kia hỏi còn hết? Giáp nói hết. Tên kia gạt Giáp, biểu mò nữa, sẽ lén đậy nắp rương khóa lại rồi bước rảo đi mất. Giáp ở trong rương lún túng một hồi, thấy đèn sáng rọi vào, nghe một người đờn bà nói: ai đã khóa rồi. Hai mẹ con đem nhau lên giường, tắt đèn mà ngủ. Giáp lục đục không biết làm chước gì mà ra cho khỏi, mới giả làm chuột cạp sột sột trong rương, đứa con gái nghe, kêu mẹ nói trong rương có chuột. Người mẹ nói: tao mệt quá, mầy phải đi coi kẻo nó cắn hết áo quần mầy. Đứa con gái chò dậy lấy khóa mở rương, Giáp ở trong rương chờn vờn nhảy ra, đứa con gái hoảng kinh ngã ngữa. Giáp rầm chạy đại, dầu không đặng chi mà cũng mầng khỏi họa. Nhà gái bị ăn trộm đồn ra, có kẻ nghi cho Giáp. Giáp sợ trốn đi xứ xa, ở với nhà giàu làm thuê mướn; việc nguôi hoai rồi mới dám trở về làm ăn, bỏ nghiệp du côn.
91 – BÓI TIỀN.
Tên Hạ-thương là người Hà-giang; cha ở Đông-lăng giàu có lớn mà hay xa xỉ, già lại, nhà nghèo không có mà ăn cho no, đến khi gần chết nói với con rằng: thuở trai tao hủy hoại của đời, làm cho quỉ giận thần hờn, phải đói lạnh mà chết, con phải lo làm phải mà chữa lỗi cha. Hạ-thương vâng mạng cha, ăn ở thiệt thà, chuyên lo cày cấy, trong làng ai nấy đều thương vì. Có một ông nhà giàu thấy Thương nghèo, giúp vốn biểu học nghề buôn. Thương làm mất vốn, xấu hổ xin ở mướn mà thường, ông nhà giàu không cho, Thương áy náy không yên, bán hết nhà ruộng lấy tiền đem qua mà trả. Ông nhà giàu dọ đặng sự tình, lại càng thương xót, ép phải chuộc lại, lại giúp vốn thêm biểu đi buôn. Thương nói có mấy chục quan tiền mà trả không nổi, có đâu lại gây nợ lừa ngựa đời sau. Ông nhà giàu kêu tay buôn quen thuộc, cập nài với Thương, ít tháng trở về tính vừa khỏi lỗ. Ông nhà giàu không ăn lời, biểu đi nữa; Thương đi buôn hơn một năm, trúng lớn, mãn tài mà về, đi dọc sông bị bảo ghe chìm, hàng hóa mất hết nữa, còn nữa thì đủ trả nợ. Thương mới nói với tên buôn thuộc rằng: Trời làm nghèo, ai cứu cho đặng, ấy là tại tôi mà hại lây tới anh. Thương bèn tính sổ giao cho tên buôn thuộc, từ giả mà về. Ông nhà giàu biểu nữa, Thương không dám, cứ việc cày bừa như cũ, thường than thở mà nói rằng: người ta ở đời cũng phải có hồi khá, làm sao mình lại phải chìm đắm dường ấy. Xảy có thầy bói phương xa tới, bói tiền mà hiểu biết số vận, đoán không sai. Thương đi bói, chẳng dè là một bà già mướn quán sạch sẽ, giữa đặt bàn thần, đốt hương tối ngày. Thương vào lạy rồi, bà già hỏi một trăm đồng tiền, lấy bỏ vào ống gỗ, tay cầm ống quì xuống xóc xóc như xóc xăm, rồi chờ dậy trút tiền ra sáp lớn trên bàn. Phép bói, hễ ngửa thì xấu, sấp thì tốt; té ra ngửa lên 58 còn bao nhiêu thì sấp. Bà già hỏi niên canh. Thương nói 28 tuổi. Bà già lắc đầu nói: chưa được, nhà ngươi chịu cực bây giờ thì là vận người khuất mặt, đến 58 tuổi mới là vận nhà ngươi. Hỏi vận người khuất mặt là làm sao? Bà già nói cha làm lành, phước chưa hết thì con hưởng; cha làm chẳng lành, tội chưa hết, con phải chịu. Thương đánh tay nói như đợi 30 năm nữa thì già cả vô hòm rồi. Bà già nói từ 58 tuổi trở lui cũng có năm năm khá, làm đủ ăn khỏi đói lạnh, đến 58 thì tự nhiên được vàng bạc nhiều không phải tìm kiếm; nhà ngươi ở đời không làm đều bạc ác, thì đời sau hưởng phước không cùng. Thương nửa tin nửa nghi về nhà cứ giữ phận nghèo làm ăn, không dám làm đều quấy quá. Chừng được 53 tuổi, Thương có ý để mà coi vận mạng, nhằm mùa ruộng, đau nặng cấy không đặng, đến khi mạnh thì trời hạn mạ khô. Qua thu trời mưa, nhà hết giống sớm, mấy mẫu....
