Phần XIII 114 – ÁN BẨM VỀ VIỆC ĂN TRỘM.
Nhíp biện ấn vụ phủ Hoằng-trị, ti chức là...
Kính đem việc tra hỏi, kiết nghĩ về sự ăn trộm có tang, các duyên do làm sách bẩm tố. Số là ngày mồng 2 tháng 5 năm nay, có cai tổng Bảo-hựu, là Huình-văn-Lưu, dịch mục làng Bình-nguyên, là Phạm-văn-Đăng, Trần-văn-Nghiêm, thôn trưởng làng Mỷ-hóa, là Huình-văn-Nghĩa, dịch mục là Nguyễn-văn-Nghiêm, giải vụ ăn trộm cùng xưng rằng “người ngụ làng Mỉ-hóa, là Nguyễn-văn-Trí, đêm 24 tháng 4, bị ăn trộm có làm tờ cớ, qua ngày 27 tháng ấy, nhìn đặng tang, bắt đặng phạm là Hạ-văn-trước và Mai-văn-Sanh, các người ấy phải giải cả tang cả phạm tới nha mà nạp, các lời.”
Hỏi Hạ-văn-trước, Mai-văn-Sanh đều xưng có ăn trộm nhà Nguyễn-văn-Trí, chưa kịp phân tang; đến khi tổng làng hỏi, văn Trước có đem tang ra mà nạp. Ti chức cứ lệ, sai người đi tịch ký, đoạn lấy lời cung khai, lập lời thẩm nghĩ, tóm tắt các việc cả thể ra sau nầy:
Hỏi Hạ-văn-Trước khai niên canh mậu-dần 34 tuổi, ở lậu tại làng Bình-nguyên, cha nó chết sớm còn mẹ điếc ở một nhà, làng thấy nó nghèo khổ, không đem vào bộ; nó có nghề làm rẫy. Nó thường chơi với Mai-văn-Sanh, nó biết tên Nguyễn-văn-Trí, ở ngụ làng Mỷ-hóa giàu có, nó rủ tên Sanh đi ăn trộm đở nghèo, tên Sanh nghe lời. Vậy ngày 24 tháng tư, chừng canh một, nó cắp một cái dao nhọn, một đoạn con cúi rơm, tới kêu tên Sanh cầm một cái đoản côn bằng tre, đi thẳng tới nhà văn Trí. Chừng canh tư, rình coi trong nhà ngủ mòm, nó cắt cữa sau, chun vào nhà trong, vung con cúi nháng, thấy một cái rương không khóa, nó men lại lấy đồ đem ra giao cho văn Sanh; chẳng dè chủ nhà nghe động, thức dậy hô hoán, nó thoát ra, ôm tang về nhà, thì trời rựng sáng, không dám chia; tên Sanh cũng chịu để vài bữa sẽ chia, rồi sấp lưng ra về. Nó coi lại thì là ba cây nho điều; một cây nho quang lục; một cây nho tím; lụa trắng một cây 15 thước; lụa đỏ hai đượng; quần nho đỏ một cái; một bức mền hàng nâu trong lót đồ lụa đỏ; hàng tím Annam 15 thược; khăn nhiễu đen ba luông; quần trắng cũ ba cái; quần lụa nâu một cái; quần hàng đỏ một cái; quần lụa trắng một cái; khăn nhiễu thanh một luông; lụa đỏ 4 đượng; dây lưng lụa đỏ ba cái; áo nho rộng hai cái; áo vân tím rộng một cái; áo lụa trắng rộng hai cái; lụa đỏ một cây; quần lãnh thanh một cái; quần lãnh đen một cái; áo lụa chẹt một cái; áo xanh chẹt hai cái; áo xanh rộng một cái; áo lụa trắng rộng một cái; áo trường xanh một cái; áo lụa nâu chẹt một cái; áo lương quàng rộng một cái; vải tây bông đỏ một bức; hàng bông dâu Cao-mên một bức, nó lấy một cái mền hàng gói các món hàng ấy làm một, nó sợ nhà trống trải, tới tối nó đem giấu ngoài bụi. Khi ấy văn Trí cáo quyết cho nó và văn Sanh ăn trộm, tổng làng bắt nó tới, nó tính giấu không nhẹm, bèn thú thiệt, về nhà lấy đồ tang đem tới mà nạp lại. Văn Trí nhận quả là đồ bị ăn trộm, còn thiếu một đôi bông tai vàng; nhiễu nhuộm tím một đượng; nhiễu đen một khăn dài; các vật ấy hoặc khi nó ôm đồ mà chạy, nó làm rớt đâu không biết. Lại bắt nó đi chỉ con dao nó cầm mà đi ăn trộm, thì nó đã đem ra mà nạp. Nay hỏi tới, nó khai ngày các điều.
Hỏi Mai-văn-Sanh khai niên canh kỷ-mão 33 tuổi nguyên là dân làng An-thới, tổng Minh-huệ, huyện Duy-minh, Phủ Hoằng-an, về hạng tàn tật, cha mẹ nó chết sớm, anh em không có, nó có nghề buôn bán hàng vặt. Thiệu-trị năm đầu, nó nghèo lắm, qua ngụ lành Bình-nguyên, về tổng Bảo-hựu, có chịu xâu góp cho làng. Nó quen biết Nguyễn-văn-Trí. Ngày 24 tháng tư năm nay, ban đêm chừng canh tư, nó với Hạ-văn-Trước có ăn trộm nhà Nguyễn-văn-Trí, lấy được của mà chưa chia. Nó có đem ra một đoạn tre, chịu là vật nó cầm làm binh trượng. Lại những đồ tang là vật gì, còn để tại nhà văn Trước, nó không biết, một đôi bông tai cùng các vật còn thiếu, nó tưởng hồi ôm đồ mà chạy về, rơi rớt dọc đàng, nó không biết rõ. Các lời khai khác cũng y như lời Hạ-văn-Trước.
Hỏi địch mục làng Bình-nguyên đồng khai rằng: ngày 29 tháng tư có Nguyễn-văn-Trí tới thưa rằng bị ăn trộm, nghi quyết cho Hạ-văn-Trước và Mai-văn-Sanh, là người ngụ trong làng. Các dịch múc hiệp cùng cai tổng Bảo-hựu, là Huình-văn-Lưu, bắt Hạ-văn-Trước và Mai-văn-Sanh, lấy đặng tang tài, nên phải giải nạp; các lời khác cũng y lời giải. Và văn Trước là một tên dân cùng, cho nên làng chúng nó không đem vào bộ; còn Mai-văn-Sanh là dân làng An-thới, về huyện Dinh-minh, tới ngụ tại làng, có cất nhà làm ăn. Về sự hai đứa ấy, hiệp bọn đi ăn trộm, việc làng không được biết. Làng chúng nó một chịu tội không hay giác sát, cùng để văn Trước ở lậu, các lời.
Hỏi dịch mục làng Mỉ-hóa khai rằng năm trước có Nguyễn-văn-Trí, là người làng Mỉ-thành, về tổng Bảo-nghĩa, tới ngụ trong làng. Đêm 24 tháng tư, Nguyễn-văn-Trí bị ăn trộm, có hô hoán, chúng nó đem dân tới, thấy có dấu ăn trộm rõ ràng; chúng nó có hiệp cùng làng bàn cận là làng Bình-nguyên, mà thị tờ cớ. Nay bắt đặng Hạ-văn-Trước, và Mai-văn-Sanh, quả là ăn trộm, làng chúng nó chịu lỗi trong việc tuần phòng.
Tư hỏi huyện Duy-minh phúc thơ rằng: “thôn trưởng làng An-thới khai xưng Mai-văn-Sanh thiệt là dận bộ. Thiệu-trị năm đầu, không nhớ ngày tháng, văn Sanh nhơn nghèo khổ, qua ngụ làng Bình-nguyên. Văn Sanh có chịu sưu thuế cho làng, chỉ như sự văn Sanh ăn trộm thế nào, làng nó không hiểu biết.”
Hỏi sự chủ Nguyễn-văn-Trí, khai là dân bộ làng Mỉ-thành, về tổng Bảo-nghĩa, qua ngụ làng Mỉ-hóa về phần tổng Bảo-hựu. Ngày 24 tháng 4 năm nay, ban đêm chừng canh tư, nó bị ăn trộm cắt cữa sau, vào lấy tài vật, nó nghe động, thức dậy thắp đèn hô hoán, Dịch mục làng Mỉ-hóa cùng làng Bình-nguyên có thị tờ cớ cho nó. Qua ngày 27 tháng ấy, làng tổng bắt đặng ăn trộm cùng lấy đặng đồ tang. Các lời khác đều y như lời tổng làng khai khi giải nạp. Đồ nó bị ăn trộm cả thảy trị giá 345 quan 5 tiền, đồ lấy được trị giá 320 quan 5 tiền, nó đã làm đơn lảnh rồi. Còn thiếu bông tai một đôi, khăn nhiễu tím một đượng, khăn nhiễu đen một đượng, cả thảy trị tiền 25 quan, các lời.
Tra sổ tịch ký gia sản Hạ-văn-Trước, Mai-văn-Sanh cả thảy trị tiền 23 quan 8 tiền 30 đồng.
Các lẽ khai biên rõ ràng.
Vân thẩm tên Hạ-văn-Trước là một tên dân cùng, không an phận, dám tạo ý hiệp bọn với Mai-văn-Sanh, ăn trộm nhà Nguyễn-văn-Trí, chưa kịp phân tang, tổng làng bắt đặng, đem tang ra mà nạp; đến khi tra hỏi, đều xưng rõ ràng, chắc là đứa có tội.
