← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 9 CHIẾC VÉ TÀU CỦA GIOVANNI

“Đây là đoạn cuối cùng của khu Thiên Nga. Hãy nhìn xem, đài thiên văn Albireo [7] nổi tiếng đấy.”

Bên ngoài cửa sổ, cảnh tượng khoảng trung tâm dải Ngân Hà như đang bắn pháo hoa. Có bốn tòa nhà màu đen đứng sừng sững, một tòa có mái bằng phẳng, trên đó có hai quả cầu lớn bằng ngọc bích và hoàng ngọc trong suốt, tỏa sáng lấp lánh, chầm chậm chuyển động. Khi quả cầu hoàng ngọc di chuyển ra phía xa, quả cầu ngọc bích nhỏ hơn tiến vào, chẳng bao lâu, hai quả càu trùng vào nhau, tạo ra hình một thấu kính lồi hai mặt màu lục tuyệt đẹp. Rồi một lát sau, phần giữa của thấu kính lại phình ra, cho tới khi quả cầu ngọc bích dịch chuyên hoàn toàn tới phía trước quả cầu hoàng ngọc. Thế là trước mắt mọi người là một quả cầu màu lục được bao quanh bởi quầng sáng màu vàng. Hai quả cầu tiếp tục di chuyển để tái tạo hình thấu kính lồi trước đó theo hướng ngược lại, rồi lại rời nhau ra, quả cầu hoàng ngọc ở bên này, quả cầu ngọc bích ở bên kia, hệt như lúc ban đầu. Dòng sông Ngân vẫn vô thanh vô sắc uốn quanh, đài quan sát màu đen kia cũng như đang chìm trong giấc ngủ.

“Đó là dụng cụ để đo vận tốc dòng chảy đấy,” ông săn chim nói.

“Mời quý khách trình vé!” Cạnh hàng ghế ba người, từ lúc nào xuất hiện một người soát vé cao lớn, đầu đội mũ đỏ. Ông săn chim lặng lẽ móc trong túi ra một mẩu giấy. Người soát vé liếc qua rồi quay sang phía hai bạn, chìa tay ra hỏi Giovanni: “Vé của cháu đâu?”

“Ôi…” Giovanni đang lúng túng thì không biết bằng cách nào Campanella đã đàng hoàng chìa ra một chiếc vé màu xám lông chuột. Giovanni vội vội vàng vàng thò tay vào túi áo xem thử, biết đâu mình cũng có chăng. Quả nhiên tay cậu đụng phải một tờ giấy đang gấp lại. Chẳng biết làm gì hơn, cậu rút đại nó ra. Đó là một mẩu giấy màu xanh, cỡ bằng chiếc bưu thiếp được gập làm tư. Thấy người soát vé đang chờ, cậu bèn liều đưa tới, người soát vé đón lấy và cẩn thận đọc. Trong khi ngóng đợi, cậu bé không ngừng loay hoay nghịch mấy chiếc cúc áo rồi lại ngó nghiêng người canh ngọn hải đăng ở cuối toa. Giovanni tin rằng đây là một dạng giấy tờ tùy thân gì đó, cậu thấy hơi nôn nao trong lòng.

“Cháu lấy vé này ở tầng không gian thứ ba hả?” Người soát vé hỏi.

“Cháu cũng chẳng biết nữa,” Giovanni mỉm cười đáp, cậu cảm thấy nhẹ nhõm vì đã qua được cửa này rồi.

“Được rồi. Chúng ta sẽ đến Nam Thập Tự [8] trong ba giờ nữa.” Nói rồi ông ta trả Giovanni mẩu giấy rồi bỏ đi.

Campanella không thể đợi lâu hơn nữa để đọc nội dung tờ giấy. Cả Giovanni cũng vậy. Tiếc là bên trong đó chẳng có gì ngoài hình vẽ một bông hoa cỏ màu đen cùng hơn mười ký tự kỳ lạ, Giovanni nhìn chằm chằm vào đó và có cảm giác mình đang chìm nghỉm.

Ông săn chim không kìm được kinh ngạc bật nói: “Ái chà, món này quý giá đấy, tấm vé đi được tới cả Thiên đường. Có khi còn xa hơn nữa kia. Hãy giữ cẩn thận, tấm vé này có thể đưa cháu đi bất kì đâu trên tuyến đường sắt tới dải Ngân Hà thuộc chiều không gian thứ tư này. Hai cháu đúng là những người đặc biệt đấy.”

“Cháu vẫn chẳng hiểu gì cả.” Giovanni đỏ mặt trả lời, cậu gấp tấm vé lại và cho vào túi áo. Có chút xấu hổ nên cậu cùng Campanella đều cùng nhìn vơ vẩn ra ngoài cửa sổ, nhưng vẫn mơ hồ cảm thấy ông săn chim thỉnh thoảng lại ngó nhìn chúng như thể đôi bạn có gì đặc biệt lắm.

“Sắp đến ga Thiên Ưng [9] rồi đấy.” Campanella vừa nhìn ba cái biển hiệu tam giác nhỏ dọc bờ sông, và so sánh với tấm bản đồ.

Đột nhiên, Giovanni vô cớ cảm thấy tội nghiệp cho ông săn chim, ông có vẻ hài lòng với đám cò mình bắt được, những con cò trắng tinh đang bị nhét trong túi vải; rồi cái cách ông ngạc nhiên vì tấm vé và thường liếc trộm hay khen ngợi hai người bạn đồng hành. Rồi cả cái cách ông chia sẻ tất cả mọi thứ cho những người xa lạ, mời mọc họ những đồ ăn mà ông có. Nếu có thể khiến ông ta hạnh phúc, Giovanni sẵn sàng ở lại cả trăm năm bên bờ sông Ngân lấp lánh này để bắt chim cho ông. Cậu nghĩ thế, vừa khi muốn thổ lộ và hỏi rằng ông ấy thích điều gì thì… người săn chim đã biến mất. Chiếc túi vải trắng trên kệ cũng không còn. Cậu bé vội nhìn ra cửa sổ, hy vọng rằng sẽ thấy ông đang ngước nhìn lên trời chuẩn bị tóm lấy những cặp chân chim, nhưng ngoài trời chỉ mênh mông cát vàng với rập rờn làn sóng cỏ bạc nhấp nhô. Đôi vai rộng cùng chiếc mũ chóp nhọn của ông đã biệt tăm tích.

“Bác ấy đâu rồi nhỉ?” Campanella cũng lên tiếng vẻ mơ hô.

“Ừ, đâu rồi nhỉ? Không biết chúng mình còn được gặp lại bác ấy không? Tớ vừa định nói với bác điều này…”

“Tớ cũng vậy!”

“Lúc ban đầu tớ còn thấy bác ấy khá phiền nhiễu, giờ mới thấy áy náy quá.”

Đây cũng là lần đầu tiên Giovanni có cái cảm giác này và cậu cũng chưa bao giờ nói bằng giọng điệu ấy.

