← Quay lại trang sách

Phần XII 106 – NGƯỜI TA HÓA RA HEO.

Đỗ-thiểu-Lôi là người ở Ích-đô có hiếu với mẹ, mẹ mù, nhà nghèo, bữa bữa thường lo cho mẹ ăn uống tử tế. Một bữa y đi xa mua thịt sẳn, giao cho vợ, biểu kho cho mẹ ăn, người vợ ngổ nghịch xát thịt kho lộn bò hung đem cho mẹ ăn. Mẹ nghe thối ăn không đặng, lấy giấu đi, để đợi con về. Thiểu-lôi về hỏi thăm mẹ thịt kho có vừa miệng chăng? Mẹ lắc đầu lấy thịt đem ra cho con coi, Thiểu-lôi thấy bò hung giận lắm, chạy vào nhà hòng đánh vợ, lại sợ mẹ hay, bỏ vô giường nằm thở ra thở vào. Vợ hỏi cũng không nói, vợ tức mình ngồi dưới chơn giường tủi hổ. Thiểu-lôi khoát nạt rằng: chưa đi ngủ còn đợi đòn sao? Vợ làm thinh lẳng lặng, một chặp Thiểu-lôi dậy thắp đèn rọi coi thì vợ đi đâu mất; thấy có một con heo, có hai chơn mà là chơn người ta, mới biết vợ hóa ra heo. Quan huyện sở tại hay đặng, bắt dắc con heo đi bốn phía thành, để mà răn thiên hạ.

107 – ÔNG NGÔ ĐỒNG TRI.

Đất Tế-nam có ông đồng tri, tánh ngay thẳng không hay dua mị. Thuở ấy kẻ làm việc quan hay đòi tiền công, tiền son mực gọi là lậu qui nghĩa là phép riêng. Hễ trong tơ lại ăn uống của dân, khuy không của quan, thì quan trên che chở, tang vật ăn chung không ai dám ngạnh trở. Chia cho ông Đồng-tri một phần, ép ông ấy không lảnh, quan trên giận quở mắng, ông ấy cũng mắng trả mà rằng: tuy tôi làm nhỏ, cũng là chức tước triều đình, tôi có tội thì tham xữ không được chưởi mắng, có chết tôi xin chịu, tôi không đem lộc triều đình ra mà thường tang uổng pháp. Quan trên phải làm vui, lấy lời phủ ủy. Người người đều nói đời nầy làm phải không đặng, té ra quấy là tại người ta mà lại đổ cho đời. Nhơn thuở ấy đất Cao-uyển có một người mắc tà túy tới tại công đường ăn nói khẳng khái, nghe tiếng nói mà không thấy người, có kẻ hỏi rằng: quỉ thần có phép linh thiêng, chuyện chi cũng biết, dám hỏi nhà ngươi trong quận nầy, quan viên cả thảy có mấy ông. Người ấy nói có một ông, ai nấy cười. Người ấy lại nói cả quân quan lớn nhỏ có 72 ông mà đáng mặt quan thì chỉ có một mình Ngô-đồng-tri mà thôi chớ.

108 – ĂN TRỘM BÌNH VÀNG.

Đời minh hiệu Thành-hóa, tế nam giao việc rồi dọn đồ mất hết một cái bình vàng. Thuở ấy có một người đầu bếp hầu gần, ai nấy nghi liền bắt nó mà giao cho quan tra xét. Tấn khảo đau đòn tên đầu bếp túng lắm phải chịu có lấy; song đến khi hỏi bình, thì nó bơ vơ không biết đâu mà nói. Dẫn nó đi kiếm, nó chỉ bậy, nói ở đàng trước nền tế giao; y theo lời nó, đào lên không được chi cả, bèn đem nó vô ngục bóp xiền lại. Cách ít ngày có thằng chánh ăn trộm bình, đem dây xách bình cũng bằng vàng ra bán ngoài chợ, có người nghi, đem cớ với quan, mới ra mối ăn trộm bình. Quan hỏi thằng ăn trộm, bình vàng để đâu, nó cũng khai rằng chôn trước nền tế giao ở chỗ nọ, Quan y theo lời nó dạy đào chỗ nọ, quả được cái bình vàng. Té ra cũng là một chỗ tên đầu bếp chỉ, đào sâu xuống ít tấc mà thôi.