Kính y theo luật nói về ăn trộm: “Hễ việc ăn trộm đã làm mà không đặng của, thì xữ 50 đòn, khỏi thích tự; nếu có đặng của, thì lấy một chủ làm nặng, tính tang mà luận tội, đứa vì túng đều giảm một bậc, mới phạm một lần cũng đều thích trên kiến tay hữu, hai chữ thuyết đạo”. Lại chiếu theo bản đồ kê tang: Tang 50 lượng, trượng 60, đồ một năm, các lời.
Vã văn Trước, văn Sanh ăn trộm lấy được tang trị tiền 345 quan 5 tiền, tính ra bạc thì là 57 lượng có dư. Vâng nghĩ tên Hạ-văn-Trước là đứa tạo ý làm đầu vụ ăn trộm, phải y theo luật xữ trượng 60, đồ một năm; tên Mai-văn-Sanh giảm một bậc, phải trượng một trăm. Cả hai đứa đều phải khắc hai chữ thuyết đạo trên cánh tay hữu. Tên Hạ-văn-Trước còn là dân lậu, mãn đồ rồi, sẽ giao cho làng nó ngụ đem vào bộ, chịu sưu sai; tên Mai-văn-Sanh xữ trượng thích tự rồi, giao cho làng chánh quản nó, nhận lảnh quản thúc. Thôn trưởng làng Bình-nguyên chứa dân lậu lại không hay xem xét, để Hạ-văn-Trước, Mai-văn-Sanh hiệp bọn mà ăn trộm; thôn trưởng làng Mỉ-hóa không lo tuần phòng, để cho ăn trộm vào làng lấy của người ta, đều là đáng tội; trừ một khoản ẩn lậu, là tội nhẹ, cứ theo lệ Tra tập bất lực, phải làm tội cả hai thôn trưởng, ưng xữ mỗi tên là 80 trượng để làm gương răn dạy. Chí như thôn trưởng làng An-thới, dầu Mai-văn-Sanh là bộ nó, song tra ra Mai-văn-Sanh, quả ngụ làng khác xa, việc văn Sanh làm nó không biết, nên xin miễn nghĩ cho nó. Còn sự chủ là Nguyễn-văn-Trí bị ăn...
trộm các hạng tính tiền là 345 quan 5 tiền, mà đã lấy lại được, còn thiếu 25 quan; chiếu theo sổ tịch ký, gia tài văn Trước, văn Sanh được 23 quan 8 tiền 30 đồng, phát mải trả cho văn Trí làm đơn lảnh, còn thiếu ít nhiều phải bỏ. Còn các kẻ khác, xét không can thiệp, chẳng luận. Riêng nghĩ các lẽ, chưa biết đáng hay là không đáng, dám làm sách đưa lên, hầu vâng xét lại.
Tự-đức năm thứ 4, tháng 6 ngày mồng 10.
Ấn tri phủ Hoằng-trị
115 – ÁN LAI LỊCH BẤT MINH.
Tri phủ Hoằng-trị, kiêm lý ấn vụ huyện Bảo-hựu, Bảo-an Thẩm nghĩ:
Năm ngoái, tháng 11, ngày 28, có thôn trưởng, hương hào làng An-bình-đông thuộc tổng Bảo-an, giải xưng đêm 27 tháng ấy, chúng nó đi tuần trong làng, có bắt đặng một trai đi đêm không đèn, sau mới biết là Nguyễn-văn-Thơ, hỏi ra không biết tông tích là người gì, không dám tha, cho nên phải đem nó tới mà nạp. Ngày ấy lại có thôn trưởng, hương thân làng An-ngãi-trung, cũng thuộc về một tổng, giải xưng ngày 26 tháng ấy, có thấy một trai lạ mặt, sau biết là Nguyễn-văn-Bá, tới trong làng xưng là lính tuyển phong, vâng sai đi thám bắt đứa gian cùng ăn trộm. Làng chúng nó nghi, hỏi tên ấy không có văn bằng, bèn bắt mà nạp, các lời.
Đem hai tên ấy ra mà hỏi.
Một đứa xưng là Nguyễn-văn-Thơ niên canh kỷ-mão 38 tuổi, không có anh em vợ con; nguyên nó là dân làng Tân-thạnh-trung, về phần tổng Bảo-lộc, nghèo lắm nó đi lưu lạc. Năm ngoái tháng 11, ngày 27, nó tìm tới chợ làng An-Bình-đông, kiếm việc làm mướn mà ăn; đêm tối lỡ đàng, xảy bị làng đi tuần bắt. Hỏi đến, nó phải khai ngay, nó không hề có bụng đi làm gian hay là ăn trộm, các lời.
Một đứa xưng là Nguyễn-văn-Bá, niên canh mậu-tuất 28 tuổi, nguyên là dân làng Lương-mỉ, về phần tổng Bảo-thành, nó không có anh em, vợ con. Năm ngoái tháng 11, ngày 26, nó nhơn nghèo khổ, không biết dựa vào đâu bèn đi xứ khác, kiếm việc làm công mà ăn. Vừa tới làng An-ngãi-trung, đói lắm, nó mới mạo xưng là lính tuyển phong, vâng phép sai đi bộ đạo, họa may làng có đãi cơm cho đặng đi chỗ khác; chẳng dè làng ấy biết việc giả mạo, liền bắt mà nạp. Hỏi đến, nó phải khai ngay, vốn nó không có làm đều hung dữ, các lời.
Hỏi thôn trưởng làng Tân-thạnh-trung, là Nguyễn-văn-Điền, khai rằng làng nó có tên dân bộ, là Nguyễn-văn-Thơ, nghèo khổ không có nhà cữa tại làng, lưu lạc không ở một chỗ. Về sự văn Thơ đi tới làng An-bình-đông bao giờ, làng nó không rõ.
Hỏi thôn trưởng làng Lương-mỷ, là Nguyễn-văn-Lợi, khai chịu làng nó có tên Nguyễn-văn-Bá, nghèo, không có anh em, nhà cữa tại làng. Tên ấy không ở một chỗ, Còn sự tên Bá đi tới làng An-ngãi-trung, giả là lính thể nào, làng nó không hiểu biết.
Tra hỏi các lẽ rồi.
Xét Nguyễn-văn-Thơ, Nguyễn-văn-Bá, đều là dân nghèo nàn, đi tới chỗ khác, kiếm việc làm thuê mướn cho có hột cơm mà ăn, té ra không yên bổn phận; tên Nguyễn-văn-Thơ, đêm khuya đi không đèn, tuy chưa tỏ tình gian, mà không khỏi lẽ gian; Nguyễn-văn-Bá lại mạo xưng là binh tỉnh sai đi bắt hung Phạm, giã trá thinh thế cho được kiếm ăn, không có ý làm ra tờ trát. Cả hai đều là đứa du đảng, không lo việc làm ăn rõ ràng.
Nếu lấy một sự trong luật lệ không có điều rõ ràng, mà tha bổng nó đi, thì e lỗi trong sự rộng quá; vậy việc tên Nguyễn-văn-Thơ, Nguyễn-văn-Bá, phải chiếu theo mặt luật bất ưng trọng, xữ quyết mỗi đứa 80 trượng, để làm gương răn dạy, lại giao cho làng quản nó, làm giấy lãnh đem về quản thúc.
Về sự thôn trưởng làng Tân-thanh-trung, là Nguyễn-văn-Điền; thông trưởng làng Lương-mĩ, là Nguyễn-văn-Lợi, xét ra văn Thơ, văn Bá đi chỗ khác làm việc chẳng phải, chúng nó vốn không hiểu biết, đều cho miễn nghị.
Tự-đức năm thứ 6 tháng giêng ngày 12.
Ấn huyện Bảo-an.
116 – ÁN ĂN TRỘM.
Tri phủ Hoằng-trị, gồm hay huyện Bảo-hựu, Bảo-an, họ Trương, kiết nghĩ án ăn trộm có tang tài.
Năm ngoái ngày 20 tháng chạp, có cai tổng Bảo-thành, là Vỏ-văn-Khoa; thôn trưởng Lương-mĩ, là Nguyễn-văn-Lợi; hương thân là Nguyễn-đức-Bài, giải nạp hai người cùng khai rằng: ngày mồng 6 tháng ấy, chừng canh hai, các người ấy đem dân đi tuần, thấy trong nhà danh Ngộ, là người ở trong làng, có người lạ mặt, sau mới biết tên là danh Điền. Các người ấy hỏi danh Điền nói sự tích có lẽ hồ nghi, bèn soát nhà danh Ngộ, lấy đặng ruột gà đèn ló, cùng các món tài vật. Khi ấy có người ngụ trong làng tên là Mỉ đi theo, nói rằng vợ nó là thị Hợi có nhà ở tại làng Đại-định, thuộc về tổng Bảo-khánh, ngày mồng 4 tháng chạp, chừng canh tư, bị ăn trộm lấy tài vật hết nhiều. Danh Mỉ nhìn đồ soát trong nhà danh Ngộ, đặng một cái nồi bằng đồng, hai cái gối vải xanh, một bức trướng vỏ đoạn, 24 thước vải trắng, một cái áo lụa cũ, một cái khăn gói, quả là đồ vợ nó bị ăn trộm.
