← Quay lại trang sách

Phần XIV 118 – ÁN GIÀNH GIA TÀI.

Tân-bình-phủ quiền tri phủ, kiêm lý Bình-dương-huyện, ti chức Nguyễn-hữu-Đạo,

Bẩm

Vì việc kiện ruộng đất, đem lời tiêu khai kiết nghĩ bẩm tường: nguyên ngày 28 tháng 11 năm nay, có tên Lý-văn-Tài là dân làng Hòa-hưng đầu đơn kiện Trần-văn-Trực, là dân làng Phú-thọ, giành một sở ruộng của cô nó là Lý-thị-Thành, ti chức có đòi làng tổng cùng nội vụ tới nha.

Cứ đơn Lý-văn-Tài, là dân làng Hòa-hưng, thuộc tổng Dương-hòa-thượng, trình rằng: khi cô ruột nó làm bạn với Trần-văn-Điền, là cha Trần-văn-Trực, thì bà nội nó có trích ra một phần ruộng 10 mẩu 5 sào ở tại làng Hòa-hưng mà cho cô nó, để lấy lúa mà ăn. Cô nó ở với văn Điền hơn 10 năm, mà không con, qua năm thứ 11, văn Điền chết, cô nó lo việc cấp táng một mình; còn tên Trực thì bỏ nhà mà đi vong phế, cha chết cũng không về. Cách hai năm sau, cô nó chết, tuy có danh Trực ở nhà, mà việc tống táng, đều nhờ nó cùng một tay bà nội nó. Bấy lâu danh Trực ỷ có văn khế cô nó để lại, chiếm cứ sở ruộng cô nó, không chịu trả. Nay cô nó mất đã hơn 4 năm, nó mới đi thưa tới làng tới tổng, có đòi trong thân tộc, mà xữ việc lún túng không xuôi lẽ nào. Bức lắm nó phải thưa quan, nhờ lượng quan thẩm xét, các lời.

Hỏi ra tiên cáo là Lý-văn-Tài, khai rằng: niên canh ất-vì 25 tuổi, quán ở làng Hòa-hưng, có một mình nó là cháu ruột Lý-thị-Thành; Trần-văn-Trực, chẳng có dính dấp nghĩa gì mà choán lấy ruộng cô nó, các chuyện khác y như trong đơn, các lời.

Hỏi ra danh Trực là bị cáo khai rằng niên canh quí-tị, 27 tuổi, là dân làng Phú-thọ, thuộc về một tổng: cha nó là Trần-văn-Điền, nguyên ở làng Phú-thọ, đã chết rồi, buổi trước cưới mẹ nó là Phạm-thị-Quế, nguyên ở làng Tân-sơn, đẻ ra nó, nuôi được 12 tuổi rồi thì mẹ nó chết. Cha nó chắp nối vợ sau, là Lý-thị-Thành, thì là mẹ ghẻ nó, nguyên ở làng Hòa-hưng, cưới hỏi đủ lễ. Khi mẹ ghẻ nó về với cha nó, thì bà ngoại ghẻ nó có cho nó một miếng ruộng hơn 10 mẩu, tọa lạc tại làng Hòa-hưng, có đem văn khế làm tên mẹ ghẻ nó mà giao cho cha nó phụng thủ. Khi nó lớn lên, thường thấy cha nó gia công bồi bổ sở ruộng, cho mướn cùng đóng thuế. Và cha nó làm bạn với mẹ ghẻ nó cũng đã lâu năm, bà ngoại ghẻ nó có ý cho đứt miếng ruộng, mới giao biệt văn khế, cải bộ cho mẹ ghẻ nó đứng. Nay cha nó chết, mẹ ghẻ nó cũng chết theo, đều để gia tài lại cho nó ăn mà phụng tự. Nó cũng phải bồi bổ miếng ruộng, cùng phải đóng thuế như khi cha nó còn sống vậy. Còn khi cha nó chết, nó mắc lở việc buôn bán, về không kịp, có làng xả biết, vốn chẳng phải là đi vong phế, các lời.

