← Quay lại trang sách

Tích cây mai và lễ chiêu hồn và-Sự tích cây phướn

Ngày xưa, có người bộ hành lưu lạc trên đường thiên lý đã nhiều ngày nên đói khát đuối sức. Vừa may, đến một vườn mía, trông trước nhìn sau chẳng thấy chủ vườn ở đó, người bộ hành liền bẻ mía ăn đỡ lòng, đoạn lấy một xâu tiền buộc vào một cây mía rồi ra đi.

Một lát sau, người chủ vườn đến, thấy mất một cây mía lại chợt thấy xâu tiền kẽm buộc vào cây mía kế bên, lấy ra đếm thì thấy hơn giá tiền một cây mía quá nhiều. Chủ vườn mía nghĩ rằng có kẻ đã ăn mía trả tiền, nhưng số tiền còn thừa, phải kiếm cho được người ăn mía mà trả lại không thì chẳng yên lòng. Nghĩ như vậy rồi, chủ vườn mía mới đi tìm người bộ hành.

Đến xế chiều, người chủ vườn gặp người bộ hành nằm chết bên đường, nghĩ thương tình, người chủ vườn mới vác xác người bộ hành đến một cái chùa gần đó, kể hết sự tình cho sư ông nghe và nhờ sư ông tụng kinh siêu độ.

Nhà sư liền lấy cây mía buộc tiền vào rồi đặt lên đàn, đoạn đọc kinh cứu khổ (gọi là lễ truy linh hay lễ chiêu hồn).

Cuộc lễ vừa xong, hồn người bộ hành bỗng trở về nhập với xác, giúp người sống lại.

Vì sự tích này mà từ đó về sau, mỗi khi có lễ chiêu hồn, các pháp sư hay thầy sãi đều dùng cây mía có buộc xâu tiền kẽm để làm đồ tế lễ.

Sự tích cây phướn

Ở các chùa chiền thường có treo một tấm vải dài, viết chữ nho, gọi là ngọn phướn.

Theo tích xưa, ngọn phướn ấy là hình ảnh của con rắn bị trừng phạt.

Thuở ấy, có anh nông phu nọ bắt được một con rắn nhỏ, đem về nuôi nấng kỹ lưỡng. Tuy bận công việc đồng áng, anh vẫn kiếm bắt cá, nhái, ếch đem về cho rắn ăn, nhiều khi rắn quá đói, anh sẵn sàng cho rắn ăn mấy con gà con nuôi trong nhà.

Rắn càng ngày càng lớn, ăn càng lúc càng nhiều. Hôm ấy, nó than đói. Anh nông phu lắc đầu:

- Hết phương thế rồi. Bữa nay ta chưa kiếm được thức ăn cho mày. Thôi ráng chờ sáng mai vậy.

Rắn nổi giận, trở mặt, phùng mang trợn mắt:

- Ông không nuôi tôi nổi thì tôi phải cắn ông chết.

Anh nông phu vô cùng buồn bã, nói với rắn:

- Lời tục thường nói: Cứu vật, vật trả ơn. Tại sao mi đem oán mà báo ơn. Bây giờ ta sẵn sàng chịu cho mi cắn nếu hành động của mi được các loài vật khác công nhận.

Rắn gật đầu:

- Vậy thì ông đi với tôi.

Hai bên bèn lên đường, chặp sau gặp con hạc đậu trên ngọn cây. Rắn trình bày đầu đuôi sự việc, hạc nghe xong bèn nổi giận:

- Rõ ràng mi là kẻ vong ân bội nghĩa. Nếu không có chủ nhà thì làm sao mi đủ thức ăn, sống đến ngày nay.

Rắn chưa chịu thua, nói với chủ nhà:

- Ta hãy đi tìm vài con vật nữa.

Hai người đi mãi, bỗng gặp con rùa bò lê lết bên bờ ao. Rắn bèn thuật lại hoàn cảnh của mình.

Rùa gật đầu:

- Mi nên cắn chủ nhà cho hắn chết. Hắn nuôi mi, tại sao hắn lười biếng để mi chịu đói khát?

Chủ nhà nói:

- Nãy giờ ta chỉ mới gặp hai con vật, con đồng ý, con phản đối. Để giải quyết, ta cần gặp con vật thứ ba.

Quạ đậu ngất nghểu trên cành cây được mời xuống, nghe vừa dứt câu chuyện, quạ nổi giận:

- Đồ vô ơn bạc nghĩa. Ta đố mi chạy thoát.

Rồi quạ mổ liên tiếp vào đầu, vào bụng rắn. Rắn chết ngay tại chỗ, mình mẩy nát bấy.

Nhưng con rắn vẫn chưa chịu thua. Hồn của nó bay vẩn vơ đến tìm đức Như Lai để nhờ phân xử.

Phật nghe rõ câu chuyện, phán rằng:

- Hạc là loài có nghĩa, từ nay ta cho nó đứng trên cao, rùa nói vô lý, ta cho nó bò dưới thấp. Còn rắn là vật vô ơn bị quạ giết đáng lắm. Quạ hãy tha xác rắn bêu lên ngọn cây, nêu gương cho muôn loài vạn vật soi vào đó mà răn lấy mình.

Từ đó về sau, hạc được đứng chầu trên bàn hương án, rùa phải cố sức đội bia đá, quạ đậu trên chót vót cây phướn và hình dáng lòng thòng của lá phướn chính là hình con rắn phơi xác.