← Quay lại trang sách

Chương 17 Định mệnh

Tiết trời thay đổi. Mặt trời chùng chình nấp kín trong mây. Gió bấc kéo cái lạnh từ núi xuống. Sương rơi rất buốt. Mặt sông Nậm Khao mịt mờ như khói giăng. Cây trong rừng mác cọt thở dài nhẹ tênh rủ nhau trút lá. Cây vườn nhà lặng thầm dỗi hờn, trơ cành khẳng khiu. Quanh Mường Vang chỉ hoa mạy mác tung tăng chuyển sắc đỏ anh ánh tím tươi tắn. Trời mà tung rét đậm thì hoa càng rực rỡ, nhẹ nhàng thơm.

Không khí giá lạnh buông tỏa, con đường xuống núi vắng người qua lại. Người bản thích ngồi trong nhà sưởi lửa quanh bếp vuông. Da dẻ từ người già đến trẻ nhỏ nứt nẻ, phồng rộp, bong tróc. Ngồi lâu trong bếp da càng nứt tợn. Kệ thôi, miễn là ấm thân. Trời rét thì núi rừng được hong khô, thuận tiện cho chân Ri vào rừng, trèo núi hái cây thuốc mang về.

Bà Ngần vươn vai ngồi dậy. Sương sớm luồn qua khe liếp găm cái buốt vào da người. Quanh nhà nồng nàn hương thơm. Nồi nước lá tỏa khói trên bếp phả hương. Chắc là cái Ri trước khi đeo thạ lên núi, đặt lên bếp nồi nước để bà rửa mặt cho ấm. Con bé đến là hiếu thảo. Nhẩm đếm ngón tay thì bà cũng trên mươi rồi. Con Ri, con Rinh bước sang tuổi gần bốn mươi chứ ít ỏi gì.

Thời gian xuôi theo chiều nước trôi không dừng lại. Cuộc đời bà thăng trầm theo bóng tháng năm đi. Dạo này bà ngậm ngùi nhớ những chuyện trong quá khứ, len lén lau nước mắt. Bà dấu không cho cái Ri biết. Bà không muốn con nghĩ ngợi. Nó rõ xinh đẹp nhưng phận vôi trắng xóa. Hai đứa con gái bà là song sinh mà duyên kiếp khác nhau. Con Ri giỏi giang, nết na, hiền hậu mà khổ. Con Rinh giỏi, nhưng tính khí đành hanh, thích bay nhảy đi xa, ấy thế lại sướng.

Con Rinh giàu có, sang trọng. Thư thoảng từ trên tỉnh về nhà bằng cái xe to chừng bốn năm con trâu, con ngựa gộp lại. Chân nó leo bậc thang nhà sàn rón rén như thể nó quên ngày bé nhảy ầm ầm. Nó lễ mễ mang của ngon, vật lạ cả đời bà chưa nhìn thấy, chế biến cho bà ăn. Bà thở dài lắc đầu bảo đừng hoang phí, mé cả đời ăn rau nhiều thôi, không biết ăn con tôm cua to tướng ở miền biển đâu. Bụng mé quen khổ, sướng không chịu nổi. Nó cười bảo bà đừng lẩm cẩm, nó có lương, làm ra tiền. Vả lại giờ là thời nào rồi mà mé vẫn khổ thế chứ... Nó mấy lần bảo bà về dưới phố ở với nó, bà cười nói là tao sống ở núi quen, không muốn đi đâu khác. Có lúc bà trộm nghĩ, khoảng cách giữa bà với đứa gái út ngày càng giãn nở. Lúc nó là chim non thì gần gũi với bà, giờ nó đủ lông cánh bay xa xuống dưới phố, tình cảm dường như nhàn nhạt. Dẫu sao, bà vẫn thương con Ri hơn. Biết thế không công bằng, nhưng tự khắc trong bụng nghĩ vậy, biết làm sao.

Mà con Ri cũng tội. Một đời là bông hoa đẹp bị bỏ quên trong hẻm núi. Không được làm cô dâu mà có thằng con. Chịu khổ trăm bề từ ánh nhìn, đến lời mai mỉa của trong họ, ngoài mường. Cái thằng Được giống cha Hợp nó như đúc khuôn. Con Ri đặt tên là Thành, nhưng hồi nó bé, bà bực mình gọi tên cúng mụ đầy tháng là Được, quen miệng rồi, không bỏ. Gọi bằng cả hai tên. Trộm vía, nó nhớn phổng phao như thổi, chả ốm đau gì. May quá là may. Ông "Phạ" cho bà thằng cháu ngoan ngoãn, giỏi như cha mé nó, bà toại nguyện lắm. Lúc bà nhắm mắt, xuôi tay có thằng chống gậy, thế là mát mặt. Xuống dưới âm thế gặp ông Phái chồng bà, không hổ thẹn. Nòi giống phát triển vượng khí.

Bà nhìn con đường chìm trong mây. Bao năm rồi, mắt bà đau đáu ngóng đợi. Từ mỏi mòn mong hình bóng ông Phái, đến bạn toồng Xa, giờ thì ngóng đợi vô vọng dáng hình của thằng Hợp, con trai bà.

Trong thâm tâm, bà âm ỉ dằn vặt. Cái chăn, cái gối của toồng Xa bà đi nửa đời người chưa thêu thùa xong. Cứ dở dang thế. Gốc rễ, nguồn cội của hai đứa con gái cũng mãi ẩn tích. Chuyện này bà chả dám hở ra.

Bà lật đật mở nắp giương. Bao dao chạm hình con ngựa vượt núi, lẽ nào Xa để cho hai con bé tìm cha nó. Mấy chục năm rồi, từ hôm bạn toồng đem hai đứa trẻ về cho bà nuôi, nhiêu lần bà cầm bao dao lên, ngắm nghía suy nghĩ, rồi lại để vào chỗ chăn gối thêu dở của Xa. Sao bạn toồng có hai cái bao dao giống nhau thế nhỉ? Khó nghĩ ra quá. Bà để một cái trong giương, còn thì đưa một cái cho cái Ri cho dao vào đi rừng. Dấu hai cái một chỗ làm gì cho phí. Sinh ra bao dao thì phải có dao thả vào trong.