“Tớ ngửi thấy hương táo này. Hay là do tớ đang nghĩ đến nó mà tưởng tượng ra nhỉ?” Campanella tò mò nhìn quanh.

“Đúng hương táo thật. Tớ còn thấy cả mùi hoa tường vi nữa.”

Giovanni đưa mắt nhìn quanh, rồi cậu nghĩ rằng hương thơm ấy từ cửa sổ tỏa vào. Nhưng cậu không nghĩ đó là mùi hoa tường vi bởi bây giờ trời đã vào thu.

Bất chợt một bé trai mái tóc đen bóng cỡ sáu tuổi xuất hiện trước mặt. Em mặc chiếc áo khoác màu đỏ mở phanh hàng khuy, gương mặt đày vẻ sợ hãi, người run lẩy bẩy trên đôi chân trần. Đứng bên em bé là một thanh niên cao ráo, mặc bộ âu phục màu đen, cả hai cùng nắm tay nhau.

“Ồ, đây là đâu nhỉ? Đẹp quá đi mất!” Sau lưng anh thanh niên là một cô bé mắt nâu dễ thương mặc chiếc áo khoác màu đen, chừng mười hai tuổi. Cô vừa kéo tay anh thanh niên nói, vừa ngạc nhiên chỉ ra ngoài cửa sổ.

“Đây là Lancashire, ồ không, là bang Connecticut, cũng không phải, chúng ta đã lên tới trời rồi. Chúng ta sắp đến Thiên đường đấy. Xem kìa, đó là dấu hiệu của Thiên đường, không còn gì phải sợ nữa. Thiên Chúa đã gọi chúng ta tới.” Anh chàng mặc đồ đen ánh mắt rạng rời nhìn cô bé nói. Nhưng không hiểu sao trán anh liền nhăn lại. Anh miễn cưỡng mỉm cười và chỉ em bé đang ngồi cạnh Giovanni. Rồi anh lại dịu dàng ra hiệu cho cô bé ngồi cạnh xuống Campanella. Cô bé ngoan ngoãn nghe theo, hai tay xếp lại ngay ngắn.

“Em muốn đi cùng chị cả cơ.” Em bé vừa đặt mông xuống chiếc ghế đối diện với người canh ngọn hải đăng vừa nói. Anh thanh niên không nói gì, khuôn mặt anh gợi một nét bi thương, anh nhìn chăm chăm vào mái đầu bù xù ướt rượt của cậu bé. Bất chợt cô bé đưa tay ôm mặt òa khóc.

“Cha và chị Kikuyo bận nhiều việc lắm, nhưng sẽ về ngay ấy mà. Hơn nữa mẹ cũng chờ đợi em bao lâu rồi, hẳn lúc nào mẹ cũng nhớ về em, Tadashi yêu quý trong một ngày tuyết rơi thế này, đang cùng nắm tay bạn bè nô đùa trong sân hay quanh những bụi cỏ, hãy sớm về với mẹ nhé.”

“Vâng, nhưng ước gì em đừng lên cái tàu thủy kia.”

“Ừ, nhìn kìa, bầu trời mới đẹp làm sao. Cả dòng sông nữa. Còn nhớ mùa hè trước, chúng ta cùng nhau hát Twinkle, Twinkle, Little Star , lúc ấy bên ngoài cũng một màu trắng xóa hệt như bây giờ, nhìn xem, mới đẹp đẽ làm sao, mới lấp lánh làm sao?”

Cô bé ngưng khóc, lấy khăn tay lau nước mắt và nhìn ra ngoài. Anh thanh niên lại dịu dàng dỗ dành:

“Chẳng có gì đáng buồn nữa đâu. Chúng ta đang trên một con tàu lữ hành, và rất mau thôi sẽ đến với Chúa. Ở đó sẽ ngập tràn ánh sáng và hương thơm, cũng những con người ăn ở hiền lành. Còn những người đã lên được chiếc thuyền kia, anh tin rằng tất cả đều sẽ an toàn, họ cũng sẽ trở về với mái nhà thân yêu cùng cha mẹ đang chờ mong. Vui lên nào, chúng ta cùng hát một bài nhé.”

Anh lại lấy tay xoa mái đầu ướt đẫm của cậu bé mà an ủi, khuôn mặt anh cũng tươi tỉnh dần lên.

“Các cháu từ đâu đến vậy? Đã xảy ra chuyện gì à?” Người canh ngọn hải đăng chứng kiến cảnh ấy bèn hỏi.

Anh thanh niên khẽ đáp: “Con tàu bị va vào tảng băng và chìm rồi. Cha của hai đứa bé bận công việc gấp nên đã về nhà hai tháng trước, còn bọn nhỏ về sau. Cháu đang học đại học và làm gia sư cho hai đứa. Độ mười hai hôm trước, tính từ ngày hôm qua hoặc ngày hôm nay gì đó, tàu va phải băng, nó từ từ nghiêng rồi chìm hẳn. Tối ấy trăng mờ, sương mù lại dày đặc. Một nửa số thuyền cứu sinh ở mạn tàu bên trái đều chìm theo. Nếu tất cả cùng lên thuyền thì ắt cùng ôm nhau mà chết. Cháu chỉ biết tuyệt vọng và hò hét van xin mọi người hãy nhường bọn trẻ lên thuyền trước. Những người xung quanh cũng mở đường và cầu nguyện cho chúng. Nhưng khi ấy còn có rất nhiều trẻ con cùng cha mẹ chúng ở phía trước chúng cháu. Cháu cũng không nỡ xô đẩy bọn họ. Mặc dù cứu mạng hai đứa bé là trách nhiệm của cháu, nhẽ ra phải giành giật mở đường, nhưng nghĩ lại thì giúp bọn nhỏ kiểu ấy chẳng bằng để tất cả cùng về với Chúa thì hạnh phúc hơn. Thế rồi cháu lại quyết định sẽ bằng mọi cách cứu bọn trẻ, còn tội lỗi chống lại ý Chúa, cháu xin chịu một mình.

Rốt cuộc nhìn quanh, cháu nhận ra mình chẳng làm gì được nữa. Cháu thấy khắp các thuyền cứu sinh là những bà mẹ nuốt nước mắt vào lòng mà hôn vĩnh biệt con mình, những ông bố đứng lặng yên bi thương, khung cảnh khiến người ta đứt từng khúc ruột. Con tàu chìm xuống ngày càng mau. Cháu đã xác định tinh thần, quyết định sẽ ôm chặt lấy hai đứa nhỏ, cố gắng nổi trên mặt nước càng lâu càng tốt, và chúng cháu cùng chờ đợi con tàu chìm hẳn. Ai đó quăng cho cháu cái phao cứu hộ, nhưng nó trượt khỏi tay cháu và trôi đi mất. Cháu bèn gắng hết sức gỡ một miếng ván của con tàu để cả ba cùng bám vào đó. Đây đó vọng tới tiếng ai hát bài Thánh ca Càng gần Chúa hơn , ngay lập tức, mọi người cùng hòa theo với đủ loại ngôn ngữ. Rồi một tiếng nổ lớn vang lên, tất cả đều rơi xuống nước, cháu nghĩ tất cả sẽ lọt vào một dòng xoáy nên cố gắng ôm chặt lấy hai đứa bé, thế rồi chẳng biết thế nào nữa. Mẹ của hai đứa trẻ đã mất cách đây hai năm. Chiếc thuyền cứu hộ hẳn đã an toàn bởi những thủy thủ lành nghề đã chèo ra thật xa khi con tàu chìm.”