Hỏi ra thôn trưởng cùng hương thân làng Phú-thọ đều xưng rằng danh Điền, thị Thành, nguyên trước làm bạn với nhau, chừng được 10 năm, có cưới hỏi giữa làng. Lại khai ruộng ấy nguyên là ruộng riêng của Lý-thị-Thành. Mẹ thị Thành là thị Cẩm đã hơn 70 tuổi, ở làng Hòa-hưng, có giao một xấp văn khế, cải bộ cho Lý-thị-Thành, thường có đóng thuế cho làng chúng tôi. Còn danh Trực, là con ghẻ thị Thành, thì có ghe cá thường hay đi cá miền trên, một đôi tháng mới về nhà, các lời.

Hỏi ra thôn trưởng, hương thân làng Hòa-hưng khai rằng sở ruộng 10 mẩu ấy nguyên là ruộng Vỏ-thị-Cẩm, là đờn bà góa ở làng chúng tôi, mua của danh Thông, cũng là người trong làng, có lưu văn khế; sau thị Cẩm mới cho con, là Lý-thị-Thành, cùng cải bộ cho Lý-thị-Thành, có làng chúng tôi thị thiền, các lời.

Hỏi ra cai tổng Dương-hòa-thượng, là Nguyễn-văn-Trị trình rằng tra bộ làng Hòa-hưng cùng tra văn khế ruộng ấy quả là ruộng riêng Lý-thị-Thành. Lý-văn-Tài thấy cô ruột nó làm bạn với danh Điền, mà không con; nay cô nó chết mãn tang, ngày tháng 10 năm ngoái, nó có thưa mà đòi ruộng cô nó lại, cái lời.

Hỏi ra thân tộc bên danh Tài là Lý-văn-Đắc, Vỏ-văn-Soạn đều xưng rằng ruộng ấy vốn là ruộng của bà nội danh Tài, có văn khế làm chứng, danh Trực là con ghẻ giành lấy mà ăn đã lâu năm, bây giờ danh Tài tưởng rằng vật qui cố chủ, cũa chủ phải về cho chủ, các lời.

Hỏi ra thân tộc danh Trực, là Trần-văn-Hay, Trần-văn-Nay, đều khai rằng từ danh Điền làm bạn với thị Thành, thì thường thấy danh Điền lo bồi bổ sở ruộng cùng chịu thuế cho làng, nghe thị Cẩm giao đứt sở ruộng cho vợ chồng danh Điền. Còn danh Trực thì thường phụng dưỡng mẹ ghẻ cũng như mẹ ruột, cho đên khi mẹ ghẻ nó chết rồi, nó cũng giữ nhang khói cúng cấp theo cha nó, các lời,

Các lẽ trước nầy đã có xét tra.

Tra xấp văn khế ruộng kiện, nguyên trước là của Lê-văn-Thông, mua của Phạm-văn-Đạc, lưu văn khế bán đoạn mải cho Võ-thị-Cẩm, sau cải chánh cho Lý-thị-Thành, quả là ruộng riêng Lý-thị-Thành, nguyên chẳng phải là ruộng tổ phụ lưu lại, cũng chẳng phải là ruộng hương hỏa, tuyệt tự.

Tra ra Trần-văn-Điền đã chết rồi, buổi làm bạn với Lý-thị-Thành, là con gái cũng đã chết rồi, tuy là chắp nối, mà cũng có cưới hỏi, không phải là cầu hạp.

Vâng chiếu theo cửu tộc đồ, chỗ phân về tam phụ bát mẩu, Lý-thị-Thành quả là kế mẩu danh Trực, ấy Vi phụ chi thê, thì là Vi tử chi mẩu. Vã danh Điền chết cách ba năm, thị Thành lại chết theo, thì cũng là tùng nhứt, trọn nghĩa vợ chồng, sống thì đồng tịch đồng sàng, thác thì đồng quan đồng quách.