Bao dao này bà biết rõ. Do những người đàn ông họ Nông làm ra. Bà không nhầm đâu. Hồi trẻ, mắt bà, hồn vía bà nhìn lão Khỉnh, mỗi lần xuống chợ, hay là tập trung dân quân, lão Khỉnh mang theo ống sáo và bao dao giống in cái này. Nếu đúng vậy thì rõ là nhà bà có nghiệp chướng. Chẳng nhẽ bao dao này của ông Khiển ư? Con Rinh làm vợ thằng Sần, vậy thì con ông anh lấy con ông em à? Thế thì tội lớn quá. Hồi chúng nó nằng nặc đòi cưới, sao bà lú lẫn không nghĩ đến bao dao này nhỉ? Cũng do bà lo toan nhiều việc nên nhãng quên. Giờ phải làm sao?

Kể cũng lạ. Bạn toồng Xa sao có hai chiếc bao dao? Hay là hai người đàn ông họ Nông cùng đưa Xa giữ làm tin? Chẳng lẽ lão Khùng và anh Khiển cùng tặng bao dao? Không thể nào, tính Xa bà biết. Xa đẹp người, tốt nết, thẳng thắn, không làm việc trái lương tâm. Nếu Xa nhận bao dao của lão Khùng thì làm vợ lão rồi, đâu phải đi bộ đội? Tự bà khắc đặt câu hỏi, rồi khắc trả lời trong vòng quẩn quanh, rối mù. Chỉ khi nào Xa về, mới có câu trả lời. Bà càng ngóng bóng bạn, càng xa hút. Con người đâu như nước dưới sông, chỉ chảy qua một lần rồi thôi. Còn nhiều sự gắn kết ràng buộc mà.

Bà Ngần cằn nhằn một mình trước bếp lửa ôm chân kiềng.

Lão Khỉnh, bố chồng con Rinh cũng đốn kiếp, là ngựa già mà thích gặm cỏ non. Rằm tháng Bảy vừa qua, vợ chồng con Rinh về. Con bé ghé tai bà thì thầm, chồng nó có thằng em trai khác mé. Bà giật mình lấy tay che miệng con gái, mắt nhìn thằng Sần. Cứ nghĩ thằng rể bực mình, nào ngờ nó cười hơ hơ buột miệng nói đúng đấy, càng tốt. Nghe chừng chuyện nhà chồng con Rinh lắm góc khuất, nhiều khúc quẩn. Bà thông gia Khúi ghê gớm mà để im chuyện. Có điều gì xảy ra trong ngôi nhà to tướng ấy? Thôi, chuyện gia đình thông gia, không nên dòm ngang làm gì. Bà dặn con Rinh, là con dâu, chuyện tày đình coi như không biết cho lành. Con Rinh lắc đầu, hăm hở nói còn khối chuyện nực cười, nhưng mà... Nó bỏ lửng câu nói, bà cũng không nghe chuyện xấu, chả hỏi nó. Cũng may cho bà, không phải duyên kiếp làm vợ lão Khỉnh, nếu phải chứng kiến thói trăng hoa của lão, bà héo hắt thôi, không thể béo tốt, đẫy đà như bà Khúi.

Bà bằng lòng với cuộc sống thanh bạch nhà mình. Công việc bốc thuốc làm phúc là chính. Người ta khỏi bệnh tùy tâm đưa bao nhiêu cũng gật. Phần thì cúng tổ tiên, phần mang lên hang Ngườm Ngao, giờ gọi là Chùa Hang cung tiến nén nhang, ngọn khói, còn lại mua mắm muối đủ có cuộc sống bình bình. Con cháu ngoan ngoãn, giỏi giang, trong nhà đoàn kết, đấy là núi của. Nhà thông gia lắm tiền, nhiều vàng nhưng phải chia sẻ tình cảm, khổ trong tâm tư gấp ngàn lần cái khổ cơm áo.

Bà khẽ chớp mắt. Có phải bà nhầm không? Chuỗi hạt vía của thằng Hợp bỗng nhiên vàng rực. Nắng chiếu ư? Không phải, bầu trời mang màu mây trắng đục, làm gì có nắng? Vậy thì sao nhỉ? Hay là lời kêu cầu gọi vía của bà thẩm thấu để hồn thiêng thằng Hợp biết lối về nhà? Bà luýnh quýnh nhào ra dòm cầu thang. Chả có ai. Rét thế này tụi sóc cũng ngủ vùi đâu đó, chẳng nô nhau chí chóe. Hay là mắt bà nổ hoa? Không phải, dạo này chiếc vòng thư thoảng tỏa ra ánh sáng. Bà tin có điềm gì đó. Điềm may chứ không thể rủi được. Nhưng điềm báo gì còn phải xem thế nào đã.

Bà lẩn thẩn nghĩ đến hai chiếc vòng vía của thằng Hợp. Một chuỗi bảy hạt xâu chỉ đỏ, do ông cậu Va làm từ gỗ Hoàng đàn ngày nó chào đời, treo trên cây cột gỗ chính giữa nhà, thẳng xuống chân cột dưới gầm sàn nơi chôn núm nhau của nó. Từ dạo nhận được giấy báo nó hy sinh, các hạt vía trên vòng gỗ đang vàng óng, chuyển màu vàng sỉn, vằn ngang vệt đỏ sậm tựa máu khô. Không hiểu sao những ngày gần đây, vệt máu mất đi, vòng vía tỏa ánh vàng sáng lung linh rất lạ. Vừa mới đây thôi màu vàng rực lên, khiến bà ngỡ vía ngoan của thằng con về...

Còn chiếc vòng vía thứ hai của thằng Hợp bằng bạc, con Ri đeo trên chiếc cổ ba ngấn trắng tròn. Có phải tại thằng Hợp không mang theo vòng vía mà quên lối về nhà? Cho dù thân xác nó không còn, nhưng bảy vía của nó cũng phải về báo ứng vào giấc mơ cho bà chứ. Bà chưa tìm được mộ thằng Hợp chôn ở đâu trên dải đất phía Bắc, bà không tin là nó hy sinh. Nó không thể mất tên, mất mộ chí như thế. Xa xôi, khó khăn như mộ ông Phái, cha nó, mà qua thông tin của đơn vị, đồng đội bà còn tìm được, mang về để nghĩa trang liệt sĩ dưới huyện. Nó không thể bặt âm bỏ bà đi như vậy. Nước mắt bà ứa ra... mặn mòi.