Đó đây vẳng lại những tiếng cầu nguyện nho nhỏ, Giovanni và Campanella hồi tưởng lại chuyện đã quên lúc trước, đôi mắt ưng ửng đỏ.

“Ồ, nơi biển lớn ấy có phải Thái Bình Dương không? Tảng băng trôi là từ Bắc Cực xuống. Không biết những người trên con thuyền bé tí ấy, phải chống chọi ra sao với gió lớn và làn nước băng giá cùng cái lạnh thấu xương. Họ thật đáng thương, mình cũng cầu nguyện cho họ tai qua nạn khỏi.” Giovanni cúi đầu trầm ngâm suy nghĩ.

“Bác cũng không biết hạnh phúc là gì nữa,” người canh ngọn hải đăng an ủi. “Chỉ biết rằng dù việc khó khăn đến đâu, nếu chúng ta cứ kiên trì làm theo đúng lẽ phải, thì đó chính là con đường dẫn tới hạnh phúc.”

“Vâng, nhưng khổ tận thì mới cam lai được ạ. Đó cũng là ý Chúa.” Anh thanh niên cũng cầu nguyện như vậy.

Hai chị em nhà kia bấy giờ quá mỏi mệt nên tựa vào lưng ghế và ngủ say sưa. Không biết từ lúc nào, đôi chân trần của chúng đã mang thêm đôi giày mềm màu trắng.

Con tàu xình xịch chạy dọc bờ sông lấp lánh ánh đèn sáng. Nhìn qua cửa sổ, phong cảnh lần lượt trôi qua tựa như trong một bộ phim. Có tới hàng trăm, hàng nghìn biển hiệu tam giác lớn nhỏ, những biển hiệu lớn còn thấy được rõ cả ngọn cờ quan trắc có thêu chấm đỏ cắm ở trên. Vọng nhìn về phía xa xa của cánh đồng, chúng dày đặc như sương khói. Đâu đó vượt ngoài đám sương khói, lại thấp thoáng vài ngọn lửa phất phơ giữa màn trời xanh thẳm, những làn gió khiến chúng lay động thiên hình vạn trạng. Không gian đượm mùi hương hoa hồng.

“Cháu thấy thế nào? Hẳn là lần đầu tiên cháu thấy loại táo này phải không?” Người canh ngọn hải đăng hai tay ôm đầy những quả táo màu vàng và đỏ khổng lồ, hai chân phía dưới khép chặt sợ lỡ tay làm rớt nó xuống.

“Tuyệt! Đâu ra thế ạ? Ở đây cũng trồng được loại táo đẹp thế này ư?” Anh thanh niên ngạc nhiên nheo mắt nghiêng đầu, chăm chú nhìn quả táo, quên cả trời đất.

“Này, thử một quả xem. cẩn thận nhé.”

Anh thanh niên đón lấy và đưa mắt liếc nhìn hai đứa Giovanni.

“Cả hai nhóc nữa, thử một quả đi.”

Giovanni thoáng phản ứng, cậu không muốn bị người ta gọi là nhóc, nhưng Campanella đã nhanh nhảu cướp lời: “Cảm ơn anh.”

Anh chàng liền chìa cho mỗi cậu một quả, Giovanni đành phải đứng lên nhận và nói lời cảm ơn. Người canh ngọn hải đăng lại cầm hai quả táo cuối cùng nhẹ nhàng đặt vào bên đầu gối của cô bé đang ngủ say.

“Cảm ơn bác rất nhiều. Bác lấy những trái táo tuyệt vời này ở đâu thế ạ?” Anh thanh niên chăm chú nhìn quả táo trên tay và nói.

“Tất nhiên táo được người ta trồng quanh đây, nhưng đa phần là để chúng mọc tự do. Trồng trọt ở đây cũng không mất công lắm đâu. Chỉ cần gieo hạt xuống là cây cối cứ thế lớn lên. Hạt gạo ở đây cũng không giống như ở Thái Bình Dương, chúng không có vỏ, to gấp mười lần và thơm hơn nhiều. Nhưng những nơi các cháu đã qua thì không có trồng trọt gì đâu. Mà hoa quả hay bánh kẹo đều chẳng có phần nào vô dụng cả, người ta đều thưởng thức tất tật từ vỏ tới ruột.”

Đúng lúc ấy, em bé chợt mở mắt ra nói: “Ôi, em vừa nằm mơ thấy mẹ. Mẹ em đang đứng cạnh một cái tủ hay giá sách rất đẹp, mỉm cười và cầm tay em. Em vừa gọi, đưa mẹ một quả táo. Thế là choàng tỉnh dậy mất. “Ôi, mình vẫn đang ở trên tàu sao?”

“Táo của em đây, của bác ấy cho đó.” Anh thanh niên nói.

“Cháu cảm ơn bác ạ. Chị Kaoru vẫn đang ngủ, để cháu đánh thức. Chị ơi, dậy, dậy, táo của chị này, nhìn xem.”

Cô chị choàng mở mắt, ánh sáng chiếu vào khiến cô bé phải đưa tay lên dụi mấy lần, cô nhìn thấy quả táo. Cậu em đang chén quả táo như ăn một cái bánh. Vỏ táo được gọt khéo léo thành hình xoáy ốc, sắp rơi xuống sàn tàu thì hóa thành tro tàn rồi tan đi như một làn khói.

Hai người bạn của chúng ta thì cẩn thận cất táo vào trong túi.

Phía bên kia hạ nguồn dòng sông là một cánh rừng xanh ngút ngàn, rất nhiều trái cây đỏ rực lúc lỉu trên cành. Chính giữa khu rừng là một đài hiệu rất cao hình tam giác. Theo làn gió, từ trong rừng văng vẳng tiếng nhạc du dương như tiếng mộc cầm hòa tiếng đàn lyre khiến người ta say mê.

Anh thanh niên bất giác rùng mình. Lắng tai im nghe, âm thanh như trải ra trước mắt một thảm cỏ bừng sáng ánh vàng hay lục nhạt, lại cũng tựa như màn sương trắng muốt sắp lướt qua ánh mặt trời.

“Nhìn kìa, một con quạ.” Cô bé Kaoru đang ngồi bên cạnh Campanella chợt la lên.

“Không phải quạ đâu, chim khách đấy.” Campanella đáp với vẻ nghiêm nghị khiến Giovanni bật cười, còn cô bé xấu hổ cúi gằm mặt xuống. Quả nhiên bên bờ sông nhàn nhạt sắc xanh, hằng hà sa số những con chim màu đen sà xuống, bộ lông chúng óng ánh phản chiếu ánh sáng của dòng sông.