Giả sử hồi tên đầu bếp đem đi đào mà được bình hay là tên ăn trộm bình không đem dây chuyền vàng ra mà bán, thì tên đầu bếp chắc chết, dẫu có trăm miệng cũng không chối được. Vậy dùng hình dữ mà tra thì có sự chi qua được, ấy nhà nước mở ra một mặt căn nghi, gìn lòng nhơn đức trong những án hồ nghi, thì làm sao cho dân sống nhiều.

109 – CHUYỆN ĐỜI (KÝ VIÊN.)

Thói đời kiện thưa tới quan thường hay thêm thắc: như bị đánh, nói người ta giết; giành gia tài, nói ăn cướp; vào nhà, nói ăn trộm; lấn ranh, nói phá mả. Kiện một người liên lụy tới cha mẹ anh em người, đến đổi nhà vô can mà có hềm khích cũng níu vào. Trong ý nói phải quấy chừng nào sẽ hay, bây giờ làm bướn cho họ phải đòi phải hỏi, tốn tiền tốn bạc, bị lụy xấu hổ tới vợ con, thì cũng là khoái ý đã giận. Ai dè một phen vào tới công môn, quân lính quát nạt, đánh đạp tâng bầng, hồn vía mất hết. Có kẻ sợ phép, toan ra cho mau, mình không có cũng chịu có; có kẻ bị quan-lại muốn cho mau việc, tấn khảo dữ tợn bắt phải chịu án; có khi quan-lại ỷ mình thông minh, lấy trí riêng đoán nhận tội cho người ta, mà kẻ tơ--lại, lại phùng nghinh, đua nhau lấy làm phải.

Thương ôi! Một người mắc tội, cả nhà van khóc, một án vừa rồi, bán vợ đợ con.

Trăm họ phải bảo án: hình phạt phải châm chước; thế vụ phải nhẹ; oan ức phải xét; đòi bắt phải cho thưa; xử đoán phải cho chín; xây dùng phải có chừng; làm lụng phải cho cẩn; sợ khốn phải dự phòng; tiệc rượu chớ sa đà, ấy là mười điều kẻ làm quan phải giữ.

Ngoài tra án trộm, trong giấu tang ăn trộm; bỡi đó thằng ăn trộm trước chết, thằng ăn trộm sau sinh ra. Một bên trị tội gian dâm, một bên thấy gái gian dâm lại dòm ngó, cho nên một tội gian dâm vừa dứt, tội gian dâm khác lại phạm.

110 – NHƠN TÌNH.

Giàu sang, sống lâu, nhơn tình càng được càng không nhàm. Đất Mân-trung có quan Thái-thú tên là Lâm-xuân-Trạch, sống một trăm bốn tuổi.

Thuở người được chín mươi chín tuổi, người trong làng tới mầng tuổi, chúc cho người sống một trăm năm. Quan thái thú giận rồi lại cười mà rằng: Tôi không hề mượn chú nuôi tôi, sao chú lại hạn tuổi cho tôi.

Đất Cô-tô có quan học sĩ tên là Hàn-kính-Đường, thuở chưa đậu có người nằm chiêm bao ngó thấy ông ấy làm quan tới bậc thị lang, ông ấy cùng lấy làm mầng. Đến khi ông ấy đậu, người nằm chiêm bao thường tới lui nói về chuyện chiêm bao, thì cũng đều mầng rở.

Sau ông Kính-đường quả được thăng thọ thị lang, người nằm chiêm bao lại tới nữa, khi ấy ông Kính-đường phát rầu không vui như trước.

Hồi săn chưa được thịt thì sợ đâm ít, săn đặng thịt rồi lại sợ đâm nhiều. Có kẻ hỏi có phải nhân tình như vậy chăng? Người quân tử nói rằng: Cả thảy trong việc đặng mất đều như vậy. Khi còn như kia, thì muốn cho kia vụ cho mình, đến khi đặng vợ, thì lại muốn cho vợ mắng kia. Có kẻ hỏi có phải nhân tình như vậy chăng? Người quân tử nói rằng: cả thảy trong việc kia đây đều như vậy.

111 – LỜI NÓI HAY (CHUYỆN KÝ VIÊN.)