Bà Ngần nhẩn nha bắc chảo gang lên bếp rờ rỡ than đỏ. Thong thả cho mẻ thuốc tầm gửi nghiến, tầm gửi mác cọt băm nhỏ vào sao suốt. Thói quen khó cưỡng, nhiều thứ rễ cây, lá thuốc con Ri hái về cần sao khô, nhưng bà bao giờ cũng chọn hai thứ cây tầm gửi này sao trước. Dạo này khách xa dưới xuôi lên lấy thuốc, đặt hàng đông lắm. Âu cũng do người âm dòng họ nhà bà khôn thiêng, phù hộ bà và con Ri mát tay. Khách đến lấy thuốc đủ thứ bệnh, nhưng phần đông là bị bệnh gan vàng da, vàng mắt; bệnh thận đi tiểu khó, đau buốt; bệnh xương khớp đau nhức; bệnh đau đầu, hoa mắt chóng mặt... nhiều không kể hết.

Con Ri thông minh, chịu khó. Sách vở cái Rinh mua dưới phố về chất đầy bàn, tối nào nó cũng chong mắt đọc đến khuya. Mắt bà nhìn chữ lấp lóa khó xem. Mắt nó tinh như mắt chim công. Nó nói, trong những quyển giấy dày cộp dạy nhiều thuốc nam chữa bệnh. Thảo nào, bà truyền nghề cho nó chừng mấy chục loại cây lá thuốc, bây giờ nó biết đến mấy trăm thứ cây chữa khỏi bệnh. Đúng là giỏi quá.

Mải mê sao thuốc và ngẫm nghĩ, tai bà Ngần không nghe bước chân trên cầu thang. Mái tóc vấn khăn chàm, miệng cười sáng rỡ của bà Dần nhô ra trước cửa làm bà giật mình. Bà Dần bước tới bếp, cười khì khì:

- Cái tay già rồi mà sao thuốc dẻo thế chị Ngần?

- Răng nhai xương gà tốt đấy, chưa già đâu.

Bà Dần phá lên cười rồi vội lấy tay che miệng để khỏi bật ra tiếng. Giọng nói vẫn như xưa, oang oang lệnh vỡ:

- Chị à, em làm đơn xin nghỉ Hội trưởng Phụ nữ xã rồi, mấy ông lãnh đạo xã lúc đầu ớ ra, ngơ ngác, sau thì lồng lộn đập bàn ghế lung tung, chán chê một lúc lại ngọt nhạt nói em cố gắng làm hết nhiệm kỳ... chèng chèng! Em chả muốn làm nữa.

Bà Ngần thở hắt ra, từ tốn hỏi:

- Sao thế? đang làm tốt mà...

- Tốt...tốt cái gì a. Em chán rồi! Em về nhà tính chuyện khác, cứ vác mãi "tù và" việc xã, chỉ khổ ông Niệm thôi, đau yếu vì vết thương lại phải kham việc lớn, bé trong nhà.

- Liệu người xã có cho cô nghỉ không?- Bà Ngần đổ mẻ thuốc ở chảo gang ra mẹt khẽ hỏi.

- Giữ người ở lại, ai giữ người đi hả chị?- Ngập ngừng, bà Dần bảo: - Chị có nghĩ bà con mường mình nên làm đồ lưu niệm bằng đá, hay mây tre đan, bán cho khách đi Chùa hang, đi du lịch không?

Mắt bà Ngần mở to ngạc nhiên: - Cô viển vông không đấy? Dăm thì, mười họa mới có đoàn người lên đây, ai mua?

Đôi tay bà Dần vung lên: - Chị không biết a, sắp tới mở đường to nhá, nhà nước đầu tư tiền đấy. Chùa hang rồi thác Lỉn thành quần thể khu du lịch... Chị thật lạ đời, em họp Đảng ủy xã, thông báo Dự án công trình này do cái Rinh con chị đề suất mà. Thời kỳ đổi mới có khác...

Giọng nói của bà Ngần có vẻ như dằn dỗi xa xôi:

- Thế a? Con bé thích chôn chân dưới phố tỉnh mà vẫn nghĩ tốt cho mường mình la? Dự án biết bao giờ mới làm. Đổi mới gì đâu, trước mắt tôi, con đường lên bản mình vẫn bé tí đấy thôi...!

Ngẫm ra điều bà Ngần nói cũng đúng. Tuy nhiên, bây giờ bước sang thế kỷ mới rồi, đất nước hòa bình mấy mươi năm rồi, các nơi đua nhau xây dựng kiến thiết, thành lập công trường này, nhà máy nọ nhanh vù vù. Ngay trong tỉnh mình đấy, các khu kinh tế mới, mô hình dịch vụ mọc lên như nấm trong mưa. A dá! Bà chị Ngần cái đầu linh hoạt bỗng "chùn" lại là sao. Ờ, ờ không trách được, bao nhiêu biến cố xảy ra, chị ấy phải gồng người gánh đỡ. Nếu là Dần thì chưa chắc đã làm được như chị. Nghĩ thế, bà Dần nở nụ cười tươi tắn:

- Chị à, chị nói phải, nhưng nếu Dự án khu du lịch triển khai, chị em mình làm du lịch cộng đồng liên kết nha.

Bà Ngần nheo nheo mắt, hỏi nhanh:

- Liên kết du lịch cộng đồng ấy là gì, nói rõ nào...

- Bản, mường mình sẵn nhà sàn, vườn rừng cây trái, nếu có khách du lịch mình gắn kết với nhau, làm du lịch văn hóa lễ hội, phát triển bản sắc hát sli, lượn, hát "hoa tình" và làm các món ăn cơm lam, xôi "đăm đeng", bánh dày, thót théc, tắm nước lá, bán thuốc nam... nghĩa là nhiều mô hình, chị em phụ nữ ta phải đồng tâm, hiệp lực mới làm nổi.