...ruộng Thương đều cấy lúa mùa; trời hạn nữa, đậu mè chết, mà lúa mùa không hệ gì; sau mua dào bông trái tốt, năm sau khỏi đói. Thương mới tin bà thầy bói, qua ông nhà giàu vay tiền về cho góp nhỏ té lời đủ ăn. Đến năm 57, Thương trét vách đất, đào chưng vách được một khạp bạc cân được 1325 lượng, trong ý chê bà thầy bói nói còn sai. Có một người đờn bà lối xóm tới chơi, ngó thấy bạc về học lại với chồng; người chồng ganh gổ đi mách với quan huyện. Quan huyện cho thám bắt Thương hỏi bạc; vợ Thương muốn giấu phân nữa, Thương nói của được thinh không, để lại thì nó làm hại, bèn nạp hết. Quan huyện nghi còn giấu giếm, đòi cả cái thạp bỏ bạc vào đầy thạp mới cho Thương về. Chẳng khỏi bao lâu, ông huyện thiên nhậm ấp Nam-xương, năm sau Thương đi buôn qua đó thì quan huyện chết rồi, vợ con khiến về xứ sở, bán hết đồ nặng. Có mấy chục lu dầu, Thương thấy rẻ mua hết đem về, tới nhà có một lu chảy, sang lu khác được ba nén bạc, coi mấy lu khác cũng có, Thương bán hết, xảy phù hiệp số bạc đào được ngày xưa. Thương từ ấy làm giàu lớn, hay làm phước bố thí cho người bần cùng, vợ biểu phải dành để cho con cháu, Thương nói ấy là để cho con cháu. Tên đi mách buổi trước, nghèo khổ ra thân ăn mày, muốn tới xin mà sợ xấu hổ. Thương hay được nói với nó rằng: việc ngày trước là tại số vận tôi xui cho quỉ thần mượn tay chú làm cho hư hại, không phải là tại chú; Thương châu cấp cho nó nhiều, lân lý thấy vậy đều cảm phục. Thương sống 80 tuổi, con cháu đầy nhà, nối nghiệp lâu dài không suy.
92 – MẸ CHỒNG ĐỔ TỘI CHO NÀNG DÂU
Đất Thái-nguyên, nhà dân có mẹ chồng nàng dâu đều ở góa. Mẹ chồng mới nửa đời người không hay giữ tiết, trong làng có đứa mất nết tới lân la. Nàng dâu ghét, lập thế ngăn ngừa; mẹ chồng giận, kiếm chước đuổi nàng dâu. Nàng dâu đã không chịu đi mà lại cố ý kình chống. Mẹ chồng giận lắm bèn đi thưa gian, nói nàng dâu đem trai về nhà. Quan hỏi tên họ thằng gian phu. Mẹ chống nói: tối nó tới, sáng nó đi, không biết nó là ai, xin tấn con dâu tôi thì biết, Quan cho đòi nàng dâu, nàng dâu chỉ danh nói quyết cho mẹ chồng. Quan cho bắt gian phu tới, nó chối dài rằng không có chuyện gì với ai cả, nói là tại mẹ chồng, nàng dâu không ưa nhau, kiếm đều nói xấu cho nhau. Quan dạy rằng: trong một ấp có dư trăm người, cớ sao người ta nói cho mi mà thôi. Quan dạy đánh, tên gian phu lạy lục, chịu có hòa gian với nàng dâu. Quan huyện dạy đóng tróng nàng dâu, nàng dâu kêu oan, quan huyện đuổi đi. Nàng dâu giận lắm đi kiện tỉnh, việc cũng lôi thôi không quyết bề nào.