Gặp gái tốt trong nơi vắng vẻ; thấy ngàn vàng ở giữa đồng không; đụng giặc lớn trong cơn sảng sốt; nghe tin cừu nhơn lâm nguy gần chết, ấy là một cuộc thử vàng đá.

Con mắt ấy là gương soi mình, lỗ tai ấy là cũa trong thân mình, coi lắm thì gương lờ, nghe lắm thì cữa bít. Mặt ấy là sân thần, tóc ấy là hoa óc: lòng sầu thì mặt héo, óc hao thì tóc bạc. Tinh ấy là thần minh cũng là cái báu trong mình: nhọc quá thì tinh hao, dùng sức quá thì mất sáng. Các lời ấy nên để làm thuốc vệ sanh.

Có nhiều người chịu mất tiền muôn mà gả con, mà chẳng chịu tốn tiền trăm mà dạy con: Thà gắng sức một đời mà cầu lợi, chẳng thà liều nửa đời mà đọc sách; thà liều hết gia tài mà cầu mị với người quiền quí, chẳng thà bỏ một hai phân mà giúp kẻ nghèo nàn, đều bỡi bỏ qua mà không nghĩ tới.

Ông Lâm-thới-Trai lâm chung, con cháu đều quỳ lạy mà hỏi rằng: cha có lời gì để mà dạy chúng con. Ông Lâm-thới-Trai nói rằng: cha chẳng dạy đều chi, một dạy chúng con phải biết nhịn thua. Từ xưa các đấng anh hùng hư việc ít nhiều, đều bởi không hay nhịn thua.

112 – PHÉP DẠY CON.

Dạy con trai chín phép là: siêng học, chọn bạn, chớ nhiều lời, tập chường thưa, biết lễ nghĩa liêm sĩ, nết tới lui nghiêm trang, đừng ham chơi bời, biết giữ mình, gặp việc có kiến thức.

Dạy gái chín phép: tập nữ công (như thêu tiều vá may) thuộc việc nấu nướng, học bút toán, ăn nói dịu dàng cẩn thận, phòng buồng phân biệt sạch sẽ, chớ hát hống ngâm nga, nghe chuyện đâu bỏ đó, kính thờ kẻ lớn cùng kẻ bề trên, răn mình chớ biếng nhác.

Già học mà trẻ chẳng học; kẻ tơ lại đuổi con cháu người ta đi thi đi khóa, mà nhà mình chẳng học; giàu tiếc kiệm mà nghèo lại xa xỉ; kẻ ăn rau lo sợ mà người ăn thịt không lo; thầy tu ăn mặn, bổn đạo ăn chay; con nhà giàu sang về nhà chồng thủ lễ pháp, ăn khô lạt; con nhà bần tiện làm dâu mà chẳng biết tốt xấu, ấy là những đều phải răn mình.

Ít uống rượu nhiều ăn cháo; nhiều ăn rau, ít ăn thịt; ít mở miệng, nhiều nhắm mắt; năng tắm rữa, ít trau giồi; ít chung chạ, nhiều riêng tư; ít vàng bạc nhiều sách vở; ít cầu danh nhiều nhịn nhục; ít ham sang nhiều làm phước; tiện nghi hưu tái vãn, sanh việc chẳng bằng không.

113 – ÁN TẤU VỀ VIỆC HOÀ GIAN.

Tổng đốc Long-tường thần… Kính đem án phúc thẩm về tội hòa gian thành thai các duyên do tâu bày, ngữa vâng lượng Thánh xem tường:

Nay cứ ti án sát thần… “Xưng rằng năm nay, tháng 10, ngày 25, có tri phủ Hoằng-tri thần... Giải thẩm một án rằng: “ngày mồng 10 tháng 9, có lính làng An-đức, tổng Bảo-hựu, huyện Bảo-hựu, tên là Huình-văn-đức, tới phủ qui trạng bạch, khai rằng “ngày tháng 11, năm Thiệu-trị thứ 5, nó đi buôn, nó có làm bạn với con gái danh Tiền, tên là thị Phú, ở tại xứ Long-hồ; sau về ở ngụ làng An-đức, sanh được một đứa con gái đã được 5 tuổi, nó nghèo lắm, phải cho vợ nó đi ở mướn. Đến năm Tự-đức thứ 2, ngày tháng giêng, làng An-đức bắt nó mà điền lính, ở về cơ Long-tả, đội thứ 6, rồi bỏ đi thú Hà-tiên. Nó lén trốn về, thì vợ nó đem con đi mất; nó hỏi thăm nghe tên trưởng Lầm hòa dụ vợ nó, đem giấu tại nhà thị Mùa ở làng Phú-mỷ. Nó tìm tới nhà thị Mùa, thì thị ấy nói thị Phú đã đem con đi đâu không biết; nó kiếm vợ con không đặng, nó xin tra xét cho nó, các đều.”