Hỏi danh Ngộ, danh Điền đều xưng rằng nhiều lần nó hiệp bọn với danh Bình, danh Sung, có ăn trộm nhà thị Thọ, thị Hợi, danh Trụ, cùng lấy được đồ. Các người ấy đem cả tang phạm cùng đồ ăn trộm tới nha mà nạp, các lời.
Dạy đem tên Lê-văn-Ngộ ra giữa nha mà hỏi. Nó khai nó có 34 tuổi, vốn là dân lậu, ở ngụ tại làng Lương-mĩ, cha mẹ nó chết sớm, nó không có anh em. Đêm mồng 10 tháng 11, năm ngoái, có người quen nó, là danh Điền và danh Bình, là người nó không biết họ, không biết làng, tới tại nhà nó, rủ nó đi ăn trộm người trong làng là thị Thọ, lấy đặng chừng 200 cân cau, còn giấu, chưa bán. Rạng ngày 11, thị Thọ theo dấu lấy cau lại được, làm thinh không cho ai hay. Ngày 27 tháng ấy, ban tối, nó với danh Bình, danh Điền, lại hiệp bọn với tên Sung là người nó không biết họ, không biết làng, ăn trộm nhà người trong làng tên là Trụ, lấy được 200 cân cau, nói là của ăn cờ bạc, đem bán cho danh Bài cũng là người trong làng đặng 12 quan tiền, chia mỗi đứa 3 quan để mà ăn uống. Đến đêm mồng 4 tháng chạp, nó với danh Bình, danh Điền sắm đồ nghề để mà ăn trộm: chừng qua canh tư lén qua làng Đại-định rình nhà thị Hợi, thấy trong nhà ngũ mê, mới cắt cữa nhà bếp ở phía sau, chun vào lấy đồ, chẳng dè thị Hợi nghe động, thức dậy hô hoán, chúng nó lấy được tài vật thoát ra chạy về nhà nó mà chia tang; phần nó một cái nồi bằng đồng, hai cái gối vãi vanh, một tấm trướng võ đoạn, 24 thước vải, áo lụa cũ một cái, khăn gói vải một cái; phần danh Điền, bảy thước vải đen, sáu tấc lảnh tàu, lụa trắng hai thước năm, mền vải xanh một cái, một cái áo lụa trắng, dây lưng lụa trắng một đoạn, quần hàng Annam một cái; phần danh Bình, một cái ấm thau, một cái quả tròn sơn đỏ, một lô sắt sống; một bộ rổ may; vòng đồng thòa một đôi; lảnh tàu một đoạn, bốn cái khâu bạc; hai chiếc cà rá mả nảo; mười nút áo mả nảo.
Chia rồi, phần ai nấy lảnh cùng đi tảng. Qua ngày mồng 6 ban đêm, danh Điền tới nhà nó mà nói chuyện, xảy bị tổng làng đi tuần, soát bắt trong nhà nó, lấy đặng đồ ăn trộm, cùng các món đồ tang. Chồng thị Hợi là danh Mỉ, nhìn đặng thiệt đồ tang, bắt nó giải nạp. Nay hỏi nó, nó ưng chịu tội, có đi ăn trộm lấy được đồ cùng chia nhau. Còn như bọn nó là danh Bình, danh Sung, đều trốn đi hết, nó không biết họ, không biết làng hai đứa ấy, không biết đâu mà bảo dẫn người đi bắt đi tịch, các lời.
Tra tên Dương-văn-Điền, khai niên canh quí-vì 40 tuổi, ở ngụ lậu tại làng Đại-định, về phần tổng Bảo-khánh. Cha nó là Dương-văn-Dõng, ở đô với danh Nghi, nhà ở tại làng Lương-mỉ, về phần tổng Bảo-thành. Năm ngoái, tháng 11, đêm mồng 10, nó có hiệp bọn với danh Ngộ, là người quen nó, ở làng Lương-mĩ, với tên Bình là người, nó không biết họ, không biết làng quán, có ăn trộm của thị Thọ, lấy đặng chừng 200 cân cau, đem giấu chỗ vắng, mà thị ấy theo dấu lấy lại được, thị ấy không hô hoán. Tháng ấy, ngày 27 ban đêm, nó với danh Ngộ, danh Bình, lại hiệp với tên Sung, là người không biết họ, không biết làng, ăn trộm cau của danh Trụ 200 cân, bán cho người trong làng, tên là Bài, đặng 12 quan tiền, chia nhau mỗi đứa ba quan để mà tiêu. Đến ngày mồng 4 tháng chạp ban đêm, nó với danh Bình, danh Ngộ, lại ăn trộm nhà thị Hợi, lấy đặng đồ chia nhau. Phần nó: vải đen bảy thước; sáu tấc lảnh tàu nhuộm đỏ; hai thước năm lụa trắng; mền vải xanh cũ một cái; áo lụa trắng một cái; dây lưng lụa trắng một đoạn, quần hàng nam một cái. Vã nhà nó ở gần sự chủ, nó không dám đem về, nó đánh giá tiền, đánh bạc với người đi ghe giang hồ lạ mặt, không biết tên, nó thua hết. Nó còn có bảy thước vải đen, lảnh tàu sáu tấc, hai thước năm lụa trắng, nó đem tới nhà cha nó, nói dối là đồ ăn bạc, giao cho cha nó giữ. Ngày mồng 6 ban đêm, nó tới nhà tên Ngộ mà nói chuyện, xảy bị tổng làng bắt nó với tên Ngộ, cùng bắt đặng đồ nghề ăn trộm, tra hỏi nó cùng đem nó tới chỗ cha nó ở đậu tại nhà tên Nghi, lấy đặng thiệt tang y số. Song cha nó nghe bắt, thì đã trốn mất, nó không biết đâu mà dẫn đi bắt. Hỏi nó, nó cam chịu tội có đi ăn trộm cùng lấy đặng đồ, các đều nó khai gần giống như lời Lê-văn-Ngộ. Lại khi nó đem đồ tang mà gởi cho cha nó, thì danh Nghi đi khỏi, không hay biết sự gì, các lời.
Hỏi tên Nghi khai niên canh giáp-thân 29 tuổi, nhà ở làng Lương-mỉ. Năm ngoái ngày tháng giêng, có người quen nó là Dương-văn-Dõng, là cha tên Điền, tới ở đậu nhà nó làm ăn. Vã nó chuyên việc đi ghe buôn bán, cho nên khi tên Điền đem của ăn trộm tới mà gởi cho cha tên Điền, nhằm ngày nào, tháng nào, nó không hay biết, các lời.
Hỏi tên Đặng-văn-Bài, khai rằng nhà ở làng Lương-mỉ, năm ngoái tháng 11 ngày 28, thấy người trong làng là danh Ngộ và người làng Đại-định, là tên Điền, khiêng 200 cân cau tới nhà nó, nói là cau tụi cờ bạc, bán cho nó, lấy 12 quan tiền; rồi nó bán lại cho ghe Khách cũng y giá 12 quan. Nay danh Ngộ, danh Điền khai là của ăn trộm, hỏi nó, nó xin chịu tội mua lầm của gian, nó xin đem 12 quan tiền mà nạp; còn như sự các tên kia ăn trộm cau của danh Trụ thể nào, nó không dự biết, các lời.
Hỏi thôn trưởng làng Đại-định, là Huình-văn-Tại, khai rằng làng nó có Dương-văn-Điền ở ngụ, làng nó thấy tên Điền nghèo khổ lắm, không đem vào bộ. Nay hỏi tới làng nó, làng nó xin chịu tội ẩn lậu; còn như tên Điền hiệp bọn với tên Ngộ, tên Bình, danh Sung, ăn trộm lấy của chia nhau thế nào, làng nó không hề hay biết. Lại trong làng nó cả số dân bộ, dân lậu, đều không có tên, không có mặt danh Sung, không biết đâu mà bắt cho quan, các lời.
Hỏi cai tổng Bảo-thành, là Vỏ-văn-Khoa, thôn trưởng Lương-mỉ, là Nguyễn-văn-Lợi, hương thân là Nguyễn-đức-Bài, cả thảy đều khai y như các lời đã khai trong khi mới giải. Có một mình tên Nguyễn-văn-Lợi khai rằng làng nó có người đáo ngụ, là Lê-văn-Ngộ, nhà cữa nghèo nàn, cho nên làng nó không đem vào bộ. Nay vâng hỏi tới, nó xin chịu tội ẩn lậu; chí như tên Ngộ hiệp bọn với tên Điền, tên Bình, tên Sung, ăn trộm đặng đồ chia nhau thể nào, làng nó không hề hay biết; lại trong số dân bộ, dân ngụ làng nó, không có tên, không có mặt tên Bình, tên Sung, không biết đâu mà bắt giải, các lời.
Hỏi sự chủ, là Huình-thị-Thọ, khai rằng năm ngoái, tháng 11, ngày mồng 10, ban đêm, thị ấy bị ăn trộm lấy 200 cân cau, đánh giá 12 quan. Rạng ngày mai thị ấy theo dấu, thấy cau còn giấu ngoài bụi, cũng ở nội làng, bèn lấy lại đem về làm thinh không hô hoán. Nay danh Ngộ, danh Điền chịu có ăn trộm cau ấy, thị ấy mới rõ, các lời.