Bà Ngần hiểu ra rồi. Đầu cô Dần này rõ toàn nghĩ chuyện tốt. Gật gù ra điều rất tâm đắc, bà dè dặt:

- Cứ biết thế đã. Xã gây khó thì sao?

- Mình làm việc phát triển kinh tế, em tin xã không làm khó. Mà không lo, lúc ấy mình mang hai chữ liên kết với huyện và tỉnh. Mình đi trước, đón đầu cho kinh tế bản mường khá lên.

Bà Ngần bật tiếng cười rổn rảng:

- Ời, cô lo nghĩ cho dân tốt thì làm việc xã đi, sao nghỉ được.

Bà Dần cắn nhẹ vành môi hình trái tim, trán khẽ nhăn lại. Kể ra cũng khó. Thôi thì đến lúc ấy hẵng hay.

Mải chuyện, nhưng bà Dần không quên cái giấy quan trọng nằm trong túi vải chàm. Phải nói thế nào bây giờ? Bà Dần sợ nhìn nước mắt của người chị mà bà rất đỗi quí trọng. Thời điểm mọi người nghĩ sai về chị ngần, bà vẫn có niềm tin, chị là người tốt. Bà đã đúng. Loay hoay, nhấp nhổm mà bà Dần không biết làm thế nào nói ra cái điều khó. Không khí chùng xuống. Bà Ngần tinh ý hỏi nhỏ:

- Có chuyện gì nói ra đi, lúng túng thế?

Vòng vo không ích gì, bà Dần rào đón:

- Chị à, trong lúc dọn dẹp giá gỗ đựng giấy tờ lưu ở Ủy ban xã, tình cờ em thấy giấy này. Đảng ủy xã họp chiều qua, mãi đến tối chụp vào mắt mới xong, giờ em sang đưa chị...

Mắt bà Ngần lấp lánh:

- Giấy à, tin vui hay buồn? Vui thì mừng, buồn thì chia sẻ cùng cô.

Thoáng giây trầm ngâm, bà Dần thở dài:

- Chuyện qua lâu rồi, chị phải trải qua tháng ngày oan khuất, tuy đã được minh oan, nhưng thay mặt Đảng ủy xã, em mang giấy này về, phần nào để chị vơi buồn và khẳng định lãnh đạo cấp trên kịp thời quan tâm vụ việc! – Bà Dần chợt ngừng lời. Sau tiếng thở dài, nói xa xót: - Năm ấy, cá nhân nào đó trong Ủy ban xã làm việc tắc trách, vô trách nhiệm, hoặc vì một nguyên nhân khó hiểu, không đưa giấy quan trọng này ra trước công chúng. Phải chăng có vấn đề...

Bà Dần nhẹ cầm bàn tay nhiều vết chai dày sếp chồng lên nhau của bà Ngần, đặt vào đó tờ giấy đánh máy đã ố vàng theo thời gian:

"Ngày 29 tháng 6 năm 1966...

Đảng ủy,Ủy ban nhân dân huyện Pó Liểng

Thông báo

Qua công tác điều tra, khẳng định: Gia đình và cá nhân Bà Ma Thị Ngần trong sạch. Không tiếp tay cho gián điệp, biệt kích phá hoại miền Bắc xã hội chủ nghĩa như đơn thư nặc danh vu cáo...

Chủ tịch UBND Huyện: Nông Hải Khỉnh."

Bà Ngần tuy mắt có chút sẫm lại, nhưng rất nhanh, bà trở lại trầm tĩnh. Tay bà khẽ rung khi giót chén nước chè dây. Bà nói mà không nhìn bà Dần:

- Giá như năm ấy, giấy này có mắt biết lối về nhà, có lẽ thằng Hợp không phải ngồi trên kia...!- Mắt bà mệt mỏi hướng lên phía ban thờ.

Bà Ngần không tin thằng con trai bà hy sinh. Năm đó, tin dữ khiến bà chết sững, nhưng ngay cả lúc này bà không thể khóc. Bà không suy sụp vì bà là chỗ tựa của mẹ con cái Ri. Ít nhất thì bà cũng dứt khoát trong lòng là con trai bà đang lạc ở đâu đó thôi, rồi nó sẽ về. Bà biết nhẫn nhịn chờ đợi. Cũng như bà đếm gió thổi, sương giăng chờ minh oan cho gia đình.

Giây phút thật sự cảm động. Từ sâu thẳm trong lòng, hai người phụ nữ sát cánh bên nhau trong lửa đạn, một thời làm pháo thủ Trung đội súng máy 12ly7 gần như muốn khóc. Lòng chạnh nhớ một thời oanh liệt mà tự cảm cảnh cho nhau. Nhưng rồi họ kịp trấn tĩnh vì bản lĩnh. Bà Ngần nhẹ vỗ vào vai bà Dần:

- Thế là hai lần tôi nhận thông báo! Cái giấy đến trước về nhà sau, cái giấy sửa sai sau lại về nhà trước. Nghịch cảnh này cũng do chiến tranh thôi...Nhưng người cất nhẹm và ỉm đi là ai hả em Dần? Lương tâm họ là người hay ma quỷ.

Trong cuộc họp Đảng ủy xã chiều qua, các Đảng ủy viên sững sờ, xôn xao khi bà Dần đưa tờ Thông báo ố vàng vì thời gian này ra. Ông Khùng, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã tái bợt mặt, rồi sắt đanh, đỏ vằn lên như uống rượu nặng. Bà Dần không biết ông ấy nghĩ gì mà thay đổi sắc mặt. Gợn nhanh trong đầu bà sự nghi ngờ...

Việc này phức tạp, thời gian lâu quá rồi. Năm xưa không biết ai nhận công văn liên quan đến sinh mệnh chính trị của gia đình cách mạng này. Tại sao nó nằm im lìm trong ngút ngàn giấy tờ, công văn lưu cữu kia? Thật may nó không rơi vào phần lớn giấy tờ bị mối xông đã hủy. Phải kiên nhẫn tìm ra con người đó. Cũng vì chuyện này mà bà Dần không muốn làm việc xã nữa...