“Đúng là chim khách rồi. Sau đầu chúng có túm lông dựng lên đấy.” Anh thanh niên cất tiếng phân xử.

Đài hiệu tam giác ban nãy còn tít trong rừng sâu, giờ đã hiện ra trước mắt. Lúc này, phía cuối toa tàu lại vang lên bài Thánh ca Càng gần Chúa hơn . Rõ ràng là nhiều người cùng đồng ca. Anh thanh niên bỗng nhiên tái mặt, đứng lên định tiến về phía có tiếng hát, nhưng nghĩ sao lại ngồi xuống. Kaoru úp mặt vào chiếc khăn tay. Giovanni cũng thấy cay cay sống mũi. Dần dần tiếng hát cất cao thêm. Giovanni và Campanella cùng hòa giọng.

Chẳng mấy chốc, cánh rừng ô liu xanh bạt ngàn đã lùi lại đằng sau con tàu cùng những ánh chớp lóe sáng bên dòng sông Ngân. Âm điệu du dương phát ra từ hướng đó cũng bị tiếng ồn ào của động cơ tàu hỏa át mất.

“Nhìn xem, có con công kìa!”

“Ồ, một đàn công.” Kaoru đáp.

Giovanni nhìn thấy từ phía đằng xa, những con công chỉ bé bằng cái khuy áo, ánh sáng xanh biếc chớp chớp phản chiếu trên đôi cánh chúng lúc xòe ra cụp vào.

“Đúng đấy, ban nãy đã nghe thấy tiếng công hót rồi.” Campanella nói với Kaoru.

“Đúng rồi. Chắc phải ba mươi con đấy. Âm thanh như tiếng đàn lyre lúc nãy là tiếng hót của chim công.” Cô gái đáp.

Giovanni bất giác lại thấy buồn rầu. Cậu quay sang nhăn mặt với bạn mình và nói: “Campanella, chúng mình cùng xuống chơi đùa đi!”

Con sông chỗ này chia đôi dòng. Giữa hòn đảo tối đen có dựng một cái đài cao, trên đài có một người đàn ông mặc bộ quần áo rộng thùng thình, đội chiếc mũ màu đỏ. Ông ta ngẩng mặt lên trời, hai tay cầm hai lá cờ xanh và đỏ đang ra sức làm dấu hiệu. Giovanni nhìn thấy thoạt tiên ông phất cây cờ đỏ, rồi đột nhiên hạ xuống giấu ra sau lưng, lại giơ cây cờ xanh lên thật cao, vẫy vẫy như nhạc trưởng chỉ huy dàn nhạc. Thế là trong không trung có tiếng lộp bộp như mưa rơi, và hàng loạt những vật đen thẫm như tên bay đạn vãi hướng về phía bên kia sông. Giovanni bất giác chồm hẳn nửa người ra cửa sổ để xem. Hàng vạn con chim nhỏ đang bay lượn và kêu vang dưới vòm trời tím thẫm đẹp đẽ.

“Chim đang bay đấy!” Giovanni hét lên bên cửa sổ.

“Ái chà!” Campanella cũng nhìn lên bầu trời. Đúng lúc ấy người đàn ông trong bộ đồ rộng thùng thình đột nhiên giơ cây cờ đỏ phất như điên. Đàn chim liền ngừng lại không bay tới nữa. Thế rồi lại có tiếng ầm ầm vang lên từ phía hạ nguồn con sông, ông ta liền tay phất lá cờ xanh, miệng hô to dõng dạc:

“Bay nào, hỡi đàn chim di trú!”

Thế là đồng thời, ngàn vạn cánh chim cùng lướt qua ngang trời.

Kaoru cũng thò đầu ra khỏi cửa sổ như hai cậu bạn kia, cô ngước nhìn bầu trời, đôi tay vỗ vỗ vào hai bên má hồng hào xinh xắn.

“Ôi, đàn chim mới nhiều làm sao! Bầu trời cũng đẹp quá.”

Cô bé nói với Giovanni, nhưng cậu đang mải suy nghĩ nên lờ đi. Cô bé khẽ thở dài và trở về ghế ngồi. Campanella cảm thấy tội nghiệp, cậu cũng rụt đầu vào và mở bản đồ ra xem.

“Có phải ông ấy chỉ đường cho đàn chim không?” Cô bé khẽ hỏi Campanella.

“Ông ấy đang làm dấu cho lũ chim di trú đó mà. Có lẽ đây là một trạm báo hiệu.” Campanella trả lời nhưng cậu cũng không dám chắc gì hết.

Toa tàu chợt trở nên yên lặng. Giovanni muốn thụt đầu vào, nhưng nghĩ tới việc ánh sáng bên trong chiếu lên mặt thật khó chịu, cậu đành để nguyên vậy và bắt đầu huýt sáo. Cậu nghĩ thầm: “Sao mình lại rầu rĩ thế nhỉ? Nhẽ ra phải sôi nổi và phóng khoáng hơn chứ. Xa xa phía bên kia sông, mấy ánh lửa xanh le lói giữa màn sương mờ mịt, thật tĩnh lặng và lạnh giá. Nhưng mình lại cảm thấy yên bình hơn khi ngắm nhìn quang cảnh ấy.”

Giovanni lấy hai tay ôm lấy cái đầu đang đau nhức của mình và tiếp tục trăn trở: “Có ai sẵn sàng đồng hành với mình đi bất cứ nơi đâu không nhỉ? Campanella đang say sưa trò chuyện cùng cô bé kia, mình buồn quá đi mất.” Đôi mắt Giovanni rưng rưng tràn lệ, dòng sông Ngân lúc này đã trở nên xa xăm, chỉ còn là một dải trăng trắng mờ mờ.

Đoàn tàu đã xa dần dòng sông, giờ đang chạy dọc vách núi. Càng đi về phía hạ du, bờ sông bên kia và vách núi âm u càng dâng cao lên. Đột nhiên, một cây ngô khổng lồ xuất hiện, lá ngô rung rinh, để lộ ra bên dưới là những bắp ngô lớn xanh mướt với túm râu đỏ và những hạt ngô đẹp như ngọc trai. Những cây ngô mọc thành từng hàng thẳng tắp phủ kín khoảng đất giữa đường ray và vách núi. Giovanni rụt đầu lại, nhìn khung cảnh bên ngoài cửa sổ, những vạt ngô khổng lồ bát ngát vươn tới tận chân trời, lá ngô xào xạc trong gió, những hạt sương còn đọng bên trên xanh xanh đỏ đỏ lấp lánh tựa những hạt kim cương rực rỡ dưới ánh mặt trời.

Campanella nói: “Toàn ngô là ngô kìa.” Nhưng Giovanni không dứt được khỏi dòng suy tư, cậu chỉ ậm ừ với bạn: “Ừ, chắc thế.”

Đoàn tàu chuyển động chậm dần. Bên ngoài đã thấp thoáng ánh sáng của vài biển hiệu và những ngọn đèn, tàu tiến vào một ga xép.