Hỏi Hồ-văn-Trụ, khai rằng là dân bộ làng Long-sơn, ở tổng Bảo-hựu, nhà thì ngụ làng Lương-mỉ, mà làm ăn. Năm ngoái ngày tháng 10, Nguyễn-văn-Lợi, là thôn trưởng làng ấy, mua đặng 200 cân cau trái, gởi tại nhà nó, phía trước sân, tới đêm 27 tháng 11, cau ấy bị ăn trộm lấy, theo hỏi không ra mối; hay nhờ bắt hỏi ăn trộm, là tên Điền, tên Ngộ, đều xưng có ăn trộm mà bán cho danh Bài đặng 12 quan tiền, lại danh Bài chịu có mua cùng chịu trả tiền lại y số; nó với văn Lợi đã làm đơn lảnh 12 quan tiền ấy rồi, các lời.
Hỏi Nguyễn-thị-Hợi, khai rằng năm ngoái tháng chạp, ngày mồng 4, ban đêm chừng canh tư, nhà thị ấy bị ăn trộm lấy của cải các hạng, đánh giá 110 quan 1 tiền. Thị ấy nhìn thiệt đồ tang các hạng trị giá 20 quan 2 tiền, đã có làm đơn lảnh, còn thiếu các món khác thị giá 89 quan 9 tiền nữa, các lời.
Tra sổ tịch ký gia tài Lê-văn-Ngộ, trị giá 9 quan 8 tiền; gia tài Dương-văn-Điền, trị giá 2 quan vân vân.
Các lẽ trước nầy đã có tra xét theo phép.
Án đoán.
Vâng thẩm Lê-văn-Ngộ, Dương-văn-Điền đều là dân lậu, du côn, cả gan hiệp bọn với tên Bình, tên Sung, là hai đứa trốn, ăn trộm ba lần, đều lấy đặng của: một lần ăn trộm 200 cân cau của Huình-thị-Thọ, trị giá 12 quan, tính ra bạc là 2 lượng, đem đi giấu mà chủ nhà lấy lại đặng; một lần ăn trộm cau của Hồ-văn-Trụ, 200 cân, trị giá 12 quan, tính bạc hai lượng; một lần ăn trộm nhà Nguyễn-thị-Hợi, lấy đặng tang vật, trị giá 110 quan 1 tiền, tính ra bạc là 18 lượng có dư; tra hỏi nó đều xưng ngay.
Kính y trong luật định tội ăn trộm, có một khoản rằng: “Hễ việc ăn trộm đã làm, mà có được của, thì lấy một chủ làm trọng, tính tang mà luận tội, đứa vi tùng đều giảm một bậc; mới phạm một lần, cũng thích hai chữ thuyết đạo trên cánh tay hữu.” lại chiếu theo bản đồ nói về tang ăn trộm, “Hễ mười lượng thì trượng bảy chục, các lời.” Trừ ra sự hai tên phạm ấy, hai lần ăn trộm cau của thị Thọ, của văn Trụ, tang vật không đáng bao nhiêu, tội nhẹ không đáng kể, vâng nghĩ Lê-văn-Ngộ, Dương-văn-Điền, phải chiếu theo sự một lần ăn trộm nhà thị Hợi, lấy đặng tang tài, kể ra bạc là 18 lượng có dư, mỗi đứa phải đánh quyết bảy chục trượng, cùng phải thích hai chữ thuyết đạo trên cánh tay hữu, giao về cho làng Lương-mĩ, làng Đại-định kiết lảnh đem vào bộ, chịu sau sai. Tên Bình, tên Sung, là đứa có tội ăn trộm hãy còn trốn, và tên Dương-văn-Dõng, là cha Dương-văn-Điền, chính là người chịu lấy của ăn trộm gỡi, ngày nào bắt được, sẽ xét nghĩ. Tên Phạm-văn-Nghi cho văn Dõng ở đậu tại nhà, lúc văn Điền đem tang mà gỡi cho văn Dõng giấu trong nhà nó, hỏi quả nó đi khỏi, không hay biết. Tên Đăng-văn-Bài mua lầm cau ăn trộm hai trăm cân, giá tiền 12 quan, đã có thâu lại mà thường cho chủ bị ăn trộm, là Hồ-văn-Trụ nhận lảnh rồi. Lẽ phải nghị tội các người ấy, song tra ra tên Nghi, tên Bài, chắc không hay biết sự gì, cho nên nghị tha cả hai. Thôn trưởng làng Lương-mĩ, là Nguyễn-văn-Lợi, ẩn lậu cho Lê-văn-Ngộ; thôn trưởng làng Đại-định, là Huình-văn-Tại, ẩn lậu cho Dương-văn-Điền, vốn chẳng hay kềm thúc, để cho văn Ngộ, văn Điền đặng thế hiệp bọn, ăn trộm, chẳng lẽ bỏ qua mà chẳng nói. Vậy Nguyễn-văn-Lợi, Huình-văn-Tại, đều phải chiếu theo luật ẩn lậu một người có gia sản, đánh quyết mỗi tên sáu chục trượng, để mà răn dạy. Người bị ăn trộm cau, như thị Thọ, văn Trụ, vốn đã đặng bồi thường thì thôi. Còn Nguyễn-thị-Hợi, khai mất tài vật các hạng trị giá 110 quan tiền, trừ sự đã lấy được thiệt tang, trị giá 20 quan 2 tiền, còn thiếu 89 quan 8 tiền, cứ số tịch phong gia tài văn Điền, văn Ngộ, được có 11 quan 8 tiền, cấp thường cho thị Hợi nhận lảnh, còn thiếu 78 quan 1 tiền, đợi chừng nào bắt đặng các tên còn trốn, thì sẽ đòi mà trả.
Đồ nghề ăn trộm, một cái ống ruột gà đèn ló, nghĩ phải phá hũy; còn những người không mắc trong án nầy, thì không phải nói tới.
Vã chịu tra vụ nầy từ tháng chạp ngày 20, tới năm nay, tháng nầy ngày 28, thì kiết cuộc, kể từ ngày chịu việc cho tới ngày xử việc rồi, là năm tháng 8 ngày, từ ngày sắp ấn cho tới khai ấn, trừ hết 21 ngày; tính 16 ngày cầm tra việc hình, cùng một ngày tháng thiếu, cả thảy một tháng 8 ngày, còn có bốn tháng mà thôi, cũng xin kể luôn ra đây.
Tự-đức năm thứ 6, tháng năm ngày 26.
Ấn tri phủ Hoằng-trị.
117 – ÁN TẤU VỀ VIỆC ĂN CƯỚP.
Vĩnh-long-tỉnh, bố chánh sứ thần; án sát sứ thần...
Kính đem lời phúc thẩm về án ăn cướp đắc tài các duyên do, làm sách dâng tâu, ngửa nhờ lượng Thánh tỏ soi:
Ngày 28 tháng 10 năm nay, có Hoằng-trị-phủ, tri phủ thân... làm án giải vụ ăn cướp, nói rằng: “Ngày 28 tháng 6 năm nay, hồi canh một, có huyện Di-minh, giải ăn cướp tới, cứ lời thôn trưởng làng Tân-lộc, là Lê-văn-Canh trình xưng, “ngày 24 tháng ấy, nó với dịch mục Lê-văn-Thiên đi bắt dân lậu bên huyện Vỉnh-trị, nghe báo đêm 25, chừng canh ba, nhà nó bị một đảng ăn cướp chừng 10 đứa đánh lấy đồ rồi đem nhau đi mất; dân làng theo không kịp, lấy đặng có hai đoạn đèn chai ăn cướp bỏ lại mà thôi. Ngày ấy nó trở về mời làng lập tờ cớ. Qua ngày 28, nó nghe lính trong làng, tên là Đỗ-văn-Tú nói rằng: đêm ăn cướp ấy, nó với đội trưởng Trần-văn-Thạnh, cùng tên lính khác là Lê-văn-Thông, có hiệp với dịch mục làng Tân-đức, là Đỗ-văn-Thung, đồng ngồi nghe mà rượt ăn cướp, gặp ăn cướp tại rạch nhỏ, nơi nhà Trần...
văn-Luật, cũng ở tại Tân-đức. Văn Thung, văn Thạnh dạy bắt, văn Luật với bọn ăn cướp bèn đem tiền 15 quan mà hối lộ; văn Thung, văn Thạnh chịu ăn mà tha, các lời.”
“Quan huyện đem thơ lại, quân lệ cùng tổng làng, cứ lời văn Canh báo chỉ, bắt đặng bợm, là Trần-văn-Luật, Trần-văn-Ý, lấy đặng khí giái cùng đồ tang. Hỏi hai tên phạm chịu xưng có hiệp lỏa với danh Tị, danh Đá, danh Lảm, danh Trì, danh Viễn, danh Vùng, danh Hữu, đánh nhà danh Canh, lấy đặng của. Bắt lần đặng Nguyễn-văn-Trì, Nguyễn-văn-Viễn, Phạm-văn-Vùng, Nguyễn-văn-Hữu, lại xung ra ngày mồng 6 tháng 6 năm nay, ban đêm, bốn đứa nó có hiệp lỏa với danh Bữu, danh Tiêm, danh Sương, danh Soạn, danh Quới, danh Dõng, danh Tị, danh Quiền, danh Năng, danh Khoa, danh Thận, danh Diêu, danh Huình, danh Huyên, danh Hợi, danh Kình, cả thảy 20 đứa có đánh nhà danh Liệu, ở làng Thanh-xuân, lấy đặng của chia nhau, các lời.