Bà Dần coi bà Ngần như chị gái ruột. Trước khi nghỉ làm việc xã, bà sẽ cố tìm ra ai làm việc đê tiện này. Chắc chắn không phải vô tình đâu, có chủ đích hủy hoại.

Vốn hiền hậu, không muốn vì chuyện nhà mình làm ảnh hưởng công việc và cuộc sống của người em gái, bà Ngần quí từ thủa tóc xanh. Bà khẽ khàng khuyên:

- Có cần thiết làm không? Liệu đi đến đâu khi có thân thích bao che? Chuyện qua lâu rồi, tôi không muốn cuốc xới, cứ để nó ngủ yên.

Trong đầu bà Dần chợt nghĩ, nếu lần này không tìm ra kẻ mặt người, bụng ác ấy trong hàng ngũ cán bộ xã, dân trong vùng, cái bụng sẽ không tin lãnh đạo, triển khai làm gì cũng khó. Biết là nói thì nhanh, nhưng làm thì chậm. Một lời cấp trên chỉ thị mất vài phút, nhưng cả guồng máy từ xã đến huyện, lên tỉnh phải trôi hàng tháng. Chưa kể có người bao che. Không, tin rằng nhiều người sẽ ủng hộ việc tìm ra sâu mọt. Bà Dần đoán biết "con sâu mọt" ấy là ai rồi, nhưng phải tìm được chứng cứ rõ ràng. Cái chết khốn khổ sùi bọt mép vì rắn cắn của nhân viên bưu tá Vần phải chăng dính líu đến chuyện này? Mới đây, "hắn" lợi dụng chức vụ, quyền hành cho bọn người hung hãn "quặng tặc" đến núi Phja Khao đào đá, moi quặng quí hiếm. Nghe nói tụi này nộp cho hắn nhiều tiền lắm...

Những cuộc họp Đảng ủy trước đây, đội ngũ lãnh đạo xã, nhiều người đưa việc khai thác quặng ra phê bình, cần phải "nhổ" sạch tụi quặng tặc đi, thế nhưng họp xong không kết luận. Tai nọ sang tai kia truyền khẩu, Bí thư xã bị hắn mê hoặc ngọt nhạt và có khi còn "dọa khéo" nữa... Thì đấy, hắn luôn miệng khoe nhà hắn có mả làm to. Cháu hắn một người làm Bí thư huyện, một người làm Chủ tịch tỉnh, hắn đứng đầu xã. Có phải vì thế mà việc hắn sai cứ mãi sai thôi...

Đang mông lung nghĩ, bà Dần bừng tỉnh khi lửa trong bếp chợt bùng lên. Bà nén day dứt, ngần ngừ một chút rồi thở dài:

- Chị Ngần à, rồi cái thằng ấy phải trả giá thôi. Đi đêm lắm khắc có ngày gặp ma. Em phải ra xã đã. Nhiều việc lắm.

Bà Ngần chép miệng, cô Dần cái số vất vả, lấy việc buộc vào người...

Trời bỗng hừng lên những vệt nắng mỏng nhẹ. Ánh nắng hiếm hoi trong mùa gió bấc. Lũ sóc chui ra khỏi ổ, kềnh cang sưởi nắng trên sàn phơi. Bà nhìn mãi theo bóng áo chàm của Dần tất tả trôi giữa sườn núi.

Thiên nhiên hoang sơ che kín bởi tấm áo sương mù khổng lồ. Từng cụm mây buồn bã, lang thang nút kín núi Phia Bjooc bí hiểm. Mặt nước sông Nậm Khao thở hơi lạnh đặc quánh. Ri đeo bao dao vào thắt lưng, nhón chân xuống cầu thang, ngược dọc bờ sông về phía thác Lỉn hái thuốc. Bầy chim bách thanh không sợ tụi gió rét, chúng gọi nhau inh ỏi, lảnh lót.

Cách đây lâu rồi, chiều tối thứ Bảy, thằng Thành con chị từ dưới trường nội trú của huyện về. Nó hớn hở khoe, nó thi học sinh giỏi toán của huyện đạt giải nhì, được vào đội tuyển của huyện đi thi học sinh giỏi toán cấp tỉnh.

Ui da! Cái thằng nói vanh vách như thóc chảy vào thành cối, chị không tin vào tai mình, hỏi nó:

- Mày nói cái chuyện hay này thật hay đùa hả con?

Nó cười ngặt nghẽo, rồi nghiêng đầu, xòe cái giấy chứng nhận học sinh giỏi cấp huyện tươi roi rói và nói rõ to:

- Thật mà mé! Con cố học giỏi, sau này đi đại học mé à!

Nó nói thế thì Ri cũng không hỏi nhiều. Việc học của nó khắc phải tự lo, chẳng ai học hộ. Muốn làm người tốt, người có ích thì cố mà họci. Cái miệng nó nói nhiều điều hay, in như cha nó ngày xưa. Nếu cha nó biết thằng con cao lớn, học giỏi thì mừng lắm đấy.

Bà Ngần từ nãy giờ thái lá thuốc, nghe thằng cháu nói về việc học tốt mà vui quá. Cái thằng thế mà sáng bụng. Sau khi hắng giọng bà nói rành rẽ:

- Được à, ờ ờ Thành à, thế là tốt nhiều đấy, nhưng đừng mải mê mỗi môn đi thi ấy nha. Phải cố biết nhiều chữ.

Thằng bé ôm ngang lưng bà, thủ thỉ: - Cháu nghe lời dặn của bà.

- Ờ, mày nghe thì ấm thân mày trước, tao với mé mày cũng ngẩng mặt khi ra ngoài đường.

Bà nói xong bê mẹt thuốc ra đặt ngoài sàn để ngậm sương đêm. Mảnh trăng đầu tháng cong hình lá tre treo lơ lửng trên cao, thả sáng mơ hồ, hòa trong tiếng rủ rỉ của tụi côn trùng, tiếng xì xào của gió, tiếng tí tách của sương rơi đang truyền đi trong đêm. Ý nghĩ của bà cũng chập chờn khi gần, khi xa... Bà chắp tay trước ngực, hướng về phía phố huyện, thì thầm gọi chín vía bạn toồng Xa và bảy vía thằng con Hợp. Bà mong hai người ấy ở đâu biết lối về nhà thôi...bạn toồng đã có cháu ngoại rồi, còn thằng Hợp làm bố về mà nhận mặt con. Một lớp người mới đang lớn lên, hai thế hệ người cũ mải mê phương nào không nhớ lối về. Bà ngày mong, đêm chờ tiếng bước chân. Bà không tin chiến tranh cướp hết những người thân yêu ruột thịt của bà.