Chiếc đồng hồ màu xanh hiện ra trước cửa sổ đang chỉ đúng hai giờ. Bốn bề thật im ắng, không nghe thấy cả tiếng gió, con tàu cũng đã dừng hẳn lại. Chỉ còn tiếng tích tắc, tích tắc của chiếc đồng hồ vọng lại.

Rồi một giai điệu nhẹ nhàng vang lên từ nơi xa xăm.

“Bản giao hưởng Tân Thế giới.” Cô chị Kaoru thì thầm như nói một mình. Anh thanh niên áo đen cùng mọi người trên tàu đều đắm chìm trong suy tư của riêng mình.

“Trong thời khắc tịch mịch này, sao mình vẫn không vui lên được nhỉ. Mình quả thật cảm thấy rất cô đơn. Campanella cũng thật là tệ, cậu ấy đi cùng với mình vậy mà chỉ say sưa nói chuyện với cô bé kia. Buồn quá.” Giovanni úp nửa khuôn mặt vào đôi bàn tay, dõi mắt nhìn ra ngoài cửa sổ.

Một tiếng còi tuýt lên lanh lảnh, con tàu từ từ chuyển bánh. Campanella nhàm chán huýt sáo theo bài Lãng du Ngân Hà.

“Ôi chà, đây quả là một cao nguyên hoang vắng.” Phía sau vọng tới giọng nói còn pha chút ngái ngủ của một ai đó nghe chừng cũng đã lớn tuổi. “Muốn trồng ngô ở đây, phải dùng cọc đóng sâu xuống hai thước đất mà gieo hạt mới được.”

“Thế cơ ạ? Chỗ này có vẻ cách rất xa dòng sông ạ.”

“Ừ, cũng phải hai ngàn đến sáu ngàn thước đấy. Đúng thật là một hẻm núi hiểm trở.”

“Phải rồi, đây chẳng phải là cao nguyên Colorado sao?” Giovanni nghĩ thầm.

Campanella vẫn huýt sáo ảo não, còn Kaoru cũng nhìn qua ô cửa sổ giống Giovanni, đôi má cô hồng mịn như trái táo làm bằng lụa.

Đột nhiên cánh đồng biến mất để trơ lại thảo nguyên u ám bát ngát. Giai điệu bản giao hưởng Tân thế giới từ từ rõ hơn vọng từ nơi cuối trời. Thế rồi giữa thảo nguyên u ám, bất chợt xuất hiện một người đàn ông da đỏ, trên đầu có gắn cọng lông chim trắng, tay và ngực đeo đầy những chuỗi hạt bằng đá, mang một cây cung nhỏ với một mũi tên nhọn, chạy nhanh như chớp đuổi theo đoàn tàu.

“Ồ, người da đỏ, người da đỏ đấy, nhìn kìa.” Anh thanh niên mở choàng mắt. Giovanni và Campanella cũng đứng bật dậy.

“Ông ấy chạy kìa, ồ, ông ấy chạy đuổi theo chúng mình thì phải.”

“Không phải đâu, ông ta không đuổi theo con tàu. Hẳn là ông ấy đang đi săn hay nhảy múa gì đó.” Anh thanh niên đút tay vào túi áo và nói, như đã quên bẵng mình đang ở đâu.

Có vẻ đúng là người da đỏ ấy đang nhảy múa thật, cái cách ông bước chân thật kỳ dị, rõ ràng là ông ấy chưa chạy hết sức mình. Thế rồi chiếc lông chim trắng trên đầu chợt đổ chúi về trước, ông lập tức ngừng lại và nhanh nhẹn giương cung hướng lên trời. Từ trên cao một con hạc loạng choạng rớt xuống, người da đỏ chạy đến chộp lấy thật chặt bằng cả hai tay, ông nở nụ cười thật rạng rỡ. Bóng người đàn ông đang giữ con hạc cũng dần nhỏ lại và mất hút. Những trụ sứ cách điện trên đỉnh các cây cột loang loáng sáng, những vạt ngô vừa xuất hiện lại. Nhìn qua cửa sổ, ai nấy đều thấy con tàu đang chạy trên một vách đá cao, thăm thẳm bên dưới là dòng sông rộng lớn lấp lánh sáng.

“Đoạn này bắt đầu đổ dốc đấy. Thẳng một lèo xuống đến ngang mặt sông, không dễ đi đâu. Với độ dốc cao thế này thì không cách nào để tàu đổi hướng được. Nhìn xem, nó lại tăng tốc rồi kìa.” Vẫn là ông già lúc trước nói.

Xình xịch, xình xịch, con tàu vẫn lao dốc băng băng. Khi đi sát vách núi, dòng sông lấp loáng lại hiện ra trước mắt các hành khách. Giovanni chợt thấy vui vẻ hơn. Đoàn tàu lại lướt qua một túp lều tranh nho nhỏ, Giovanni ngạc nhiên kêu lớn khi thấy một em bé cô độc đang đứng đó nhìn theo đoàn tàu.

Xình xịch, xình xịch, đoàn tàu vẫn băng băng tiến tới. Hành khách trên tàu đều ngả người dán chặt vào lưng ghế. Giovanni không kìm được quay sang mỉm cười cùng Campanella. Dòng sông Ngân dọc theo tuyến đường cuồn cuộn trôi mau, thi thoảng vẫn chớp lên từng làn sáng. Bên bờ sông, những bông cẩm chướng nở đỏ rực. Cuối cùng, đoàn tàu cũng từ từ chạy chậm lại.

Bên sông cắm một cây cờ, trên có hình ngôi sao năm cánh và cây cuốc chim.

“Cờ gì đấy nhỉ?” Giovanni cuối cùng cũng chịu lên tiếng.

“Tớ cũng chẳng biết nữa. Không thấy nó trong bản đồ. Còn một chiếc thuyền sắt nữa kìa.”

“Ừ nhỉ!”

“Có lẽ họ đang xây cầu chăng?” Kaoru hỏi.

“À, đó là cờ của công binh. Tớ nghĩ là họ đang thi công ghép nối cây cầu. Nhưng sao không thấy người lính nào nhỉ?”

Đột nhiên, phía hạ lưu xa xa, một cột nước bắn vọt lên không trung, kèm theo một tiếng nổ lớn.

“Nổ rồi, nổ rồi!” Campanella nhổm dậy la lên.

Cột nước khổng lồ đã tan biến, vô vàn cá hồi với cá chày ngửa cái bụng trắng hếu, vừa bị hất lên không trung, lượn một vòng rồi rơi tòm tõm xuống nước. Thấy vậy, Giovanni như cũng muốn nhảy cẫng lên.

“Đội công binh trên trời, thấy không, tôm cá bị ném hết lên trời, chưa bao giờ tớ có một chuyến du hành thú vị đến thế. Tuyệt thật!”

“Nếu nhìn gần thì những con cá ấy cũng to ra phết ấy chứ? Sông này nhiều cá quá nhỉ?”

“Có cả cá nhỏ nữa chứ?” Kaoru cũng nói chen vào.