“Huyện Di-minh bèn sai đi bắt đặng danh Hữu, danh Tiêm, danh Sương, danh Soạn, danh Quới, danh Dõng, danh Tị, danh Quờn; còn danh Trì, danh Lảm, danh Năng, danh Khoa, danh Thận, danh Huình, danh Huyên, danh Hợi, danh Kình, danh Diêu, nghe bắt liền trốn trước, có giấy tập nã, mà bắt không đặng. Cứ tịch biên gia sản các tên phạm, giao cho dân canh giữ; rồi đem cả tang phạm, chứng cớ, cả thảy về nha tra hỏi cùng kiết nghĩ. Qua ngày mồng 3 tháng 9 năm nay, tên Nguyễn-văn-Quới ở giam mang bịnh mà chết, có giấy làm bằng. Lời các phạm cung xưng cùng lời thẩm nghĩ, kể bày ra đây.
“Hỏi Nguyễn-văn-Trì khai niên canh quí-dậu 28 tuổi, là dân làng Tân-thanh-tây về tổng Minh-thuận, tại làng không có nhà cữa, ở ghe trôi nổi buôn bán làm ăn. Em chú bát nó là Nguyễn-văn-Viễn, đồng ở dưới ghe. Ngày mùng 5 tháng 6 năm nay, nó có gặp người quen là danh Năng chống ghe lại gần, nói chuyện người làng Thanh-xuân, tên là Liệu, giàu có, bọn mình nghèo phải hiệp nhau, đánh lấy ít nhiều chia nhau đở nghèo. Qua đêm mồng 6, chúng nó đều đem ghe tới đậu mé sông gần vườn tên Liệu. Khi ấy có tên Sâm là rể chồng trước vợ danh Liệu xuống ghe nói chuyện, chịu làm hướng đạo. Danh Sâm lại rủ đặng các người ở ghe là danh Khoa, danh Diêu, thêm hai chiếc nữa, rồi biểu danh Khoa, danh Diêu kêu rủ người thêm, sắm đồ binh trượng, hẹn tối đêm ấy đồng tựu chỗ thanh vắng, hiệp lại mà đi. Nó nghe theo, nó rủ danh Viễn, danh Hữu, là dân làng Tân-thành, danh Thận, là người làng Đông-thạnh, danh Kình, là người trong làng, và con gì nó là danh Quờn, đem khi giải đồng ngồi một ghe tới tại làng Thanh-xuân, ngó thấy ghe danh Năng, danh Khoa, danh Diêu ba chiếc đậu cặp kè. Nó thấy trong ghe tên Năng có tên Bửu, tên Huình, tên Soạn, tên Tiêm; trong ghe danh Khoa thì có danh Thận, danh Sương, danh Tị; còn ghe danh Diêu thì có tên Dõng, tên Quới, tên Huyên, tên Hợi, hiệp cùng 6 người dưới ghe nó là 20 người. Danh Khoa làm đầu, phân đặt xong xuôi, ai nấy cứ chèo ghe tới bến danh Liệu mà đậu. Xảy thấy tên Sâm xuống ghe, đem danh Năng, danh Soạn đi cắt một cái đường nhỏ đàng sau vườn danh Liệu. Tới canh ba, nó biểu tên Quờn cầm một cái đoản côn ở lại mà giữ ghe, nó đem người nó hiệp cùng bọn danh Khoa, danh Năng, danh Hiêu, cầm khí giái xốc vào vườn. Danh Sâm danh Năng thám trong nhà danh Liệu, ai nấy ngủ hết, mà đèn còn chong. Khi ấy danh Khoa truyền nổi đèn, áp vào nhà danh Liệu. Danh Khoa, danh Năng cầm côn ở ngoài mà thủ; nó với danh Diêu, danh Huình, danh Bửu phá cữa sau, xông vào nhà bắt tên Liệu trói lại, khuân tiền của đem xuống ghe chèo về chỗ cũ ở địa phận làng Thanh-thủy, mà không thấy danh Sâm đi theo mà chia đồ. Danh Năng giành công dọn đàng, xí phần một cái nồi lữa bằng thau, đồ trà một bộ, khay hộp một bộ và hai cái muỗng dừa; còn lại bao nhiêu, danh Khoa nhắm ghe bốn chiếc, chia làm bốn phần, lại cho danh Sâm có công chỉ dẩn, một phần, giao cho tên Năng nhận lảnh. Phần nó lảnh cho các người ghe nó, hiện tiền 28 quan cùng các món đồ đạc, sang qua ghe chèo đi chỗ khác, rồi lại chia nhỏ làm bảy phần: tên Kình tiền 7 quan, vải trắng một cây, mùng vải xanh cũ một cái, áo lụa trắng chẹt một cái, chậu rữa tay bằng thiếc một cái; danh Vùng tiền 7 quan, đồ trà một bộ, mền vải xanh một bức, nồi đồng hai tuổi một cái, quần lảnh cũ một cái; danh Hữu tiền 7 quan, mền vải xanh cũ một cái, mùng thao càng cũ nhuộm già một cái; tên Quờn tiền 7 quan, quần lụa cũ một cái, nồi đồng bốn tuổi một cái; còn nó với tên Viễn cùng ghe nó ba phần: lư hương đồng một bộ; chăn nỉ đỏ một bấc; bình phong kính đá một mặt; áo địa màu lục một cái; áo hàng sắc một cái. Về sự danh Khoa, danh Năng, danh Diêu, cả thảy có ba chiếc ghe, với phần danh Sâm có công chĩ dẫn tang vật bao nhiêu, nó không nhớ chắc. Phần nó với danh Viễn còn để chung, qua ngày mồng 7, nó bèn đem đi gỡi cho chú nó, là Nguyễn-văn-Huệ, nói dối là của đánh cờ bạc mà ăn, chú nó nghe lời giữ lấy cũa ấy.
“Đến ngày 24, thấy tên Tị, là người làng Hội-an, về tổng Minh-đạt, tới nói thôn trưởng Canh ở làng Tân-lộc, về tổng Minh-hóa, giàu lớn, có đội trưởng Trần-văn-Luật biểu nó rủ bợm, hẹn sáng ngày 25 phải tựu nhà văn Luật mà tính việc. Nó nghe lời ngồi ghe đi với tên Viễn, tới nhà văn Luật, thì thấy có danh Tị, danh Vùng, danh Hữu, danh Đá, danh Lảm, với em ruột văn Luật, là danh Ý chực sẵn. Nội đảng được 9 đứa, đều có khí giái. Đội trưởng Luật đem tên Viễn đi theo dò đàng bộ cùng thám nhà thôn trưởng Canh, chiều trở về nói thôn trưởng Canh mới đi bắt dân trốn bên Vỉnh-trị, chẳng phải lo sợ sự gì. Đội trưởng Luật nấu cơm cho ăn uống rồi, cữ văn Luật làm thủ đảng, ai nấy vi tùng, chừng đầu canh ba phân nhau ngồi ghe nó, cùng ghe danh Đá, cả thảy hai chiếc chèo qua rạch, đem nhau lên bộ. Đội trưởng Luật sợ người nhà thôn trưởng Canh biết mặt, lảnh phần ở lại giữ ghe, còn bao nhiêu theo danh Viễn dẩn đàng, kéo thẳng vào nhà thôn trưởng Canh. Thấy trong nhà còn để đèn, chưa ngủ, nó biểu tên Viễn, tên Hữu, tên Ý cầm gậy tầm vông đứng ngoài mà thủ; nó cầm một cái đoản côn, phá cữa trước, tên Tị cầm côn xốc vào nhà, bắt trói bà chủ nhà; tên Vùng, tên Lảm đánh đèn chai, tên Đá cầm côn xông vô, phá rương xe, lấy của. Xảy nghe tiếng hàng xóm hô hoán, đánh mỏ, danh Lảm vác 20 quan tiền với một bộ lư hương, còn bao nhiêu lật đật ôm đồ tang mà chạy, tới nữa đàng sợ chúng theo, nó biểu quăng lại hai cây đèn chai. Xuống ghe rồi không thấy tên Lảm, chúng nó chèo ghe trở về rạch nhỏ, khiêng tang vật để tại nhà thị Cẩm là mẹ đội trưởng Luật. Nó lén lấy tiền 10 quan, áo hàng nhuộm đỏ một cái với ba cái quần lụa cũ, mà giấu riêng dưới ghe nó. Khi ấy nó với danh Đá, dời ghe ra, chẳng dè bị đội trưởng Thạnh, dịch mục Thung, binh Tú, binh thống bắt được, nó với văn Luật sợ tội, đem 15 quan tiền mà lo, xin làm thinh, đội trưởng Thạnh cùng mấy người chịu tha, lấy tiền trở về. Chúng nó ngồi tại nhà thị Cẩm mà chia đồ tang; phần nó với tên Viễn, tiền 9 quan; khăn nhiểu đen một đượng; mâm thau vừa một mặt; nồi đồng hai tuổi một cái; phần danh Tị tiền 4 quan 5 tiền; hoa tai đồng thòa một đôi; phần tên Đá tiền 4 quan 5 tiền; nồi đồng ba tuổi một cái; phần danh Vùng, danh Hữu, danh Ý, mỗi đứa 4 quan 5 tiền. Đội trưởng Luật ăn phần điểm chỉ và phần đi chung, cả thảy 8 quan 5 tiền; lư hương một bộ; bình sành hai cái, dĩa quả tử hai cái, đồ trà một bộ; khay ăn trầu một cái; áo hàng cứt kiến một cái, quần lụa trắng một cái, mùng vải xanh cũ một cái, mền vải xanh một cái. Chia rồi còn dư tiền ba quan, chúng nó cho thị Cẩm, ai đâu về đó. Khi về, danh Vùng, có đem đồ giấu riêng, là quần bàn nỉ đỏ một bấc, với sáu thước thau càng mà cho nó, với tên Viễn làm tình quen lớn. Nó với tên Viễn chở đồ tang vào ghe, lưu linh nay đậu chỗ nầy, mai đậu chỗ khác. Đến ngày mồng 3 tháng 7, nghe việc phát, người ta bắt đặng văn Luật, văn Ý, nó sợ dời ghe qua làng An-phú, kiếm chỗ hóc hiểm mà đậu, đem đồ tang lên bờ giấu trong cỏ. Chẳng khỏi bao lâu, Nguyễn-văn-Lợi là thôn trưởng làng ấy đem dân ví bắt nó với danh Viển, giải về nha tra hỏi, nó với tên Viển đều khai hết mọi đều, chỉ các món đồ tang cùng khí giái ăn cướp. Sự chủ là danh Liệu và thôn trưởng Canh nhận quả là đồ bị ăn cướp. Và đồ thôn trưởng Canh một mặt mâm, một cái nồi hai, cùng phần nó chia chung, lúc ấy nó với tên Viễn sợ tội, đem giấu bên mép rạch, không biết ai lấy mất. Còn phần tiền 9 quan với phần nó giấu riêng 10 quan, nó với tên Viễn xài phá hết sạch. Các bợm khác là danh Tị, danh Đá, danh Lảm, danh Khoa, danh Thận, danh Diêu, danh Huình, danh Kinh, danh Huyên, danh Hợi, danh Năng, nghe bắt, trốn trước, nó không biết đâu mà chỉ, các lời.