Tri phủ Hoằng-trị liền cho bắt tên gian phu, kêu là trưởng Lầm, thì là Dương-văn-Lầm, rồi lại cho bắt tên gian phụ, là Trần-thị-Phú đem tới nha, chúng nó đều xưng ngay, hỏi chúng chứng cũng đều khai chắc chắn, nhưng đem các việc thể cả, các lời cung khai, lời phủ thân thẩm nghĩ cùng lời phúc thẩm kể bày:

1. Hỏi tên trưởng Lầm, là Dương-văn-Lầm khai niên canh ất-dậu 27 tuổi, cha mẹ nó chết sớm, nó có vợ, trước đi buôn ghe, sau tới ngụ làng An-đức, thuộc về tổng Bảo-hựu, làng chưa đem vào bộ. Năm Tự-đức thứ 3, ngày tháng 6, làng cho nó làm trưởng chợ, để mà tuần phòng việc lửa, nó thấy thị Phú ở với thị Theo, nó thường chọc ghẹo, thị Phú thuận tình, bèn hòa gian với nhau, lâu ngày thị Phú có nghén, sợ danh Đức trở về hay đặng, nó bèn đem mẹ con thị Phú qua Mỷ-tho, gởi ở dưới ghe văn Tiền, là cha thị Phú, các lời.

2. Hỏi thị Phú, là Trần-thị-Phú, khai niên canh giáp-thân 28 tuổi, mẹ nó chết còn cha là Trần-văn-Tiền, ở ghe buôn bán, năm Thiệu-trị thứ 6, nó có làm bạn với danh Đức, mà không có lễ cưới, các lời nó tiêu khai, đều y như lời danh Đức là chồng nó khai, cũng như lời trưởng Lầm, còn con nó hòa gian mà đẻ ra mới đặng 7 bữa thì chết, các lời.

3. Hỏi Trần-văn-Tiền cung xưng niên canh canh-tuất 82 tuổi, có vợ đẻ đặng một đứa con gái tên là Trần-thị-Phú, đi buôn giang-hồ. Năm Thiệu-trị thứ 5, ngày tháng 10, tới xứ Long-hồ có gặp tên Đức cũng đi ghe buôn bán, thấy nó có tình ý với con là thị Phú, bèn cho hai đàng ăn ở với nhau, không cưới hỏi, sau thị Phú theo danh Đức về ngụ tại chợ An-đức. Y có đi tới đó mà thăm con, có thấy trưởng chợ, sau biết là trưởng Lầm, tới tại chỗ thị Phú ở. Qua năm nay, tháng 3 ngày 14, y có gặp trưởng Lầm tại Kỳ-son, trưởng Lầm nói rằng đã đem thị Phú về chợ Mỷ-tho, Y không hỏi rõ. Sau y về chợ Mỷ-tho, thì thị Phú đem con xuống ghe y, mà nói rằng vợ chồng bất hòa; chồng nó đề nó rồi, y hỏi tờ đề, thì thị Phú nói bỏ mất. Bao nhiêu lời khai khác đều y như lời thị Phú.

4. Hỏi thị Theo, là Nguyễn-thị-Theo, khai niên canh bính-dần 46 tuổi, ngày tháng 8 năm ngoái, có mướn vợ tên Đức, là thị Phú làm đầy tớ. Còn danh Đức thì ở chỗ khác mà làm công. Năm ngoái chừng tháng chạp nó có thấy trưởng Lầm đi rao lửa, thường qua trước nhà nó. Tới ngày 30 tháng chạp, thấy vợ chồng thị Phú ngầy ngà đánh lộn, nó đuổi thị Phú đi. Chí như sự thị Phú với trưởng Lầm có giỡn hớt làm sao, nó không hiểu biết, các lời.