Thuở ấy có ông tấn sĩ họ Tôn làm tri huyện Lâm-tấn, quan tỉnh giao vụ kiện ấy cho quan huyện tra. Tiên bị tới nơi, quan huyện hỏi sơ qua, dạy đem giam ngoài trại, rồi bắt quân lệ đi kiếm đá gạch, dao phay, để ngày mai mà tra. Ai nấy đều nghĩ rằng: đồ hình ngục chẳng thiếu món gì, cớ chi phải dùng đồ ngoại. Sáng ngày ông Tấn-sĩ ra khách, dạy đem đá gạch, dao rựa lên nhà khách; đòi mỗi người hỏi sơ qua, lại nói với mẹ chồng, nàng dâu rằng: vụ kiện nầy không phải tra làm chi cho lắm, nay dầu chưa biết ai gian, nhưng vậy đứa gian phu đã chắc rồi, mẹ con nhà mi vốn là nhà tiết hạnh, chẳng qua là mắc mưu đứa gian dỗ dành, tội tình chi đều về đứa gian chịu. Kìa dao phay, đá gạch sẵn sàng, hai mẹ con muốn quăng, muốn ném, muốn chém, muốn đánh thế gì mà giết thằng gian phu, ông cho mặc ý. Mẹ chồng, nàng dâu dùng dằng sợ rủi phải thường nhơn mạng. Ông Tấn-sĩ nói: có ông làm chứng, chớ lo chi. Hai mẹ con chờ dậy chạy lại đống đá; nàng dâu tích giận lâu ngày, hai tay rinh hòn đá lớn mà ném, muốn quăng một cái cho chết mới đã giận. Mẹ chồng lượm đá nhỏ nhỏ, quăng nhẹ nhẹ dưới bắp vế, dưới chơn thằng gian phu. Ông Tấn-sĩ lại dạy vác dao phay xốc vào mà chém, mẹ chồng thụt lui. Ông Tấn-sĩ biểu thôi, nói rằng ai gian ông biết rồi, dạy bắt mẹ chồng đem ra tấn, nó liền xưng ngay, án ấy mới thanh.
93 – THAM THÌ THÂM.
Lý-sĩ-Hoành vâng mạng đi sứ Cao-ly, người Dư-anh làm phó sứ, bao nhiêu lễ vật người ta tặng, Dư-anh giành lấy một mình, Sĩ-hoành không thèm ngó tới. Lúc xuống thuyền, thuyền phá nước, Dư-anh lại lấy đồ Sĩ-hoành để xuống dưới, còn đồ đạc của mình thì chất lên trên. Chạy một hồi nổi dông, thuyền muốn úp, chủ thuyền xin bỏ đồ cho nhẹ thuyền, hối bạn khuân đồ quăng xuống biển. Trong cơn sảng sốt không chừa đồ ai, đồ nào ở trên thì ném trước, đến khi thuyền nổi lên vững vàng, coi lại thì đồ Dư-anh không còn một món.
94 – THỢ MAY.
Đời vua Gia-tịnh đất Kinh-sư có một tên thợ may khéo có danh trong thuở ấy: áo nào tới tay y cắt thì dài vắn rộng hẹp, mặc vào làm sao cũng vừa. Có quan ngự-sữ đòi tới cắt áo cho viên lảnh, tên thợ may quì hỏi quan ngự-sữ nhập đài đã bao lâu. Quan ngự-sữ nói: thợ may hỏi làm chi tới đều ấy. Tên thợ may thưa rằng: các ông mới làm quan đắc ý mặt ngữa, ức cao, hồi đó áo phải sau vắn trước dài; làm quan đặng nữa chừng, ý khí hòa bình, thì vạt trước vạt sau phải bằng nhau một cở; đến khi làm quan lâu, muốn thiên nhậm, thì trong lòng có đều muốn cầu, mặt mày ngó xuống, áo phải trước vắn sau dài. Nếu kẻ tiểu nhơn không biết các ông làm quan lâu mới, thì chẳng lẽ may cho xứng.
95 – CHUYỆN MỘT NGƯỜI LO LÀM QUAN.