“Có chứ, đã có cá lớn thì tất nhiên sẽ có cá nhỏ. Nhưng vì quá xa nên không nhìn thấy chúng thôi.” Lúc này, tâm trạng Giovanni đã trở nên vui vẻ, cậu hăng hái trả lời cô bé.

“Nhìn kìa, đó hẳn là cung điện của Song Tử tinh.” Cậu bé con đột nhiên nhìn ra cửa sổ và la lớn.

Phía trên ngọn đồi thâm thấp trước mặt, có hai cung điện im lìm đứng cạnh nhau trông như làm từ thủy tinh.

“Cung điện của Song Tử tinh ư?”

“Vâng, trước kia mẹ hay kể cho em nghe chuyện về hai cung điện thủy tinh nằm cạnh nhau. Đúng là nó rồi.”

“Kể cho anh nghe đi, Song Tử tinh là sao?”

“Chuyện là thế này, hai ngôi sao sinh đôi đi chơi trên thảo nguyên rồi nổ ra một trận tranh đấu với con quạ…”

“Không phải thế… Mẹ kể là chuyện này xảy ra ở bãi sông Ngân cơ…”

“Rồi sao chổi xèo xèo xèo xèo bay tới…”

“Không đúng Tadashi à! Đấy là câu chuyện khác…”

“Thế hai ngôi sao ở đó thổi sáo đúng không?”

“Chúng ở dưới biển cơ mà.”

“Không, chúng từ biển ngoi lên.”

“À ừ, em nhớ rồi, để em kể.”

Bãi sông đột nhiên trở nên đỏ rực. Những con sóng trên sông Ngân, những hàng dương liễu cùng lớp lớp cây cối đều ánh lên màu đỏ, đối lập hẳn với nền trời đen kịt. Một đống lửa đỏ hồng ngùn ngụt cháy bên kia sông, khói đen cuồn cuộn vút cao như muốn thiêu đốt cả thiên không. Ngọn lửa ấy còn đỏ rực hơn cả hồng ngọc, đẹp mê ly hơn cả ngọn lửa Lithium.

“Lửa gì thế nhỉ? Sao ánh lửa có thể đỏ rực đến vậy?” Giovanni hỏi.

“Hẳn là Ngọn lửa Bọ cạp.” Campannella tra bản đồ rồi đáp.

“Ngọn lửa Bọ cạp à, thế thì em biết đấy.”

“Đó là cái gì thế?” Giovanni hỏi.

“Lũ Bọ cạp bị thiêu và đến giờ vẫn còn đang cháy, cha em kể vậy đó.”

“Bọ cạp là loài sâu bọ à?”

“Vâng, nhưng là loài có ích ạ.”

“Bậy nào, có ích cái khỉ gì, tớ nhìn thấy tiêu bản của nó ở phòng thí nghiệm, được ngâm trong cồn. Thầy giáo bảo cái đuôi của nó chứa nọc độc, chết người đấy.”

“Vâng, nhưng đúng là loài có ích mà, cha em bảo thế. Ngày xưa ở thảo nguyên Badrah có một con bọ cạp chuyên môn ăn tất cả các loại sâu bọ. Rồi một hôm, nó bị con chồn phát hiện và đuổi theo định bắt ăn. Trong lúc sắp nguy kịch, Bọ cạp bị ngã xuống giếng không cách nào lên được và chuẩn bị chìm. Thế là Bọ cạp ta bắt đầu cầu nguyện: ‘Không biết con đã ăn thịt bao nhiêu sinh vật khác mà bây giờ phải chịu quả báo, bị con chồn truy đuổi chật vật thế này. Con phải làm gì đây? Nên chăng hiến mình cho chồn kia, để nó được một ngày no ấm? Xin Chúa hãy soi thấu cõi lòng con. Thay vì bỏ phí tấm thân này, hãy để nó đem lại hạnh phúc cho một sinh vật khác.’ Thế là đột nhiên, Bọ cạp thấy thân mình rực cháy đỏ bừng bừng, ánh sáng rọi khắp bốn phương u ám. Cha em bảo đến giờ ngọn lửa này vẫn còn cháy. Quả nhiên là vậy.”

“Đúng đấy. Biển hiệu tam giác cũng xếp thành hình Bọ cạp kìa.”

Giovanni cũng thấy rõ ràng biển hiệu phía trước xếp giống mớ chân Bọ cạp, năm biển hiệu sau xếp thành cái đuôi có kim móc. Và ngọn lửa Bọ cạp kia cứ lặng lẽ cháy mãi không ngừng nghỉ.

Đoàn tàu dần dần bỏ ngọn lửa lại phía sau, lúc này mọi người đều nghe rõ giai điệu rộn rã, hương thơm của ngàn hoa, những tiếng huýt gió và giọng người cười nói ồn ào. Ai nấy có cảm giác hình như có lễ hội chi đó đang tổ chức ở thành thị phía trước.

“Sao Nhân Mã, hãy nhỏ xuống những giọt sương.” Cậu bé con đang gà gật bên cạnh Giovanni vụt tỉnh giấc, nhìn qua cửa sổ và la lên. Bên ngoài có vài thân cây xanh biếc, được treo đèn kết hoa hệt như cây thông Noel bởi vô số những ngọn đèn nhỏ, nhìn qua giống y như đàn đom đóm đang đậu chi chít trên cành.

“Đúng rồi, tối nay là lễ hội Nhân Mã mà.”

“Ồ, đây là làng Nhân Mã đấy!” Campanella vội nói.

“Em ném bóng không bao giờ trượt.” Cậu bé tự hào lên tiếng.

“Sắp tới Nam Thập Tự rồi. Chuẩn bị xuống tàu thôi.” Anh thanh niên ngồi đối diện nhắc bọn trẻ.

“Em muốn ở trên tàu thêm một lúc nữa.” Cậu bé nói. Cô chị ngồi cạnh Campanella sốt ruột đứng dậy chuẩn bị, nhưng có vẻ cô cũng không muốn sớm chia tay với nhóm Giovanni.

“Chúng ta phải xuống thôi.” Anh thanh niên bặm môi nhìn cậu bé nói.

“Ôi đừng, em muốn đi thêm một chút nữa.”

Giovanni không kiềm chế hơn được, cậu nói: “Đi cùng bọn tớ nhé. Vé của bọn tớ có thể đi bất cứ nơi đâu.”

“Bọn tớ phải xuống đây thôi. Chỗ này có lối lên thiên đường,” Kaoru buồn bã nói.

“Cậu không lên Thiên đường cũng được mà. Thầy giáo của tớ dạy rằng chúng ta có thể tạo ra thiên đường nơi hạ giới.”

“Nhưng mẹ tớ đã ở đấy rồi, tuân theo ý Chúa.”

“Chúa rởm hay sao mà lại như vậy.”

“Có Chúa của cậu rởm ấy.”

“Không đời nào.”

“Thế Chúa của các em thì thế nào?” Anh thanh niên mỉm cười xen vào.