Vâng tra mặt luật bộ, chỗ nói về việc lập đích tử, trong điều lệ có dạy phải cứ Chiêu mục tương đương, danh Lý-văn-Tài tuy là cháu ruột thị Thành, kêu thị Thành bằng cô ruột, về bên họ nội chẻm chẻm, mà ngặt gái đã có chồng, phải tùng chồng. Lý-văn-Tài chẳng có lẽ thờ cô mà bỏ giượng.

Vâng nghĩ sở ruộng 10 mẩu ấy phải về Trần-văn-Trực làm chủ, lấy hoa lợi mà cúng kế mẩu cùng là cúng cha, làm hương hỏa cho Lý-thị-Thành.

Ti chức siển nghĩa các đều, chưa biết hiệp lẽ cùng không, kính đem các việc nguyên do, bẩm trình ngỏ nhờ thẩm đoán.

Vã thọ lý án nầy từ ngày 28 tháng 11 năm ngoái, đến ngày 12 tháng giêng năm nay thì hoàn kiết. Kể từ ngày thọ lý cho tới hoàn kiết là một tháng 14 ngày, trừ từ phong ấn cho tới khai ấn hết 17 ngày, còn lại có 27 ngày.

Tự-đức thập nhị niên, chánh ngoạt thập nhị nhựt.

Tân bình phủ ấn.

119 – ÁN GIÀNH RUỘNG HƯƠNG HỎA.

Tân-bình-phủ tri phủ, kiêm lý bình-dương-huyện, ti chức Nguyễn-hữu-Thường.

Bẩm,

Vì việc hương hỏa, vâng đưa lời thẩm nghĩ hỏi tra, ngỏ nhờ quan trên thẩm lượng:

Nguyên trong hạt Bình-dương, tổng Bình-trị-thượng, làng Bình-hòa, có tên Lê-văn-Cao đầu đơn kiện chú ruột nó là Lê-văn-Hậu giành một phần ruộng hương hỏa 20 mẩu, ti chức đòi cả tiên bị, chúng chứng mà hỏi.

Chiếu theo đơn Lê-văn-Cao trình rằng: ông nội nó là Lê-văn-Hưởng, sanh ra có hai người con trai, trưởng nam Lê-văn-Tình, là cha nó, thứ nam Lê-văn-Hậu, là chú nó. Nguyên ông nội nó có khai khẩn đặng 50 mẫu thảo điền, ở tại làng Phú-mỷ-tây, về tổng Dương-hòa-hạ. Cha nó chết sớm. Tới năm tân-tị, ông nội nó già yếu, mới làm tương phân sở ruộng, có thân tộc cùng làng tổng sở tại làm chứng, lấy 30 mẫu chia hai cho hai con, phần cha nó thì về nó nó lảnh, còn 20 mẫu thì ông nội nó để lại mà dưỡng già, sống thì ăn dùng, chết thì để lo việc cấp táng, cùng làm hương hỏa.

Tới năm quí-vì, tháng 4, mẹ nó là Trần-thị-Phước, quán ở làng Thanh-ba, thuộc về huyện Phước-lộc, đau nặng, nó phải đi chạy thuốc, chẳng dè ông nội nó cũng đau nặng, nó nghe tin liền trở về thì ông nội nó chết rồi, nó chịu tang, chôn cất ông nội nó rồi lại phải đi nuôi mẹ, qua tháng 7 mẹ nó chết, nó phải ở lại lâu ngày.

Từ ấy chú ruột nó là Lê-văn-Hậu giành lấy ruộng hương hỏa cho tới bây giờ là ba năm, mỗi năm cho mướn lúa 400 giạ. Nó có hỏi chú nó mà lảnh ruộng ấy lại, chú nó nói ông nội nó có trối để ruộng ấy cho chú nó ăn mà phụng tự; lại nói khi ông nó đau, nó không hầu hạ thuốc thang, bỏ mà đi xứ khác, bắt tội nó thất hiếu, không được ăn hương hỏa, ức lắm nó phải nhờ quan đoán dạy, các lời.