Đất Bảo-định có một người muốn làm tri huyện, sắm sửa tiền bạc tính đi qua kinh đô mà lo, chẳng dè xán bịnh đau hơn một tháng không dậy được. Một bữa, người nhà vào nói có khách tới, người ấy quên đau chạy ra tiếp khách, thấy khách ăn mặc sang cả, rước vào nhà hỏi thăm. Khách nói mình hầu gần ông hoàng tử thứ mười một, nghe cậu lo làm tri huyện, như cậu dốc lòng chịu tốn, thì thà lo làm tri phủ chẳng là hơn. Người ấy khiêm nhượng nói ít tiền, người khách nói không can chi, cậu lo phân nữa, còn bao nhiêu để tôi giúp cho, đáo nhậm rồi cậu sẽ thối lại. Người khách lại nói: bây giờ có phủ Chân-định khuyết, phải lo cho mau. Người ấy chê ở đồng tỉnh. Người khách cười nói vụ có anh hai[10] chẳng vụ chi xa gần. Người Bảo-định đương lưởng lự, người khách nói: cậu chớ nghi nan, tỏ thiệt với cậu, dưới âm-phủ khuyết một vị Thành-hoàng, số cậu không còn sống nữa, tên cậu đã đăng quỉ lạc (nghĩa là đã đem vào bộ quỉ)[11] cậu phải lo cho kíp, hoặc có lẽ xuống âm-phủ mà được vinh, ba ngày nữa tôi sẽ trở lại. Người khách nói rồi liền lên ngựa mà đi mất. Người Bảo-định mở mắt từ giã vợ con, biểu đào tiền chôn mua giấy tiền vàng bạc, mua hình-nhơn, nộm giấy đốt luôn ba ngày đêm. Cách ba bữa người khách tới dắc đi đến chỗ lâu đài, người Bảo-định ngó lên thấy một ông quan lớn, quì lạy rồi, quan lớn hỏi sơ tên họ, khuyên phải thanh liêm cẩn thận mấy lời, soạn cấp bằng ra đòi vào trước án mà trao. Người Bảo-định lảnh cấp bằng lui ra, nghĩ lại vốn mình hèn hạ, nếu chẳng sắm áo mảo, xe ngựa, vỏng lọng, đòi hầu hạ cho rỡ ràng, thì e dân sự nó dễ ngươi. Sắp đặt vừa rồi liền có lổ bộ bên Chân-định sang rước, quân lính đỏ đường, anh ta lấy làm khoái ý. Thoát chúc nghe đạo tiền xếp cờ, nín tiếng trống, quân lính nép hai bên đường, nói có Quan-đế đi tới, anh ta cũng xuống xe khép nép bên đàng. Quan-đế hỏi ai, các quan hầu thưa rằng phủ Chân-định. Quan-đế quở nói phủ Chân-định mà nghi vệ tới chừng ấy? Anh ta nghe quở tháo mồ hôi hột, mình nhỏ lại bằng đứa con nít sáu bảy tuổi. Quan-đế dạy phải chờ dậy chạy theo, tới một kiểng chùa lớn, Quan-đế vào chùa ngồi bên hướng nam, dạy lấy mực bỏ ra, biểu anh ta biên tên họ hương quán, anh ta viết rồi hai tay cầm đưa lên. Quan-đế coi liền nổi giận rằng: dốt nát viết không nên một chữ, tài cán chi mà trị xẩ dân. Quan-đế dạy tra bộ đức tính, thấy một người hầu gần quì xuống tâu nhỏ nhỏ không nghe được. Quan-đế thạnh nộ dạy rằng: tội mua quan dầu nhẹ, tội bán quan chẳng nhẹ đâu. Xảy thấy ông thần bận giáp vàng bị chúng xiền lại dẫn đi. Còn hai người lại bắt anh ta lột áo mảo, đem ra đánh năm chục roi lở đít, đuổi ra khỏi cữa. Anh ta ra ngó quanh quất, xe ngựa đi đâu mất hết, rán bò về nhà, sực tỉnh lại dường thể chiêm bao, nằm rên trên giường. Người nhà chạy vào hỏi, anh ta chỉ nói đau hai bên bàn tọa.
Số là anh ta nằm mê như chết đã bảy ngày đêm, bữa ấy sống lại, bịnh một ngày một giảm, song hai bàn trôn lở ra nửa năm mới lành. Người ấy than rằng: lo làm quan hết gia tài, mình lại phải đòn, xấu hổ đã đành, ngặt con hầu non mình mới sắm, không biết ai đem đi đâu mất!