“Hỏi qua Nguyễn-văn-Huệ, khai niên canh nhâm-tí 49 tuổi, chính là dân làng Định-phước, về tổng Minh-đạt, nó có nghe lời văn Trì nói dối, nó có chịu lấy của văn Trì gởi, nay hỏi tới nó, chịu đem ra mà nạp, về sự văn Trì ăn cướp làm sao, nó không hay biết, các lời.
“Hỏi Nguyễn-văn-Viễn, khai niên canh giáp-tí 37 tuổi, là dân làng Hưng-nhơn, về tổng minh-thuận, nó không có nhà cữa. Năm ngoái tháng 11, nó theo anh chú bát là Nguyễn-văn-Trì, ở ghe đi buôn bán mà làm ăn. Năm nay tháng 6, ngày mồng 6, ngày 25, trong hai đêm, nó với văn Trì có đi ăn cướp hai lần, một lần đánh nhà danh Liệu, một lần đánh nhà thôn trưởng Canh, đều lấy đặng tài vật, còn các đều khác, nó chịu cũng y như lời văn Trì.
“Hỏi Phạm-văn-Vùng, khai niên canh giáp-tí 37 tuổi, có nhà ở tại làng Tân-thành, về tổng Minh-thuận, nó còn ở lậu, cha mẹ chết sớm, nó có nghề làm vườn. Năm nay tháng 6, ngày mồng 6, ngày 25, hai đêm danh Trì, danh Đá có rủ nó đi ăn cướp nhà danh Liệu, nhà thôn trưởng Canh, đánh lấy đặng tài vật, các lời lược y như lời khai văn Trì. Và đồ tang đánh nhà danh Liệu, phần nó chia đặng một xấp vải 12 thước, quần bàn nỉ đỏ 2 bức; phần nó với danh Hữu: đủi một đoạn 8 thước, vải trắng một đoạn 6 thước, khăn nhiểu thanh canh tơ chỉ vải, nữa cái dài chừng 3 thước; phần chia với danh Trì, danh Viễn, đủi một đượng 6 thước, quần bàn nỉ đỏ một bức, nó đem cả thảy về nhà nó. Qua mồng 3 tháng 7, nghe bắt đặng đội trưởng Luật, danh Ý, danh Trì danh Viễn các người, nó liền đem đồ tang lấy tại nhà thôn trưởng Canh, mà nó giấu riêng, nói là của đánh cờ bạc mà ăn, gởi cho cha nó là Phạm-văn-Nhuận; còn đồ lấy tại nhà danh Liệu, phần ăn nó, nó giấu ngoài bụi, sau nhà nó. Còn tiền chia, hai lần đánh, được 11 quan 5 tiền, nó tiêu xài đã hết, nay bị bắt hỏi, nó phải khai ngay. Đồ tang nó chỉ lấy lại được, sự chủ là thôn trưởng Canh chịu là của bị ăn cướp cũng đã nhận lảnh. Lại đồ đánh nhà danh Liệu, phần nó được một cái nồi hai cùng các vật khác nó đem đi giấu, mà không biết ai lấy đi mất, các lời.
“Hỏi qua Phạm-văn-Nhuận, khai niên canh tân-mảo 70 tuổi, chịu văn Vùng có gởi đồ vân vân: về sự văn Vùng ở riêng, hiệp bọn đi ăn cướp hai lần bao giờ, nó không hay biết, nay hỏi tới, nó phải đem các món đồ gởi mà nạp.
“Hỏi Nguyễn-văn-Hữu, khai niên canh đinh-sửu 24 tuổi, ở ngụ làng Tân-thành, chưa đem vào bộ, năm nay tháng 6, ngày mồng 6, ngày 25, ban đêm nó hiệp bọn với danh Trì, danh Đá, cùng các đứa khác, đánh nhà danh Liệu, nhà thôn trưởng Canh, lấy đặng tài vật chia nhau, còn các lời khác cũng y như lời văn Trì.
“Hỏi Đinh-văn-Quờn, Nguyễn-văn-Bữu, Nguyễn-văn-Tiền, Nguyễn-văn-Sương, Đặng-văn-Tị, Lê-văn-Dõng, Nguyễn-văn-Quới, Huình-văn-Sâm, là đứa tuyến dẫn, đều chịu có ăn cướp phân tang, lừoi khai gần giống như nhau.
“Hỏi Trần-văn-Luật, khai niên canh nhâm-tí 34 tuổi, ngạch nó thuộc tỉnh Vỉnh-long, cơ Vỉnh-hậu, nó là ngoại hũy đội trưởng thuộc về đội nhứt, làng quán nó là Tân-đức, về tổng Minh-hóa. Ngày mồng 5 năm nay, nó bỏ đội trốn về làng, nhơn lúc nghèo, nó biểu danh Tị rũ danh Trì, danh Viễn, các đứa nhập lỏa đánh nhà thôn trưởng Canh, lấy đặng tài vật chia nhau, rủi bị văn Thạnh, văn Thung bắt được, nó năn nĩ xin đừng nói ra, các lời gần giống như văn Trì khai. Vã khi chia tang rồi, danh Đá có đem một cái nồi ba mà gởi cho nó giữ. Lại khi ấy nó lấy phần tiền của tên Ý, 4 quan 5 tiền; phần của mẹ nó 3 quan, với phần tiền của nó, cả thảy 16 quan, chưa tiêu xài, cùng các vật khác đem giấu tại nhà thị Cẩm. Đến ngày 28 tháng 6, nó với tên Ý đồng bị bắt, soát trong nhà thị Cẩm, có đủ các món ấy; sự chủ là thôn trưởng Canh cũng nhìn quả là đồ bị ăn cướp, các lời.
“Hỏi Trần-văn-Ý, khai niên canh tân-vì 30 tuổi, chính là dân làng Tân-đức, nó có nhập lỏa ăn cướp nhà thôn trưởng Canh, lấy đặng tài vật cùng có chia. Trong lúc đi ăn cướp, văn Trì biểu nó cầm một đoạn tầm-vông ở ngoài mà coi chừng. Các lẽ khác cũng y như lời khai văn Luật.
“Hỏi qua thị Cẩm, khai niên canh canh-tí 61 tuổi, có nhà ở gần nhà con là văn Luật, văn ý. Năm nay tháng 6 ngày 25, ban đêm chừng canh ba, nghe bên làng Tân-lộc nổi mỏ hồi một; một chạp thấy văn Luật, văn Ý, cùng nhiều người khác lạ, đi hai chiếc ghe, đậu trước bến mụ ấy rồi vác tiền, vác đồ vào nhà mụ. Một lát thấy đội trưởng Thạnh, mục dịch Thung theo bắt, văn Luật cùng các người đem 15 quan tiền mà lo cho khỏi bắt, mụ ấy mới biết văn Luật, văn Ý nhập bọn đi ăn cướp, còn các lẽ khác cũng gần y như lời văn Luật khai.
“Hỏi đứa ăn lót, là Trần-văn-Thạnh, khai niên canh ất-sữu 36 tuổi, ngạch binh thuộc về cơ Vỉnh-hậu, làm đội trưởng đội nhứt, quán ở làng Tân-lộc, mà ngụ Tân-đức. Ngày 23 tháng 6 năm nay, nó bỏ đội trốn về làng, tới đêm 25 chừng canh tư, nghe trong lãng mỏ đánh liên thinh, nó với dịch mục Thung, cùng hai tên lính trong đội là Lê-văn-Thống, Đỗ-văn-Tú, đồng xuống ghe chèo đi tiếp cứu; tới gần nhà thôn trưởng Canh, thì nghe ăn cướp đánh lấy đồ xuống ghe đi mất rồi. Nó hối chèo ghe theo, tới làng Tân-đức, thấy trong rạch đội trưởng Luật có hai đứa trai chống hai chiếc ghe be ra vàm rạch, nó với văn Thung, nghi quyết là ghe ăn cướp đem tang đi giấu cho mất tích. Nó với văn Thung hô lên biểu bắt, một thằng chống ứng tiếng nói là tên Đá. Nó liền biểu tên Thống qua ghe bắt tên Đá trói lại; tên Đá khóc xin tha thì sẽ tính ơn nghĩa. Nó với văn Thung biểu đừng trói để cho nó tính. Tên Đá liền vào nhà thị Cẩm, hiệp cùng đội trưởng Luật với danh Tị, danh Trì, danh Vùng cả thảy, đem 15 quan tiền cho bọn nó, xin làm thinh, đừng phát giác ra. Nó với văn Thung chịu ăn tiền ấy, rồi biểu binh Tú, chèo ghe trở về. Nó với văn Thung chia mổi đứa là 5 quan 5 tiền, còn lại 4 quan chia hai cho văn Thống, văn Tú. Nó đã giao cho văn Thống một quan rồi, còn văn Tú, thì không thấy tới, mà lảnh phần. Nay văn Tú tố cáo, bắt nó, với văn Thung, văn Thống, nó xin chịu tội.