Hỏi ra Lê-văn-Cao, là tiên cáo, khai rằng niên canh 24 tuổi, quê cha ở làng Bình-hòa, về huyện Bình-dương; quê mẹ ở làng Thanh-ba, về huyện Phước-lộc, chính là con một Lê-văn-Tình, cũng là cháu đích tôn Lê-văn-Hưởng. Năm quí-vì tháng 4, mẹ nó đau nặng, nó phải đi nuôi, qua tháng 7 mẹ nó chết, nó phải ở lại mà chịu tang; song khi ông nội nó chết, là ngày tháng 6 nó có trở về mà chịu tang. Còn khi ông nội nó đau, nó mắc nuôi mẹ nó, phần thì ở xa không hay ông nó đau, nhưng vậy việc nuôi dưỡng ông nội nó, nó cậy có chú nó là Lê-văn-Hậu, không phải là bỏ, các lời.

Hỏi ra danh Hậu, là Lê-văn-Hậu, là bị cáo khai rằng niên canh 47 tuổi, quán ở làng Bình-hòa, thuộc huyện Bình-dương. Từ tháng 5, năm quí-vì, cha nó là danh Hưởng đau nặng, qua 20 tháng sáu năm ấy thì chết. Cháu nó là danh Cao bỏ đi ở hạt khác, cách xa tổ quán, cho đến khi cha nó chết rồi danh Cao mới trở về. Khi cha nó đau không thấy danh Cao nuôi dưỡng, cực khổ có một mình nó chịu, bỡii vậy khi cha nó gần chết, có trối để phần hương hỏa cho nó, vốn chẳng phải là tự nó giành ăn với cháu, các lời.

Hỏi ra chứng nhơn, Võ-văn-Hội, niên canh 45 tuổi, là thôn trưởng làng Phú-mỷ-tây; Nguyễn-văn-Hữu, niên canh 46 tuổi, là hương thân, Nguyễn-văn-Y, niên canh 44 tuổi, là hương hào, đều là dịch mục làng Phú-mỷ-tây, khai rằng năm tân-tị, ngày tháng 2, danh Hưởng là chủ ruộng trong làng, làm tờ tương phân, có mời làng chúng tôi làm chứng, chia một sở thảo điền 50 mẩu làm hai phần, một phần 30 mẩu chia cho hai con, là danh Tình, danh Hậu, mỗi người 15 mẩu; phần danh Tình đã chết rồi, thì giao cho con trai là danh Cao lảnh làm của riêng. Còn 20 mẩu thì để làm phần dưỡng lảo, danh Hưởng sống thì ăn, chết thì để lo cấp táng cùng làm hương hỏa cho danh Hưởng, đến khi danh Hưởng chết, sự thể làm sao, làng chúng tôi ở xa, không rõ, các lời.

Hỏi ra Lê-văn-Chất, là cai tổng Dương-hòa-hạ, niên canh 50 tuổi, quán ở làng Phước-thạnh; Phạm-đăng-Đạo, là phó tổng, niên canh 48 tuổi, quán ở làng Đức-hưng, đều trình rằng: hồi danh Hưởng còn sống làm tương phân sở ruộng Phú-mỷ-tây có mời chúng nó làm chứng. Lời khai cũng y như lời làng Phú-mỷ-tây, các lời.

Hỏi ra thân tộc, là Lê-hữu-Hưng, niên canh 62 tuổi, quán ở tổng An-thủy, làng Bình-thung, khai rằng: năm tân-tị tháng hai, không nhớ ngày, danh Hưởng làm tờ tương phân ruộng cho hai con, là danh Tình, danh Hậu, có nó dự việc. Phần danh Tình, là trưởng nam, chết sớm, thì về con là danh Cao, lảnh.

