← Quay lại trang sách

Anh khờ đi buôn Và- Ba phần gia tài

Vào thời Hùng Vương thứ 8, có vợ chồng anh chàng họ Lưu, anh chồng thì hiền như cục bột, hiền đến đỗi mọi người cứ nghĩ anh ta ngớ ngẩn đần độn, trái lại chị vợ khôn ngoan lanh lợi, ngày nào cũng đôn đốc chồng:

- Sao mình không chịu làm gì cả để được giàu sang vinh hiển như người ta?

Anh chồng biết vợ mình không muốn mình ăn không ngồi rồi, nên một hôm bảo vợ:

- Tôi đi buôn đây, mình hãy cấp cho tôi một mớ vốn, tôi sẽ đi ngay.

Người vợ thấy chồng chịu làm ăn buôn bán thì mừng rỡ liền đưa cho 10 nén vàng và sắm sửa đồ đạc để chồng lên đường.

Bước ra khỏi nhà, anh chồng thấy cái gì cũng lạ mắt cả nên lấy làm thú vị lắm. Một hôm đi đến cội cây, anh thấy một lái buôn đang đếm bạc. Anh mới hỏi:

- Bác làm cái gì vậy?

Người lái buôn vọt miệng đáp:

- Tôi đi buôn bạc mới về, nên ngồi đếm lại.

Nghe người kia nói đi buôn bạc, anh chồng lấy làm khoái chí nên xin đổi 10 nén vàng lấy 10 nén bạc, vì anh ta nghĩ đi buôn dễ kiếm lời hơn vàng.

Lấy 10 nén bạc bỏ vào cái túi, anh ta khoan khoái lên đường.

Ngày hôm sau, đi qua một cánh đồng, thấy người mục đồng ngồi trên lưng trâu nghêu ngao ca hát coi có vẻ thảnh thơi sung sướng quá, còn mình phải mang 10 nén bạc kè kè nặng nhọc, nên anh ta xin đổi 10 nén bạc lấy một con trâu, trong khi mỗi con trâu giá chỉ 1 nén bạc. Nhưng anh ta cần gì, miễn ngồi được trên lưng trâu là thỏa thích rồi.

Ít hôm sau, thấy ngồi trên lưng trâu, đi mãi ngoài đường cũng chán, nhân gặp người chăn dê đang nặn sữa dê, uống coi ngon lành, anh ta lại xin đổi trâu lấy con dê. Đến khi con dê ra tỉnh, phải chăn dắt đi giữa chỗ đông người rất là bất tiện, gặp người đang gánh hai thúng giấy tiền vàng bạc trông rất lạ mắt nên anh ta hỏi:

- Này bác ơi, bác gánh cái chi vậy?

Người kia đáp:

- Đây là lụa hoa lê.

Anh liền xin đổi con dê lấy hai thúng giấy tiền vàng bạc.

Gánh hai cái thúng giấy đi nghênh ngang một đỗi, anh ta gặp một ông lão cầm một cái ống thụt nước tưới vườn, anh mới hỏi:

- Thưa cụ, cầm cái chi đó?

Thấy anh ta khờ khạo, ông lão trả lời:

- Đây là cái thúy hoa lung tung bộ không biết sao mà hỏi?

Cũng như mấy lần trước, anh ta xin đổi hai thúng lụa hoa lê lấy cái thúy hoa lung tung.

Thấy có lợi, ông lão đổi liền..

Tới một nơi khác, anh thấy một đám trẻ đang chơi chong chóng, anh liền hỏi đó là cái gì. Một đứa trẻ nhìn anh, cười rồi đáp:

- Đây là cái ba hoa thiên địa.

Nghe lạ anh xin đổi cái thúy hoa lung tung lấy cái ba hoa thiên địa.

Đi đến một cánh đồng thấy hai người đang lui cui bắt con niềng niễng, một thứ côn trùng sắc nâu có cánh, anh mới lên tiếng hỏi. Hai người kia cười khúc khích trả lời:

- Anh dốt quá, bộ không biết ngọc lưu ly hay sao mà hỏi.