“Hỏi qua dịch mục Thung, khai niên canh nhâm-thân 29 tuổi, là dịch mục làng Tân-đức, các lẽ khác cũng chịu y như lời văn Thạnh khai.
“Hỏi Lê-văn-Thống, khai niên canh kỉ-mảo 22 tuổi, ngạch binh thuộc về cơ Vỉnh-hậu, là lính đội nhứt. Năm nay ngày tháng 5, nó về ban mà nghỉ, còn các lẽ, nó chịu cũng y lời văn Thạnh, văn Thung khai. Lại trong lúc theo bắt ăn cướp, văn Thạnh là đội trưởng nó, văn Thung là dịch mục làng nó, dụng tình ăn lót, phận nó không dám can gián; tiền ăn lót 15 quan, văn Thạnh, văn Trung chia làm sao nó không biết. Đến ngày 26, văn Thạnh có đem cho nó một quan. Văn Thạnh lại nói phần văn Tú với nó, mỗi đứa hai quan, văn Thạnh đã xài hết rồi, bây giờ giao đở một cơ quan, còn một quan sau sẽ giao. Nó nghèo lắm, nó phải lảnh đở một quan. Nay văn Tú, tố cáo, bắt hỏi nó, nó phải thú thiệt.
“Hỏi Đỗ-văn-Tú, khai niên canh đinh-mảo 34 tuổi, ngạch binh thuộc về cơ Vỉnh-hậu, là lính đội nhứt. Ngày tháng 5 năm nay, nó về ban mà nghỉ. Đêm 25 tháng 6, chừng canh ba, nó nghe trong làng nổi mỏ hồi một, nó với đội trưởng Thạnh (hay là cai Thạnh) hiệp cùng Lê-văn-thống, dịch mục Thung ngồi ghe đi tiếp. Nghe ăn cướp đánh nhà thôn trưởng Canh rồi xuống ghe mà chạy, ghe nó tuốt theo tới làng Tân-đức, gần rạch xẻo, bên nhà đội trưởng Luật, thấy hai người trai chống hai chiếc ghe ra miệng rạch. Văn Thung, văn Thạnh hô lên biểu bắt, có một đứa lên tiếng xưng là tên Đá; dịch mục Thung, đội trưởng Thạnh biểu binh Thống qua ghe bắt trói. Tên Đá năn nĩ, xin để nó lo liệu, văn Thạnh, văn Thung bèn kêu binh Thống biểu đừng trói. Tên Đá trở vào nhà mẹ đội trưởng Luật, một chặp đội trưởng Luật với tên Tị, tên Trì, tên Vùng đem ra 15 quan tiền, xin phui pha. Đội trưởng Thạnh, dịch mục Thung chịu, rồi biểu nó với binh Thống chèo đem ghe về. Nó cứ việc về nhà, đội trường Thạnh với dịch mục Thung chia tiền ấy làm sao, nó không biết rõ. Nó nghĩ lại thôn trưởng Canh ở trong làng bị ăn cướp; nó đã gặp ăn cướp tại nhà thị Cẩm; đội trưởng Thạnh, với dịch mục Thung lại ăn tiền mà phui pha; nếu nó không báo cáo, để sau phát giác, nó phải tội chung, bởi vậy tới ngày 28 sáng, nó qua nhà thôn trưởng Canh, học hết các chuyện. Thôn trưởng Canh nói có quả như vậy, thì phải làm cam đoan, rồi liền đi thưa quan.
“Cứ lời các phạm, là Trần-văn-Luật, Trần-văn-Ý, Nguyễn-Văn-Trì, Nguyễn-văn-Viễn, Phạm-văn-Vùng, Nguyễn-văn-Hữu, cả thảy khai danh Đá ở làng Gia-khánh, về phủ Hoằng-an, đã có tư tờ cho tri phủ ấy bắt tịch nên Đá mà giải qua cho được kiết án. Tri phủ Hoằng-an phúc thơ rằng có hỏi thôn trưởng Gia-khánh, chịu “tên Đá có vào bộ, mà không có nhà cữa tại làng, tên ấy ở ghe trôi nổi buôn bán mà ăn, làng tìm không đặng.”
“Cứ các lời phạm là Nguyễn-văn-Trì, Nguyễn-văn-Bữu, Lê-văn-Dõng, Nguyễn-văn-Sương, khai rằng đêm mồng 6 tháng 6 năm nay, chúng nó có hiệp bọn với danh Năng, là dân làng Phú-trị, về tổng Bảo-thành, phủ Hoằng-đạo, có đánh nhà danh Liệu, ở làng Tân-xuân, lấy đặng tài vật chia nhau, các lời. Đã có tư tờ cho phủ Hoằng-đạo, bắt tên ấy cùng tịch ký gia sản nó, cho được làm án. Tri phủ
ấy phúc thơ, cứ lời thôn trưởng Phú-trị, xưng rằng “Chế-văn-Năng, là dân bộ, nghèo khổ, ở ghe trôi nổi buôn bán kiếm ăn, vâng trát kiếm tìm mà không thấy tông tích.”
“Hỏi sự chủ Phan-văn-Liệu, khai rằng: chính là dân bộ có nhà đất ở tại làng Tân-xuân, nhà nó ở xa xóm, có một cái nhà thị Xuân, là vợ sau nó ở gần. Năm nay, tháng 6, ngày mồng 6, tôi tớ nó đi khỏi, có một mình nó với vợ nó là thị Quình ở nhà. Đêm ấy chừng canh ba, nó nghe phá cữa sau, nó thức dậy thì thấy đèn đuốc sáng lòa; ăn cướp bắt nó, trói dưới gốc cột; nó ngó mập mờ, thấy đảng ăn cướp trong ngoài ước đặng 20 đứa, cạy rương, mỡ giường hòm lấy của mà đi, bỏ lại một đoạn tre tầm vông. Ăn cướp đi rồi vợ nó mở trói, nó la làng. Khi ấy có rể thị Xuân đồng ở một nhà với thị Xuân, tên là Sâm, chạy tới trước. Nó lại chạy qua nhà thôn trưởng làng gần mà hô hoán, làng đánh mỏ đem dân tới, đuổi theo ăn cướp, tìm không đặng dấu, rồi trở về nhà nó. Nó đem một đoạn tre dài chừng 4 thước, chỉ là khí giái ăn cướp bỏ lại với một đàng dây ăn cướp trói nó, trình cho làng coi. Các chức làng coi xét rương xe, giường hòm, coi đàng sau nhà bếp, thấy có một cái cữa mở bét ra, mà vách phên không có dấu phá. Làng thấy tình hình như vậy, thì nghi là ăn trộm, không chịu thị tờ một hạ. Khi ấy nó còn đau cho nên không đi tới nha môn mà báo đặng. Qua ngày mồng 5 tháng 7, có trát tại nha nói rằng có bắt đặng bọn văn Trì, văn Viễn ăn cướp nhà thôn trưởng Canh, khai rằng có đánh nhà nó, dạy nó phải tới nha mà khai, các lời. Vậy nó phải tới nha mà trình khai các việc cùng kể những vật nó bị ăn cướp rõ ràng; lại nó có đi theo thơ lại, lính lệ cùng tổng làng tìm bắt ăn cướp, tới đâu bắt được tang, nó nhìn quả là của nó, nó đã làm đơn nhận lảnh rồi. Còn thiếu các vật khác tính tiền 100 quan thiệt tiền 92 quan, còn mất cả thảy là 252 quan.
“Hỏi sự chủ Lê-văn-Canh, khai y như lời trong đơn cáo trình. Còn khi nó đi theo mà bắt ăn cướp, nó nhìn được tài vật cùng tiền tang 16 quan; tiền bọn văn Thạnh ăn hối lộ 15 quan, nó đã nhận lảnh rồi; còn mất tài vật các hạng tính tiền 20 quan, tiền thông dụng 57 quan, cả thảy là 77 quan.
“Hỏi vợ con các phạm trốn; hỏi các thôn trưởng làng sở tại; các lẽ hỏi tra minh bạch.
“Vâng thẩm Nguyễn-văn-Trì, Nguyễn-văn-Viễn, Nguyễn-văn-Hữu, Phan-văn-Vùng, bốn đứa, hai lần hiệp lỏa ăn cướp lấy được của; Nguyễn-văn-Bửu, Nguyễn-văn-Soạn, Đặng-văn-Tị, Trần-văn-Luật, Lê-văn-Dõng, năm đứa, một lần ăn cướp đắc tài, đều có phân tang, bắt hỏi, chúng nó đều chiêu khai rõ ràng, quả là đáng tội.