5. Hỏi Trần-thị-Mùa khai niên canh canh-thình 32 tuổi, chồng nó là Lê-văn-Nay, nguyên là dân bộ làng An-Đức, mà ở ngụ làng Phú-mỷ, thuộc về tổng Bảo-thành. Ngày 11 tháng 3 năm nay, nó có thấy người quen, là trưởng Lầm lại với một người đờn bà, sau mới biết là thị Phú, tới tại nhà nó. Trưởng Lầm nói có hòa gian với thị Phú, sợ lậu việc, nên đem thị Phú đi trốn, xin cho thị Phú ngụ nhờ một đêm. Nó thấy trưởng Lầm năn nỉ lắm, cực chẳng đã nó cho ở nhờ một đêm, sáng ngày 12, thị Phú đem con đi đâu, nó không biết. Còn sự thị Phú hòa gian với trưởng Lầm, đầu đuôi làm sao nó không rõ, các lời.

6. Hỏi Nguyễn-thị-Hay, khai niên canh nhâm-thân 40 tuổi, chồng nó là dân bộ làng An-đức, có nhà ở tại chợ; chồng nó lại ở lính lệ tại phủ, có một mình nó ở nhà. Ngày 30 tháng chạp năm ngoái, hồi canh một, thấy thị Phú bồng con tới nhà nó, nói rằng vợ chồng không nghĩ nhau, xin cho ở đậu; còn chồng thị Phú, tên là Đức, thì đi làm mướn ở chỗ khác. Ngày 15 tháng giêng năm nay nó, nghe làng điền lính tên Đức, vốn nó chưa có con, nó cho thị Phú ở đậu giữ nhà cho có bạn, sau nó có nghe thị Phú chuyện trò với trưởng Lầm, nó không cho ở nữa. Còn sự thị Phú với trưởng Lầm hòa gian bao giờ, nó mắc đi buôn bán không đặng rõ.

7. Hỏi thôn trưởng làng An-đức, là Bùi-văn-Tuyên, khai rằng mới làm thôn trưởng ngày tháng giêng năm nay, có đặt Dương-văn-Lầm, làm trưởng chợ coi giữ việc hỏa hoạn. Ngày tháng ấy có trát dạy bắt Lê-văn-Cội, là lính làng nó cấp mà trốn, làng nó tìm bắt không kịp. Khi ấy tên Minh, là Huình-văn-Đức chịu đi thế, làng nó bèn đem đi điền lính thế cho Lê-văn-Cội, đi thú Hà-tiên. Đến tháng 3 năm nay, thấy tên Đức trốn về, thì làng nó đã lựa người khác mà điền rồi. Qua ngày 16 tháng ấy, thấy tên Đức tới nói vợ nó là thị Phú đem con nó đi mất, kiếm không đặng. Còn sự thị Phú hòa gian với trưởng Lầm bao giờ, nó không biết, các lời.

8. Hỏi danh Minh, là Huình-văn-Đức, khai niên canh giáp-thân 28 tuổi, cha mẹ nó chết sớm không có anh em, ở ghe đi buôn bán. Năm Thiệu trị thứ 6, ngày tháng 11, nó có gặp thị Phú, là con gái danh Tiền cũng đi buôn ghe, hai đàng ưng nhau làm vợ chồng, rồi nó chỡ thị Phú đem đi chỗ khác buôn bán. Đến năm Tự-đức thứ 2, ngày tháng 10, nó tới ở ngụ làng An-đức, thuộc về tổng Bảo-hựu. Qua tháng giêng năm nay, làng An-đức thiếu lính, thấy nó tình nguyện, bèn đem nó mà điền vào cơ Long-tả, đội thứ 6. Sau đi thú Hà-tiên, nó trốn về làng, các lời khác cũng y như lời khai trước.

9. Hỏi thị Phú lại, thị Phú khai rằng có hòa gian với trưởng Lầm, có chữa. Ngày mồng 1 tháng 10 năm nay, có đẻ một đứa con trai, mà rủi nó chết, thị ấy xin lảnh chôn rồi, còn thị ấy mới đẻ, thân thể chưa mạnh, các lời.

Vâng thẩm Dương-văn-Lầm, là một tên dân lậu, phạm phép thông gian với thị Phú là gái có chồng, có con. Còn thị Phú dầu làm bạn với Huình-văn-Đức không có lễ cưới, song thiệt là gái có chồng, con, mà không yên phận, lại hòa gian với Dương-văn-Lầm, thành thai. Tra cả hai đều xưng ngay chẳng giấu.