“Em không biết nữa. Nhưng Chúa thật thì chỉ có một mà thôi.”

“Tất nhiên rồi, chỉ có một Chúa thật thôi.”

“Không, ý em là chỉ có một vị Chúa là thật, ngoài ra không còn Chúa nào khác nữa.”

“Không phải vậy sao? Anh cầu mong sau này sẽ được gặp lại các em ở trước mặt vị Chúa chân thật này.” Anh thanh niên thành kính chắp tay lại. Cô bé cũng làm hệt theo. Một nỗi u hoài bao phủ lên gương mặt nhợt nhạt của họ. Giovanni cơ hồ bật khóc.

“Xong cả chưa? Đến Nam Thập Tự rồi đấy.”

Lúc này, từ phía xa diệu vợi của Ngân Hà, một cây thập tự chói ngời với những màu xanh, màu cam và nhiều màu sặc sỡ khác xuất hiện. Trông nó tựa như một gốc đại thụ sừng sững mọc lên từ lòng sông, tỏa ra quanh nó một vầng hào quang màu xanh nhàn nhạt.

Mọi người trên tàu đều rục rịch chuẩn bị. Họ đứng thẳng dậy và bắt đầu chắp tay cầu nguyện như lúc ở chỗ Bắc Thập Tự. Đây đó có thể nghe thấy tiếng hân hoan của bầy trẻ như mẹ đi chợ về, hay những tiếng thở dài xuýt xoa. Dần dần, cây thập tự đã xuất hiện bên cửa sổ toa tàu, và mọi người đã nhìn rõ vầng mây quanh nó có màu ruột táo uốn lượn nhẹ nhàng giữa thinh không.

“Hallelujah! Hallelujah!”

Tiếng hát vui vẻ của mọi người vang tới tận trời cao. Từ cõi trời miên viễn cũng vọng lại giai điệu rộn rã như tiếng kèn đồng. Con tàu chầm chậm về ga dưới ánh sáng của những ngọn đèn và các biển hiệu, rồi dừng hẳn lại trước cây thập tự.

“Xuống thôi!” Anh thanh niên nắm tay cậu bé con và dắt ra phía cửa.

“Tạm biệt nhé!” Kaoru quay lại chào Giovanni và Campanella.

“Tạm biệt!” Giovanni nghẹn ngào, cậu phải cố gắng lắm để khỏi bật khóc. Cô bé mở to đôi mắt buôn bã, ngoái lại nhìn lần nữa và im lặng xuống tàu. Hơn nửa số hành khách đã rời toa, gió lạnh bên ngoài lùa vào càng khiến không khí bên trong thêm phần giá buốt.

Nhìn ra ngoài, mọi người đang thành kính quỳ bên bờ sông hướng về cây thập tự. Đôi bạn trông thấy một người mặc áo choàng trắng lướt trên dòng nước vô hình của Ngân Hà từ phía bờ bên kia, đôi tay ông trang nghiêm giang rộng. Đúng lúc này, một tiếng chuông trong trẻo vang lên, đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh, sương mù dày đặc từ hạ du tràn tới chẳng mấy chốc đã nuốt chửng khung cảnh bốn bề. Đó đây chỉ còn những phiến lá cây óc chó lấp lóe sáng hay mấy con sóc thân mình nhấp nháy ánh chớp vàng, ló khuôn mặt đáng yêu ra lơ láo nhìn quanh.

Một lát sau, sương mù cũng tản hết đi. Một con đường hiện ra, dọc theo đó là một hàng cột đèn nhỏ. Những bóng đèn như hạt đậu nhỏ vụt tắt như tỏ ý chào khi đôi bạn đi qua, rồi sáng trở lại liền sau đó.

Ngoảnh lại phía sau, cây thập tự đã trở nên nhỏ đến đỗi cơ hồ có thể đeo trên ngực, không biết mấy người cô bé cùng anh thanh niên kia có còn quỳ gối bên bờ sông Ngân trắng muốt hay đã tan biến vào không trung hư vô rồi. Giovanni bất giác thở dài.

“Campanella, vậy là chỉ còn hai đứa mình, chúng ta sẽ bên nhau đi đến tận cùng trời cuối đất nhé. Tớ có thể như con Bọ cạp kia, sẵn sàng đốt cháy cả thân thể mình để đem lại hạnh phúc thực sự cho người khác.”

“Tớ cũng thế.” Campanella rưng rưng nói.

“Nhưng hạnh phúc thật sự là gì nhỉ?”

“Tớ không biết.” Campanella mờ mịt đáp.

“Chúng mình sẽ cùng nhau cố gắng nhé.” Giovanni phấn chấn hít một hơi tràn lồng ngực.

“A, kia là tinh vân Bao Than [10] đấy. Giống như là cái lỗ trên bầu trời!” Campanella chỉ vào một khoảng tối trên Ngân Hà và nói.

Giovanni nhìn theo, cậu thoáng rùng mình. Ngân Hà quả nhiên có một hố đen lớn. “Nó sâu chừng nào nhỉ, tớ chịu không thấy được, chỉ thấy đôi mắt tớ đau ghê gớm.” Giovanni nói.

“Tớ chẳng ngán gì hố đen ấy. Nhớ nhất định phải đi tìm thế nào là hạnh phúc thực sự. Chúng mình sẽ bên nhau đi tới cùng trời cuối đất.”

“Ừ, tất nhiên rồi. Nhìn kìa, thảo nguyên xa tít đằng kia đẹp tuyệt. Có rất nhiều người ở đấy. Đúng là Thiên đường rồi. Mẹ tớ cũng ở đó kìa.” Campanella đột nhiên la lên, chỉ về phía cánh đồng thấp thoáng ngoài cửa sổ.

Giovanni cũng nhìn theo tay bạn trỏ, nhưng chỉ thấy một vùng sương trắng mịt mờ, chẳng có cảnh tượng nào như Campanella vừa nói cả. Cậu bỗng chốc thấy lòng nặng trĩu, cô đơn thả hồn qua cửa sổ. Bên kia sông, hai cây cột điện tín như hai cánh tay màu đỏ song song nhô lên từ mặt đất.

“Campanella, chúng mình tiếp tục đồng hành chứ?” Giovanni nói rồi quay lại thì không thấy Campanella đâu nữa, chỉ còn chiếc ghế bọc nhung đen. Giovanni nhảy dựng lên như vừa bị trúng đạn. Cậu cố gắng để không ai nhận ra, thò hẳn nửa người qua khỏi cửa sổ, đấm ngực gào lên thật to, rồi bật khóc rưng rức. Bên ngoài tối đen mịt mùng.

Giovanni mở choàng mắt. Cậu thấy mình đang nằm giữa bãi cỏ trên một quả đồi. Trái tim cậu trĩu nặng và những giọt nước mắt lạnh giá còn vương trên má. Cậu đứng bật dậy như chiếc lò xo. Thành phố bên dưới tràn ngập ánh đèn, không hiểu sao ánh sáng lại có vẻ ấm áp hơn trước. Dòng sông Ngân mà Giovanni vừa du hành trong giấc mơ, vẫn là một dải trăng trắng mờ mờ vắt ngang thiên không ở phía chân trời mịt mùng phía nam. Còn chòm sao Bọ Cạp nhấp nháy ánh đỏ nằm bên phải Ngân Hà, chẳng có gì suy chuyển cả.