Nghe nói ngọc lưu ly, anh khoái lắm liền năn nỉ đổi cho kỳ được. Thế là mười nén vàng đem đi, rốt cuộc chỉ đổi được mấy con côn trùng bé nhỏ. Tuy vậy, anh ta rất mừng, cắc ca cắc củm đem về, định bụng sẽ dâng lên vua xem ngọc lưu ly vì nghe đồn vua rất thích ngọc.

Về đến làng, anh đem trình ngay với chức việc, và nhất định không cho ai mở xem trước, mà phải dâng đến tay vua.

Mấy ngày sau dân làng anh mở hội để rước ngọc lưu ly dâng lên vua xem. Trong số người đi dâng ngọc có cả anh ta. Vợ anh ta hoang mang không hiểu tại sao chồng mình dám làm cái chuyện táo bạo như vậy, nhưng việc đã lỡ rồi có cản ngăn cũng chẳng được.

Đến kinh, cái hộp đựng ngọc lưu ly được chuyển đến Đô Sát viện xem xét trước, anh cũng nhất định không cho quan Đô úy mở ra, lấy cớ làm như vậy phạm thượng. Quan Đô úy cũng không vừa, dọa nếu không để mình xem trước thì sẽ giam giữ anh ta và cả vợ anh ta. Bất đắc dĩ, anh ta phải để quan Đô úy mở nắp hộp.

Khi vừa mở nắp hộp ra, mấy con niềng niễng chớp cánh bay vù khiến cho quan Đô úy sửng sốt, buồn cười còn anh ta thì tiếc rẻ thở vắn than dài, bảo rằng không khéo giữ ngọc thì ngọc bay mất.

Chuyện này thấu đến tai vua, vua liền mời anh ta vào chầu rồi phán:

- Trẫm đã biết chuyện dâng ngọc lưu ly của ngươi rồi, tuy ngươi khờ khạo nhưng thành tâm, vậy ngươi làm cách nào để có cái thứ ngọc lạ kỳ đó?

Anh ta cố nhớ lại rồi nói:

Mười nén vàng này

Mười nén bạc này

Một con trâu này

Một con bò này

Một con dê này

Một gánh lụa hoa lê này

Một cái thúy hoa lung tung này

Một cái ba hoa thiên địa này

Và bao nhiêu công khó nhọc lặn lội khắp nơi mới tìm gặp ngọc lưu ly.

Nghe rồi, vua cười mà rằng:

- Trẫm sẽ đền lại cho ngươi mỗi thứ bằng hai và ban cho chức quan lang, hằng năm hưởng bổng lộc triều đình.

Đoạn vua day quở mắng quan Đô úy đã lạm quyền mở nắp hộp mà không trình lên vua xem trước.

Nhiều người nghĩ rằng gã này khờ dại, nên mới bị người đời gạt gẫm lừa dối trục lợi, nhưng kẻ ở đời hơn nhau ở chỗ thành thật ngay thẳng, đó là phần thưởng xứng đáng cho anh chồng hiền này vậy.

* Ba phần gia tài

Một ông lái buôn tánh tình hiền lành cẩn thận, trước khi nhắm mắt lìa đời, làm một chúc thư để lại phân chia gia tài cho ba đứa con.

Gia tài của ông gồm có 17 con trâu và 19 con heo. Theo chúc thư thì người con cả được một nửa, người con thứ được một phần ba và người con út được một phần chín đàn trâu. Còn heo thì con cả được một phần hai, con thứ một phần tư và con út một phần năm.

Trong chúc thư có dặn hai điều: thứ nhứt không được bán trâu và heo để lấy tiền chia, thứ nhì không được giết hại súc vật, nghĩa là để nguyên vẹn vậy mà chia.

Thật là chuyện rắc rối. Người con cả lên tiếng giành phần:

- Nửa đàn trâu 17 con và đàn heo 19 con, toàn là số lẻ làm sao mà chia?

Đến lượt người con thứ cũng càu nhàu:

- Phần tôi thì một phần ba đàn trâu là 5 con với hai phần ba và một phần tư đàn heo tức 4 con với ba phần tư. Như vậy phải giết trâu và heo mới chia được, mà cha thì cấm giết.