Trong nhà, bên bếp vuông tỏa lửa ấm, thằng Hợp giúp Ri tẽ bắp, miệng nó hào hứng nói nhiều chuyện hay. Nó bảo dì Rinh nói với nó, tương lai không xa các bản Mường Vang sẽ trở thành điểm du lịch hấp dẫn. Đường điện trèo núi, lội qua sông, về đến mường, lên tới các bản. Có điện rồi thì mấy cái đèn dầu bỏ đi, không phải khêu bấc đỏ lòm, không ngửi mùi khét. Điện sáng giống dưới phố huyện, đêm cũng ngỡ ban ngày. Các nhà trong từng bản liên kết làm mô hình cộng đồng du lịch sẽ tốt nhiều lắm.

Thằng con thủ thỉ với Ri, sau này nó sẽ thi vào trường đại học kinh tế. Học xong sẽ về huyện nhà làm, cái chân không đi xa. Nó thương bà và mé lắm. Huyện nhà nhiều thứ làm kinh tế khá lên, người dân chưa nghĩ ra thôi...

Nó nói toàn những chuyện xa xôi, là nó mơ ước đấy. Cứ mơ đi con trai, làm thằng đàn ông biết nghĩ xa, lo xa thì mới là cái cây cao, cột thẳng. Thế hệ của nó chắc chắn vượt xa chị rồi. Đúng là mỗi thời, mỗi khác. Thằng con chị mới học lớp mười đã nói đến dự án, dự định rồi. Tụi trẻ khôn thế đấy. Nghĩ vậy Ri bỗng dấu nụ cười vào tay áo.

Từ xa đã nghe tiếng thác Lỉn đổ réo rắt, âm vang.

Dòng nước trong vắt từ trong ngút ngàn mây trên cao, giống như thảm bạc lớn, tung mình qua bảy thềm đá, nhả bụi nước phiêu diêu muôn màu kết hình đóa hoa rực rỡ, ào xuống thung sâu, làm nên thác Lỉn bảy tầng tuyệt đẹp. Nước từ thác Lỉn qua các mường, mềm mại ôm lấy bản lớn, bản bé trong dòng chảy con sông Nậm Khao trong vắt.

Thác Lỉn đầu nguồn ngọn nước. Nhà nào trong bản xảy ra chuyện, thường đến chân thác lập đàn cúng thần. Mé Ri cũng vì tội của Ri với bố thằng Thành mà phải quì lạy, ném đầu lợn sống xuống chân thác đấy thôi...

Cách chân thác Lỉn chừng hơn chục sải chân là rừng cây núc nác xanh thẫm. Những cây núc nác chả hiểu mọc từ thủa nào mà to chừng mấy người ôm. Bao bọc quanh gốc cây núc nác là lũ dây kim ngân hoa vàng, dây dạ cẩm...vươn tụi tay dài, quấn cành núc nác cao thấp. Đây là những cây thuốc quý. Vỏ núc nác và dây hoa kim ngân vị đắng thải loại chất độc ra ngoài người bệnh. Cây dạ cẩm làm thuốc chữa đau nhức xương khớp. Tụi cây này lấy vào sáng đầu mùa đông, lúc tụi sương ngậm chặt lá cây là tốt nhất. Thế nên hôm nay Ri phải đi vào rừng sớm.

Như là định mệnh. Vừa lèn chặt hai thạ cây thuốc, quẩy lên vai ra khỏi rừng, Ri vấp vào đám người lập đàn cúng thần dưới chân thác Lỉn. Tiếng thác réo ầm ầm làm chị không nghe thấy lời cúng của thầy tào.

Cái chân muốn lùi lại mà không thể, đành phải đi ngang sau lưng họ. Ri quày quả, cắm mắt xuống cỏ bước nhanh, không dám ngước nhìn đám người đang dâng đàn tế lễ.

Thoảng qua Ri mùi đốt vàng mã, giấy tiền khen khét. Bất chợt có người chắn ngang trước mặt chị, hậm hực:

- Lại mày à? Sao biết nhà tao làm lễ đến dòm? Ma nhà tao sẽ chọc mắt.

Chị sững sờ, run lên. Trước mắt chị là người chị không muốn chạm mặt. Đúng là oan gia xui khiến chân đi vào lối hẹp. Ông Khùng ném mắt có lửa hằn học vào người chị. Cố trấn tĩnh, chị bình tĩnh:

- Ông Chủ tịch à, cháu đi hái lá thuốc thôi, không biết dòm trộm đâu.

Rõ ràng tích tắc vừa qua, ông Khùng hầm hầm nạt nộ, giờ đứng ngây như cái cột chôn xuống đất, mắt ông ấy hết nhìn mặt chị, lại dán vào bao dao chị đeo bên sườn, miệng lắp bắp điều gì mà chị nghe không rõ.

Mặc kệ ông ta đứng đực ra đấy, chị rảo chân quẩy hai thạ thuốc về nhà. Thoát nhanh ra khỏi tầm nhìn của ông Khùng, chị thấy nhẹ người. Thật may quá đi!

Con bé gái nhà Ngần đi xa, lão Khùng vẫn ngây như tượng gỗ.

Chả lẽ cúng thần, đốt mã, thả hình nhân xuôi chiều nước chảy xong mắt lão bị quáng? Không phải, con "nộc va mì" đậu tít trên ngọn núc nác, miệng sợ người không dám hót tiếng của loài chim, lão còn nhìn thấy nó mà. Lão không thể nhìn mắt nọ xọ mắt kia được.