Giovanni phóng ào xuống chân đôi như một cơn gió. Lòng cậu tràn đầy lo lắng vì nhớ ra mẹ mình chưa ăn uống gì cả. Cậu băng qua cánh rừng thông tối om, quẹo qua hàng rào màu trắng của nông trại, tiến đến cửa vào mà cậu từng tới lúc trước. Có vẻ như ai đó đã quay về, Giovanni nhìn thấy một chiếc xe đỗ ở đó mà trước kia cậu không hề thấy, trên xe có hai chiếc thùng.”

“Có ai đây không ạ?” Giovanni hét to.

“Có đây,” một người đàn ông khoác cái tạp dề trắng rộng thùng thình xuất hiện. “Có việc gì vậy cháu?”

“Nhà cháu chưa nhận được sữa hôm nay ạ.”

“Ồ, chú quên chưa giao.” Rồi ông nhanh chóng quay vào và trở ra với chai sữa trên tay, đưa cho Giovanni.

“Chú xin lỗi nhé. Chú sơ ý không đóng cửa chuồng, thế là lũ bê con chạy qua bú hết nửa số sữa của bò mẹ…”

“Cháu mang sữa về đây ạ.”

“Làm phiền cháu quá.”

“Không sao ạ.”

Giovanni trở ra với chai sữa còn nóng ấm ôm chặt bằng cả hai tay. Cậu băng qua con phố nằm giữa hai hàng cây, tới phố chính, đi thêm một chặp thì tới ngã tư, quẹo phải là tới cây cầu, nơi Campanella cùng các bạn tới thả đèn lồng. Cây cầu gỗ cao lớn sừng sững im lìm dưới nền trời đêm.

Giovanni thấy một nhóm bảy, tám người phụ nữ đang tụ tập ở ngã tư, trước mấy cửa hàng và chỉ trỏ bàn luận gì đó hướng về phía cây cầu, nơi ấy đang có rất nhiều người cầm đèn lồng tập trung lại. Bất giác cậu thấy lồng ngực lạnh buốt và bật hỏi người đứng bên cạnh: “Có việc gì xảy ra thế ạ?”

“Có đứa nhỏ bị ngã xuống nước.” Ai đó đáp và cả nhóm đều quay lại nhìn cậu.

Giovanni chạy như điên lên cầu, trên đó người đứng chật cứng, khó mà nhìn được xuống sông. Một viên cảnh sát mặc đồng phục màu trắng cũng ở đấy. Giovanni liền đi tới mép nước dưới chân cầu. Vô vàn ngọn đèn lồng bập bềnh trên sông đang tỏa sáng.

Phía bờ bên kia cũng thấy bảy, tám ánh lửa. Nhưng lòng sông thì tối om lững lờ trôi, không chút đèn đóm hay âm thanh gì.

Phía hạ nguồn, Giovanni thấy lố nhố bóng dáng rất đông người tụ tập. Cậu vừa định cất bước chạy tới đó thì thấy Marceau xuất hiện. Lúc trước, Marceau đi cùng nhóm với Campanella.

“Giovanni ơi, Campanella bị rơi xuống sông rồi.”

“Tại sao? Lúc nào thế?”

“Zanelli cố thả chiếc đèn lồng xuống dòng nước, khiến chiếc thuyền bị nghiêng, cậu ta rơi xuống sông. Campanella liền lao xuống, đẩy Zanelli về thuyền. Zanelli được Katou kéo lên, nhưng sau đó thì Campanella biến mất.”

“Mọi người đang tìm kiếm cậu ấy hả?”

“Ừ, mọi người đổ tới ngay lúc đó, cả cha Campanella nữa, nhưng vẫn chưa tìm thấy. Zanelli thì đã được đưa về nhà cậu ta rồi.”

Giovanni tiếp tục đi về phía đám đông bên bờ sông. Mọi người cùng đám bạn học sinh đang đứng xung quanh cha của Campanella. Dáng cao gầy trong bộ đồ đen, gương mặt xương xẩu của ông tái nhợt, liên tục nhìn vào chiếc đồng hồ quả quít đang cầm trên tay phải.

Không ai nói với ai một lời nào, tất cả đều chăm chú nhìn xuống sông. Đôi chân Giovanni trở nên bồn chồn vì lo lắng. Hàng chục ngọn đèn axetylen thường dùng để đánh cá lướt qua lướt lại, rọi xuống những gợn sóng lăn tăn của dòng sông đen ngòm. Trải dài về phía hạ nguồn, dòng sông phản chiếu hình ảnh dải Ngân Hà như thể ở đó không hề có giọt nước nào, tất cả chỉ là bầu trời đầy sao. Giovanni có cảm tưởng rằng Campanella đã đi tới ngọn nguồn của dải Ngân Hà, nhưng những người khác lại đang trông đợi bạn của cậu sẽ xuất hiện trở lại giữa những con sóng này, tươi cười rằng “tớ đang bơi mà”. Hoặc mọi người hy vọng cậu ấy đang đứng đâu đó không ai biết bên bãi sông, chờ có người tới đón.

Thế rồi cha Campanella cất tiếng quả quyết: “Không còn hy vọng gì nữa, đã bốn mươi lăm phút rồi.”

Giovanni tiến đến trước mặt cha của Campanella, cậu định nói với ông tiến sĩ ấy rằng mình biết Campanella đang ở đâu, rằng mình đã cùng Campanella dạo chơi, nhưng rồi những lời ấy nghẹn lại trong cổ họng. Cha Campanella nghĩ cậu bé đến để an ủi, ông nhìn cậu một lát rồi nhã nhặn nói: “Cháu là Giovanni phải không? Cảm ơn cháu!”

Không biết nói gì hơn, Giovanni đành im lặng và gật gật đầu.

“Cha cháu đã về chưa?” ông tiến sĩ siết chặt chiếc đồng hồ và hỏi.

“Chưa ạ.” Giovanni khẽ lắc đầu.

“Có chuyện gì xảy ra chăng? Hai hôm trước bác có nhận thư ông ấy đấy. Ông ấy có vẻ vui vẻ lắm. Có lẽ hôm nay là về đấy. Tàu bị trễ chăng? Giovanni này, mai cháu hãy cùng bạn bè sau giờ học đến nhà bác chơi nhé.”

Nói rồi, ông lại dõi mắt về phía hạ nguồn, nơi dải Ngân Hà soi bóng xuống.

Trái tim Giovanni ngổn ngang tâm sự, cậu lặng lẽ từ biệt cha Campanella để đem sữa về nhà, và nhất định sẽ báo tin cho mẹ rằng cha sắp trở về. Như một làn gió, cậu phi như bay lướt từ bến sông hướng về thành phố.

HẾT