← Quay lại trang sách

Chuyện Thầy Thím -

Xưa kia, ở đất Quảng Nam có hai vợ chồng tên Lánh. Họ tu tiên tại làng Trà Luông, huyện Thăng Bình.

Lần lần thầy được nổi danh. Dân chúng cứ tên, gọi chồng là Thầy, vợ là Thím.

Hôm nọ, thấy căn nhà việc đã hư hao, Thầy nói với hương chức làng:

- Để tôi cất lại giùm cái khác.

Ai nấy không tin, ngỡ là Thầy nói chơi. Dè đâu đến nửa đêm, giông bão nổi ầm ầm. Lại nghe tiếng bao nhiêu thợ hò hét, đôn đốc cất cho mau, cùng với tiếng đục, tiếng búa liên hỏi. Sáng ra ai nấy ngạc nhiên, nhà việc làng đã sửa sang lại, to hơn trước.

Nhưng ở làng kế bên, thiên hạ vô cùng bất bình vì trong đêm giông tố vừa rồi, nhà việc của họ bay đi đâu mất. Nghe tin đồn, họ qua làng Trà Luông để nhìn. Sau khi nhìn rõ dấu tích, họ nhận ra: Trên vách tường của nhà việc xưa của họ có dấu vết của một dây trầu leo lên, bây giờ nhà việc của làng Trà Luông cũng có dấu tích ấy. Họ đem đơn kiện lên quan trên.

Bộ Hình ngoài Huế bèn điều tra, sai người vào làng Trà Luông. Hương chức làng nói:

- Chúng tôi không ăn cắp của ai. Nếu có tội thì kẻ thủ phạm là Thầy với Thím.

Tức thời, hai vợ chồng Thầy Thím bị bắt. Quan trên tuyên bố xử tử. Hai vợ chồng của Thầy xin đình lại bản án mà rằng:

- Chúng tôi muốn truyền lại cho nước Nam mình một bảo vật.

Theo lời yêu cầu của Thầy và Thím, quan trên sai người đem lại một vóc lụa dài, viết lông và mực tàu. Thầy bèn vẽ một con Rồng, khúc đuôi vẽ trước. Chừng vẽ xong khúc đầu Rồng, Thầy dùng một bó nhang mà khấn vái rồi vẽ hai con mắt. Sau khi điểm nhãn, Rồng nọ bay bổng, hai vợ chồng Thầy cỡi lên đó mà trốn.

Đến Nha Trang, vợ chồng Thầy Thím xin ở đậu tại nhà của một bà lão tên là bà Xuổi. Thầy có treo một bọc vải ở trong toàn là đậu. Thầy căn dặn không cho ai dòm vào bọc ấy.

Dè đâu, đứa cháu của bà Xuôi có tánh tò mò. Hôm nọ, nghe tiếng thì thào trong bọc vải, nó lén mở ra. Tức thì bao nhiêu binh tướng hiện ra cầm khí giới bao vây đứa cháu nọ. Nó la hoảng, Thầy Thím hay được, trở về, hô phép. Các binh tướng rút trở lại vào hột đậu trong bao.

Ngày mùng năm tháng Giêng năm đó, vợ chồng thầy đều tịch diệt. Quan trên ra lịnh dùng dây sắt mà xiềng mả của hai vợ chồng. Dè đâu ban đêm, voi trong rừng chạy ra, phá vòng xiềng.

Biết đó là thần, nhà vua phong sắc cho hai vợ chồng, Thầy là Chí Đức tiên sanh chi thần, Thím là Chí Đức nương nương.