Dáng người thắt đáy lưng ong của con bé mặt hoa lẫn vào màu xanh cây lá, màu trắng của những đám mây, mà lão chưa định thần lại. Lão sởn gai người. Có bao giờ cúng xong oan hồn người chết nhập nhòa trước mắt lão không? Tào Slăng Ngàu chỉ rung thanh la tế lễ các vị thần thôi mà.

Quả thật, trừ cái nốt đồng xu dính má con bé, trên khuôn mặt trăng rằm trắng bột phấn, các nét của nó sao giống người đàn bà mất tích, làm hồn lão ngơ ngẩn một thời gian đến thế? Lẽ nào nó là con của Hái? Mấy chục năm qua, sự im lặng của Hái vẫn ám ảnh lão không nguôi. Mắt Hái long lanh sáng khi báo tin với lão là có đứa bé ngồi trong.

Lão vẫn dò tìm tung tích của Hái. Nếu Hái còn sống thì máu mủ của lão bây giờ cũng chạc tuổi con bé này. Lão tin Hái đã thành ma rồi. Người sống không bỏ bản đi lâu thế. Lão giật mình. Nhà Ngần lấy đâu ra hai đứa trẻ song sinh ấy. Hồi đó chiến tranh, nghe nói nuôi cho họ hàng xa bị bệnh rồi mất.

Có khi nào hồn ma của Hái nhập vào con bé kia làm lão thất thần? Lão khẽ lắc đầu. Cái bao dao nó đeo bên sườn trái là của dòng họ nhà lão. Chậc chậc lưỡi, lão lúc lắc đầu. Mớ ý nghĩ lộn xộn của lão lùi vào dĩ vãng.

Sau khi lão làm cái việc của con đực với Hái xong, trong niềm vui sướng tột cùng, thỏa mãn no nê, lão đã dúi vào tay Hái bao dao chạm khắc tinh xảo, thầm thì: "Từ giờ thì em đã là của anh rồi. Hãy giữ hồn anh thật chặt...".

Lão biến sắc mặt, xa xẩm quay cuồng lầm bầm: Không thể nào có chuyện ấy... không thể nào...

Mấy người trong đám lễ nhà Khùng trợn tròn mắt khiếp đảm. Bà chị dâu Nhòm mặt xanh màu lá, chắp tay vái tứ tung...

Tào slăng Ngàu khua khua hai bàn tay trước mặt lão, gọi:

"...Ơ hời các đấng thần linh cao cả đi mây về gió, giữ ngôi tam thai, nắm quyền tạo hóa, thể đức hiếu sinh, phù hộ độ trì cho tín chủ Nông Văn Khùng bách bệnh tiêu tán, vạn nạn tiêu trừ, tai qua nạn khỏi... Ơ này, ơ này ma già, ma trẻ, ma khôn, ma dại... Ơ này vía trai, vía gái khôn thiêng được thụ hưởng lộc từ các thần, ai ở đâu về chỗ đó, hãy buông tha giải thoát cho gia chủ Nông Văn Khùng..."

Lão Khùng cái chân khuỵu xuống tựa cây chuối đổ gục, miệng lão thôi không lắp bắp. Mặt lão nghệt ngây lúc tái dại, khi đỏ rựng. Lão mông lung nghĩ ngợi. Đúng là từ khi Hái mất dạng, nhà lão rối tung. Lão lấy bà vợ khi tỉnh là người, lúc khùng giống ma khôn nheo nhéo gọi lão là "thằng đểu cáng". Chức Chủ tịch xã bao nhiêu năm nay không ai dám ngó ngàng, mặc lão làm mưa, hô gió, người xã răm rắp nghe theo. Giờ thì khó rồi. Hai thằng mặt sắt, oắt con tí tuổi là Ủy viên ban kiểm tra Huyện ủy về bới tung vụ việc của xã. Chuyện xửa xưa lôi từ đống giấy nát ra, bới lông tìm vết nhọ thế thì mồ mả ông bà chúng nó cũng có tội, chứ không riêng lão. Việc lão cho người đến khai thác quặng và đá quí ở núi Phja Bjooc thì qui tội lão thông đồng, cấu kết "quặng tặc" rút ruột tài sản quốc gia, làm giàu không chính đáng.

Lão bỏ công nghĩ ra tiền thì lão phải được phần nhiều chứ. Điều ấy rõ như nắng ngày. Thử hỏi chức sắc trong Ủy ban xã những hôm hội họp, lễ tết hay cuối tuần, cuối tháng vẽ ra ăn uống linh đình, thịt cá ăm ắp lu bù, rượu ngô nút lá chuối kìn kìn khuân chum lớn, chum bé, cười nói oang oang hả hê lấy đâu ra? Từ cái ruột trong núi đấy. Vậy mà giờ đổ lên đầu lão chịu tất.

Đầu têu, đầu sỏ bới móc lão là con cái Dần. Nó cậy thằng chồng nó thương binh, nó có công với xã mà làm lớn chuyện ư? Đừng hòng! Khéo mày phải về ôm đít con lợn, con dê chứ không phải ông đâu nhá. Gớm, Chủ tịch Phụ nữ xã là cái gì mà dám vượt mặt? Loại vịt già nỏ mồm. Có giỏi cứ ngoạc mỏ ra quàng quạc đi. Liệu thần chừng nhá.

Tự dưng lão ngửa cổ cười khầng khậc. Có thế chứ, sáng nay lão lập đàn cúng tế, giải hạn, khấn khứa xong rồi, tụi người muốn đánh bật lão a? Dưới âm thế phù hộ, trên dương thế trợ giúp, cái số lão vẫn được vui vẻ, giàu có đấy. Có giỏi cứ thanh tra, kiểm tra mãi đi. Mà sao thằng cháu Khiển ở huyện không nể mặt chú nó, ngăn cản không cho động vào lão nhỉ? Còn thằng cháu Khỉnh trên tỉnh nữa. Lão mà cho thằng cháu biết chuyện lão bị kiểm tra á, cả lũ phải về vườn chứ không chơi.