Đến khi danh Hưởng chết, cũng có nó tới, thấy danh Hậu, danh Cao, cả chú cháu đều lo việc cấp táng. Mỗi khi kị lạp cho danh Hưởng, danh Hậu cũng có mời thân tộc. Còn sự danh Cao đi ở làng Thanh-ba, bên huyện Phước-lộc mà nuôi mẹ nó có thất hiếu lẽ gì, trong thân tộc không rõ, các lời.

Các lẽ trước nầy đã có xét tra.

Tra giấy tương phân làm ra minh bạch, có làng tổng thị chứng.

Tra ra danh Cao, quả là con trưởng nam, cũng là cháu đích tôn Lê-văn-Hưởng. Ông nội đau không lo nuôi dưỡng, bỏ mà đi xa, đến đổi danh Hậu là chú nó giành lấy phần hương hỏa, là tại nó lỗi đạo thần hôn; nhưng luận thiên tính, mẫu tử chí thân, mẹ nó đau nặng phải chết, nó đi nuôi mẹ, cũng là hiếu, còn khi ông nội nó chết, nó liền trở về nhà chịu tang, thì chẳng phải là thất hiếu,

Tra ra danh Hậu, mình làm chú ruột danh Cao, trong lúc ông nó chết, mẹ nó ở xa cũng đau gần chết, nó về mà chôn ông rồi, thì đi nuôi mẹ, cũng là việc hiếu, lại sanh tâm giành phần hương hỏa cho tới ba năm, trong thân tộc không ai biết làm sao danh Cao phải mất hương hỏa; còn sự nói rằng có lời trối, thì là việc vô bằng, lẽ phải truy lúa mướn thượng niên mà trả lại.

Vâng chiếu hộ luật cùng điều lệ Minh-mạng, năm thứ 17, nội nhút khoản có nói rằng: phép lập tự phải cứ trưởng nam trước.

Vâng nghĩ Lê-văn-Hậu, là thứ nam, Lê-văn-Cao, là con Lê-văn-Tình, thì là con người trưởng nam cũng là đích tôn thừa trọng, phần ruộng 20 mẫu phải về Lê-văn-Cao ăn mà phụng tự cho ông nội nó. Còn sự Lê-văn-Hậu giành ăn hương hỏa ba năm, tra ra trong ba năm đều có làm việc giỗ quải, chẳng phải là ăn không, lúa mướn ba năm nghi hưu cho Lê-văn-Hậu, phải trả ruộng hương hỏa mà thôi.

Ti chức siển nghĩ các điều, chưa biết nhằm lẽ cùng chăng, kính bày các việc nguyên do, ngỏ nhờ quan trên thẩm định.

CHUNG.

Chú thích

[1] Tiền-kiên là ông Bành-tổ sách nói sống 800 tuổi, người hiền đời nhà Thương.

[2] Bác tước là cạo gọt, làm bức mà ăn.

[3]Giả thủ là mượn tay.

[4] Chánh chuyện trong sách nói là cá người ta cho thầy Tử-sản, tên đầu bếp làm thịt mà ăn tươi, rồi kiếm điều nói dối.

[5]Vản hồi là kéo lại.

[6]Tóm về một mối.

[7]Trần-giăng-trai có câu thơ rằng: đáng kiên hoàng hành, nghi thị táo; bất tri công tử, thật vô trường.

Thích nôm: chỉn thấy nghênh ngang ngờ là nóng; chẳng hay công tử thiệt không lòng.

[8] Thuở xưa nước Ngô lấn nước Trịnh, ông Thân-bao-tư qua viện binh nhà Tần, cứ đứng khóc tại đền nhà Tần bảy ngày đêm, nhà Tần mới chịu sai binh đi đánh giúp.

[9]Coi tập thứ nhứt, quân tử ngồi rường là ăn trộm.

[10]Tiền kêu là khổng phương huinh, kêu chơi là anh hai.

[11] Con người chết thì thành quỉ, Nhơn tử vi quỉ.

[12]Lữ-tiên thì là Lữ-đồng-Tân, cũng là một vì trong tám ông tiên, hay xuống cõi trần, cũng gọi là Lử-thuần-dương. HẾT