Kính y theo sách Đình thần, năm Minh-mạng thứ 8, nhằm tháng 9, điều nghị về tội hòa gian có một khoản rằng: Hể hòa gian có chồng, có con, thì cả gian phu, gian phụ đều phải xử giảo lập quyết vân vân. Nay Dương-văn-Lầm, với Trần-thị-Phú phạm tội hòa gian, có thai sản, phải chiếu theo lệ mà luận tội; vậy gian phu, là Dương-văn-Lầm, gian phụ, là Trần-thị-Phú, đều phải xử giảo lập quyết, Đứa con gái là Trần-thị-Phú, nguyên trước cầu hiệp với chồng trước, là Huình-văn-Đức, mà sinh ra tên là thị Được, phải giao cho Huình-văn-Đức đem về mà nuôi. Nguyễn-thị-Hay cho thị Phú ở đậu, lẽ cũng phải có tội, mà bỡi thị ấy ở một mình, ban ngày đi buôn bán, đến khi nghe thị Phú nói tên Lầm có điều giởn hớt, bèn đuổi đi, thì xin miễn nghị. Trần-thị-Mùa, nguyên cho thị Phú nghỉ chơn, cũng xin cho khỏi tội. Trần-văn-Tiền là cha thị Phú, dầu thị Phú cầu hiệp với Huình-văn-Đức, biết nó là gái có chồng, có con, nó trốn về vô cớ, đã không hỏi lại, vội tin mà chứa lấy nó, sao cũng phải có tội, song cha con giấu cho nhau là nghĩa, lại khi có trát dạy bắt, tên ấy liền đem thị Phú mà nạp, thì cũng có lẽ xét nghĩ; vậy xin cho Trần-văn-Tiền khỏi tội. Chánh chồng là Huình-văn-Đức, nghĩ một sự trốn lính, lẽ phải phạt trượng bắt đi lính nữa, nhưng vậy tên ấy nghèo nàn, không vợ con, lại khi nó trốn về thì đã điền tên khác thế; về sự Huình-văn-Đức, xin quyết trượng một trăm, giao cho làng lảnh về quản thúc, bắt chịu xâu góp. Thôn trưởng làng An-đức, là Bùi-văn-Tuyên, đã ẩn lậu Dương-văn-Lầm, lại không biết răn dạy dân, để cho danh Lầm với thị Phú phạm tội hòa gian, chẳng lẽ khỏi tội: bổ sứ ẩn lậu một người không gia sản, là tội nhẹ không kể, tên Bùi-văn-Tuyên ấy, xin chiếu theo mặt luật bất ưng vi trọng, xử quyết 80 trượng để mà làm gương răn dạy; còn bao nhiêu người khác, xét không có can thiệp, xin không nói tới, các lẽ.”

“Ti án sát thần vâng thẩm lại: tên gian phu, là Dương-văn-Lầm đã biết Trần-thị-Phú, là vợ Huình-văn-Đức, mà con dấy thói dâm, hòa gian với nó; còn Trần-thị-Phú đã có chồng con, mà không yên phận, nhơn khi chồng đi vắng, thông gian với người khác cho có thai sãn, thì là tội bại nhơn luân thường, lấy làm đáng ghét; song nghĩ sự nó làm bạn với chồng trước, thì là cầu hiệp, so với mình hôn chánh thú, có chồng có con có khác nhau, xin giảm tữ cho Dương-văn-Lầm, cải phát ra tỉnh Hưng-hóa theo việc binh; còn Trần-thị-Phú thì đày ra chỗ quan binh trụ phòng tại tỉnh Hà-tiên mà làm mọi. Còn các lẽ khác thì xin y như phủ thần nghĩ.”

Thần thẩm lại, các lẽ tra nghĩ, xét trong án nầy đều nhằm cách, xin y theo lời ti án sát phúc thẩm, dám dâng về nhờ Lịnh Thánh thông minh đoán định.

Vâng chỉ y lời phúc thẩm, còn bao nhiêu đều y nghĩ, kính vâng.

Năm Tự-đức thứ 4, tháng 11, ngày mồng 4.

Vĩnh-long, án sát sử.

Thần........ thần Nguyễn-Huình.