Người con út cũng tỏ vẻ bực mình:

- Phần tôi được một phần chín đàn trâu và một phần năm đàn heo như thế cũng chẳng chia quái gì được trừ phi xả thịt nó ra.

Gặp sự rắc rối như vậy, cả ba anh em không ai chịu nhân nhượng ai, triệt để giữ đúng các phần chia trong chúc thư, không ai ưng chịu sửa đổi một khoản nào.

Ban đầu còn bàn bạc nhỏ nhẹ với nhau, sau rồi sanh ra cãi vã to tiếng với nhau. Cuối cùng, người con cả đề nghị:

- Trong nhà phân xử không xong, thì cứ nhờ người ngoài phân xử vậy.

Cả ba cùng tới nhà một ông đồ nho giỏi về xử lý.

Lúc bấy giờ ông đồ đang ngồi xem sách, chợt thấy ba anh em kéo tới, biết có rắc rối về chuyện chia phần nên bảo:

- Ừ, nếu các anh đem việc này tới cửa công thì tốn kém rất nhiều, còn với tôi, chỉ lấy chút đỉnh công lao thôi. Vậy các anh định phần công lao của tôi bao nhiêu?

Sau một hồi bàn tính, họ dành phần ông đồ ba con heo.

Tảng sáng hôm sau, ông đồ dắt một con trâu và một con heo đến nhà ba anh em người lái buôn, rồi thả hai con vật này nhập vào bầy trâu và heo. Xong rồi, ông gọi tất cả ba anh em đến hỏi:

- Bây giờ trong chuồng có bao nhiêu con trâu vậy các chú

Cả ba trả lời 18 con. Ông đồ hỏi:

- Này chú Hai, phần của chú bao nhiêu?

- Thưa một nửa đàn trâu tức là 9 con.

Ông đồ bảo:

- Vậy chú hãy vào bắt 9 con của chú đi.

Người thứ hai mừng rỡ và thấp thỏm sợ ông đồ biết về phần lợi của mình, đúng lẽ thì chỉ 8 con và một phần hai con chớ không được chọn 9 con.

Quay sang chuồng heo, ông đồ hỏi tiếp:

- Bây giờ có cả thảy bao nhiêu heo vậy chú?

- Dạ 20 con.

- Phần của chú Hai bao nhiêu?

Người thứ Hai đáp:

- Nửa đàn là 10 con.

Ông đồ ra lịnh:

- Chú hãy bắt lấy đủ 10 con nhưng trừ con của tôi lại.

Người thứ hai lấy đủ phần của mình rồi, lật đật đem trâu và heo về nhà, chỉ để lại cho ông 1 con heo phần công lao.

Giờ đến lượt người con thứ:

- Thưa cụ tôi được một phần ba, vậy cụ chia cho.

Ông đồ hỏi:

- Một phần ba của đàn trâu 18 con là bao nhiêu vậy chú Ba?

- Dạ 6 con.

- Được rồi, chú mau vào chuồng bắt 6 con của chú ra, nhưng nhớ để con có dấu của tôi lại. A còn heo, chú được mấy phần?

- Thưa một phần tư tức là 5 con.

- Vậy chú cứ bắt 5 con, nhớ để cho tôi một con heo phần công lao nhé.

Người con thứ cũng như người con trưởng lật đật đem phần chia đi không cần bàn cãi gì nữa cả.

Đến lượt người con út, ông đồ hỏi:

- Này chú, chú được bao nhiêu phần trâu và heo?

Người này đáp:

- Dạ một phần chín đàn trâu và một phần năm đàn heo.

Ông đồ tính toán xong liền bảo:

- Chú hãy vào chuồng bắt hai con trâu và hai con heo, nhưng nhớ để tôi một con heo phần công lao.

Người con út cả mừng vì đúng lẽ anh chỉ được ba con và bốn phần năm thôi, thế mà được những bốn con thì có lợi vô cùng. Trong khi ấy ông đồ trở về nhà với một con trâu và ba con heo, tất nhiên là ông cũng có lợi.