“Kính y trong luật cường đạo một khoản rằng: “Việc ăn cướp đã làm, mà có lấy của, thì chém hết chẳng phân vi thù, vi tùng, các lời.”
“Vâng nghĩ Nguyễn-văn-Trì, Nguyễn-văn-Viễn, Nguyễn-văn-Hữu, Phạm-văn-Vùng, Nguyễn-văn-Bữu, Lê-văn-Dõng, Nguyễn-văn-Soạn, Đặng-văn-Tị, Trần-văn-Luật, chín đứa đều phải y luật ấy mà chém quyết. Các đứa ở ngoài giữ ghe, là Nguyễn-văn-Quới, Nguyễn-văn-Sương, Phạm-văn-Tiêm, Đinh-văn-Quờn; đứa đứng ngoài coi chừng là Trần-văn-Ý, cả thảy năm đứa, trừ Nguyễn-văn-Quới ở giam đau bịnh mà chết, còn bốn đứa nghĩ phải chờ chĩ định đoạt. Tên Huình-văn-Sâm nghe lời Chế-văn-Năng xui mưu ăn cướp, đến khi đi, lại chỉ vẽ dẫn đàng, thám báo tin tức, rồi trở về nhà cho được chực việc; xét sự dụng tâm thiệt là đáng ghét, nghĩ Huình-văn-Sâm phải giảm tội cường đạo đắc tài một bậc, xữ trượng một trăm, đày ba ngàn dặm, phát ra địa phận tỉnh Nghệ-an mà giữ đó.
“Bọn Trần-văn-Thạnh, Đỗ-văn-Thung, đuổi theo gặp ăn cướp, không bắt, thuận tình ăn lót mà tha, đến khi tra, đều chiêu khai rõ ràng, thiệt là đáng tội.
“Cứ theo mặt luật Người phải đi bắt, theo bắt người tội, có một khoản rằng: “Bằng biết chỗ tội nhơn ở, mà không bắt, thì làm tội nhẹ hơn người tội một bậc, các lời.” Trừ việc ăn lót, tang nhẹ không đáng kể, vâng nghĩ tội Trần-văn-Thạnh, Đỗ-văn-Thung, xin làm nhẹ hơn văn Luật, văn Trì, một bậc, là trượng một trăm, đày ba ngàn dặm. Hai đứa ấy đồng ở một làng, đồng phạm một tội, vâng soi năm Minh-mạng thứ 5, ngày tháng 6, đình thần nghị trả lời có một khoản rằng: “Hể trong những đứa phạm tội quân, tội lưu, hoặc có hai ba đứa ở đồng làng, phạm đồng một án, thì khi định án, phải phân biệt chước lượng mà phát khiển các lời.”
“Kính vâng chĩ chuẩn đành rành.
“Vâng nghĩ Trần-văn-Thạnh phải phát ra địa phận tỉnh Hà-tịnh; Đỗ-văn-Thung phải phát ra địa phận tỉnh Nghệ-an, bổ làm công việc. Tên Lê-văn-Thống, là tay sai văn Thạnh, văn Thung, khai trong lúc ăn tiền, nó muốn cản, mà cản không đặng, sau văn Thạnh đưa cho một quan, lại lảnh đi, rồi lại làm thinh. Vâng nghĩ Lê-văn-Thống phải chiếu theo mặt luật người ở một xóm với chủ chứa ăn cướp, Trị gian bất tố biết việc mà không thú, gia thêm một bậc, là trượng 60 đồ một năm, hạn mãn giao về đội ngủ.
“Tên Đỗ-văn-Tú đi với bọn văn Thạnh một ghe, đã không chịu lảnh tiền lo lót, lại được đều đi thú trước, ưng xin miễn nghĩ cho nó. Nguyễn thị Cẩm biết rõ hai đứa con hiệp lảa ăn cướp lấy được của đem về nhà thị ấy mà chia, lại lấy ba quan tiền ăn cướp cho, rồi hiệp cùng phần tang hai con mà chôn giấu tại nhà, đến khi tra cũng chiêu xưng ngay. Kính vâng điều lệ trong luật cường đạo có một khoản rằng: “Cha anh, chú bắt cùng em út ở chung một nhà với ăn cướp, biết việc, mà lại chia tang; như đứa ăn cướp phải trảm quyết, thì giảm một bậc, làm trượng một trăm, đày ba ngàn dặm, các lời.” Vâng nghị Nguyễn-thị-Cẩm phải chiếu lệ ấy, trượng một trăm, đày ba ngàn dặm; nhưng nghĩ thị ấy là đờn bà, tuổi hơn sáu mươi, xin chiếu lệ cho thục bạc trọn là 4 đồng cân 5 phân mà đem vào kho. Tài chủ là Phạm-văn-Liệu, Lê-văn-Canh khai bị mất của, món nào đã lảnh về rồi thì thôi: phần văn Liệu mất các hạng tính tiền là 160 quan, lại mất tiền mặt 92 quan, hiệp cọng là 252 quan; phần Lê-văn-Canh mất các hạng tính tiền là 20 quan, lại mất tiền mặt 57 quan, hiệp cọng là 77 quan. Phần tịch ký gia sản các phạm được 351 quan 9 tiền, lấy ra 252 quan cấp cho sự chủ Phạm-văn-Liệu; 77 cấp cho sự chủ Lê-văn-Canh, đủ số rồi, còn dư 22 quan 9 tiền, thì đem vào kho. Đồ binh trượng của ăn cướp, bắt đặng, phải tiêu hũy. Còn những đứa trốn là danh Khoa, danh Diêu, danh Thận, Nguyễn-văn-Huình, Nguyễn-văn-Nguyên, danh Hợi, Chế-văn-Năng, Nguyễn-văn-Kình, Nguyễn-văn-Tại, Nguyễn-văn-Đá, danh Lảm, xin ngày nào bắt được sẽ làm án.
“Vâng nghĩ các thôn trưởng làng Thanh-thũy, Tân-xuân vân vân đều có tội chứa dân lậu, lại chẳng hay giác sát, để cho dân vầy đoàn ăn cướp; vâng chiếu theo mặt luật Bất ưng vi trọng, đều xữ trượng 80. Còn Đàng-thạnh-Ngoạn, là thôn trưởng làng Tân-xuân đã dụ dự không chịu thị tờ cớ cho văn Liệu, mà lại không báo cáo, phải chiếu mặt luật Bất ưng vi trọng, gia hai bậc trượng 100 và bải dịch. Về các người khác không can trong án nầy thì không nói tới. Chí như cơ Vỉnh-hậu, chức quản cơ, chức phó quản cơ cùng suất đội, mình làm cai quản đầu mục, mà để cho văn Luật, văn Thạnh bỏ trại mà về, gây nên việc ăn cướp, các viên chức ấy đều phải xử phân, tri huyện ấy không dám nghĩ tới, các lời. Cai phủ thần phúc thẩm các lẽ cũng đều nhằm phép, xin y nguyên nghĩ gởi về, các lời.”
Thần đằng vâng thẩm các phạm ăn cướp, là Nguyễn-văn-Trì, Nguyễn-văn-Viễn, Nguyễn-văn-Hữu, Phạm-văn-Vùng, hai lần hiệp nhau ăn cướp lấy đặng của; Nguyễn-văn-Bữu, Nguyễn-văn-Soạn, Lê-văn-Dõng, Đặng-văn-Tị, Trần-văn-Luật, năm đứa hiệp nhau ăn cướp một lần cùng lấy đặng của, đến khi tra đều xưng khai ngay, rõ ràng là đứa có tội; vâng nghĩ Nguyễn-văn-Trì, Nguyễn-văn-Viễn, Nguyễn-văn-Hữu, Phạm-văn-Vùng, Nguyễn-văn-Bữu, Nguyễn-văn-Soạn, Lê-văn-Dõng, Đặng-văn-Tị, Trần-văn-Luật, cả 9 đứa phải y luật cường đạo đắc tài, mà chém quyết; còn đứa ở ngoài giữ ghe là Nguyễn-văn-Sương, Phạm-văn-Tiêm, Đinh-văn-Quờn; đứa đứng ngoài coi chừng là Trần-văn-Ý, đều không vào nhà mà lục đồ, các đứa ấy có đáng giảm hay không, đều nhờ nơi ơn trên, thần đằng xin kính vâng chỉ dạy. Nguyễn-thị-Cẩm đã biết hai con là Trần-văn-Luật, Trần-văn-Ý hiệp lỏa ăn cướp, lấy được của đem về nhà thị ấy giấu để, rồi lại chịu lấy của tang, việc làm rất đáng chê ghét, xin không cho thị Cẩm thu thục, phải phát ra địa phận tỉnh Nghệ-an, an trí. Còn cơ Vỉnh-hậu chức thí sai quản cơ là Nguyễn-cửu-Tường, thự phó quản cơ là Nguyễn-văn-Điều, chức cai đội đội nhứt cơ ấy là Nguyễn-văn-Giáo, phận làm quản suất, đầu mục, mà không hay kềm thúc, để cho đội trưởng Trần-văn-Luật, Trần-văn-Thạnh, bỏ đội mà trốn, lại để cho lính về ban, là bọn Lê-văn-Thống, gây nên việc ăn cướp, chẳng có lẽ khỏi tội. Vâng nghĩ Nguyễn-cửu-Tường, Nguyễn-văn-Điều, Nguyễn-văn-Giáo, xin chiếu luật làm cai quản, đầu mục không nghiêm trong sự kềm thúc, xữ trượng 80; nhưng vậy lúc ấy Nguyễn-c