Nghĩ đến hai thằng cháu lãnh đạo, lão có chút phân vân. Cái thằng Khỉnh lão nói gì cũng nghe, nhìn thấy tiền cười khơ khớ. Nhưng thằng Khiển anh nó thì ngược đời. Nó đi qua lửa đạn chiến trường. Tính khí thẳng thắn, cứng nhắc, gàn dở. Nó không màng đến tiền. Nhiều lần nó khuyên lão phải làm người tốt để lãnh đạo dân tốt. Gớm, nó mà dạy lão á? Cứ như nó nghèo kiết xác, không ngẩng mặt với thiên hạ.

Lão chột dạ. Hình như có gì đó bất ổn thì phải. Lẽ nào thằng Khiển chỉ đạo tụi mặt lạnh chĩa độc kiểm tra tư cách lão? Còn ra thể thống gì nữa? Vậy thì nhiều chuyện lão không lường trước. Thảo nào tụi ấy mặt câng câng như đá cuội đen.

Chân lão bước gằn trên đường mòn. Bực quá, muốn đi nhanh mà chân phảy phết ngăn lão. Chiều nay phải ngồi chường mặt trong cuộc họp, nghe tụi nó thao thao tố cáo khuyết điểm của lão ư? Lại hai thằng mặt đá cuội lạnh băng Ủy viên ban kiểm tra Huyện ủy làm việc. Thêm ai nữa thì không biết. Chưa bao giờ lão rơi vào tâm trạng mông lung thế này. Đành rằng cúng lễ, nhưng lão vẫn không vơi lo lắng.

Chiều. Tụi quạ túa xua bay liệng đen trời rền rĩ kêu váng lên "Quạ...quạ..". Lão Khùng gai lạnh sống lưng. Từ xưa người bản coi tụi quạ đen thuộc loài chim ác. Nó xuất hiện là đổ chàm vào nhà. Cả đàn kéo về thế này có gì đây?

Bước vào phòng họp đã thấy mọi người đông đủ. Lão vã mồ hôi. Thằng cháu lão ngồi lù lù kia kìa. Bí thư xã Hoàng Giỏng hôm nay mặc áo chàm mới như đi hội, cất tiếng từ tốn, trịnh trọng:

- Kính thưa các đồng chí, cuộc họp Đảng ủy xã có Đồng chí Nông Hải Khiển, Bí thư Huyện ủy; đồng chí Ma Đức, Trưởng ban Kiểm tra Huyện ủy; đồng chí... về dự. Đề nghị chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh.

Tai lão ù ù gió lùa.

- Thưa các đồng chí, hôm nay Đảng ủy xã tập trung nội dung kiểm tra đồng chí Đảng ủy viên Nông Văn Khùng...!

Giọng nói rành rọt của ông "oắt" Ma Đức bổ xuống đầu lão:

- Gần đây theo phản ánh của quần chúng nhân dân, thông qua công tác kiểm tra, Ban kiểm tra Huyện ủy phát hiện đồng chí Nông Văn Khùng có nhiều sai sót trong lãnh đạo, chỉ đạo xã thực hiện xây dựng các công trình phúc lợi, đặc biệt là công trình trạm xá xã, trường tiểu học và công trình nước sạch. Chủ tịch xã trực tiếp chỉ định và ký quyết định cho cá nhân không đủ điều kiện thi công, khiến công trình dở dang, hoang phí, gây thất thoát lớn về kinh phí ngân sách. Nhân dân xã Pù Nhài sau bốn năm chưa có nước sạch phục vụ sinh hoạt, sau ba năm trạm xá và trường tiểu học dở dang "chờ" có tiền xây dựng tiếp... Việc làm này vi phạm nghiêm trọng Qui chế dân chủ ở cơ sở, làm suy giảm niềm tin vào lãnh đạo xã của quần chúng nhân dân...

Thanh âm nhức nhối ung ung như có bầy ong bay loạn xạ trong đầu lão Khùng.

Vẫn giọng "luận tội" của Ma Đức rành rọt, chậm dãi tựa từng tảng đá nặng trịch ném xuống lòng thung. Mặt lão Khùng như thể nhúng chàm. Lão sao có nhiều tội thế? Lại còn biên bản nhắc đến chuyện lão chủ mưu vu khống gia đình bà Ngần...Lão thắt nút sự việc vào hang kín tưởng như con kiến không chui lọt mà sao vẫn lộ ra? Vanh vách, hả hê luận tội lão a? Sao mấy "ông oắt" có chứng cứ nhiều việc lão làm nhỉ? Nhăn nhó, lão Khùng nhìn Bí thư Khiển cầu cứu. Mặt thằng cháu khó đăm đăm, môi mím lại. Thế là hết rồi. Thằng cháu Khiển nó bực đến nỗi không ném mắt nhìn lão.

-...Căn cứ vào đơn thư tố cáo, khiếu nại của tập thể nhân dân Mường Vang; Hội Cựu Chiến binh; Hội Phụ nữ xã... gửi về Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Kiểm tra Tỉnh ủy... được sự nhất trí của cấp trên, qua kiểm tra, thẩm định, Ban Kiểm tra Huyện ủy kết luận đồng chí Nông Văn Khùng vi phạm trầm trọng chủ trương, chính sách khai thác khoáng sản của Nhà nước. Đồng chí câu kết với các cá nhân phức tạp trong xã hội, tổ chức khai thác trái phép quặng trên địa bàn... không những làm tổn hại kinh tế, mà còn gây tình hình bất ổn về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội...

Lão còn biết nói thế nào nữa? Thì lão chuyên quyền độc đoán, lúc nào cũng ngồi trên mọi người. Lão tham tiền cũng đúng. Giàu một lúc còn hơn nghèo cả đời. Như lão đấy, có địa vị, có tiền thì tận rừng xanh, núi đỏ vẫn có kẻ tìm đến. Nếu lão mà nghèo khó, ở giữa chợ đông cũng chẳng ai dòm. Có điều, lão cậy quyền, cậy thế mà chủ quan...

Mọi người lặng lẽ rời phòng họp. Lần đầu từ khi lão làm Chủ tịch xã đến nay có một cuộc họp không ăn uống, chén tạc, chén thù...

Trời sắp tối. Con đường trước mặt lão gió hun hút lạnh. Lão bước đi miên man như kẻ mộng du trôi vào mây mù, vang rền tiếng kêu ám ảnh của bầy quạ đen.