← Quay lại trang sách

Mãng Xà Vương ở Tân Bằng Và-Tiếng hát của Hà Ô Lôi

Xưa kia, quan ngự y Nguyễn Hữu Long chạy theo phò tá chúa Nguyễn Ánh. Vì quân Tây Sơn đuổi theo ráo riết, quan ngự y chạy lạc đến Tân Bằng, thuộc sông Cán Giáo, vùng U Minh Thượng, tỉnh Rạch Giá (Kiên Giang).

Vừa đến xóm, bỗng nghe tiếng chiêng trống nổi lên inh ỏi, quân sĩ đến thám thính rồi trở về báo cáo:

- Thưa ngài, dân trong xóm đang làm lễ. Họ bắt đứa bé, đem tắm rửa sạch rồi đốt hương trầm, chờ hiến dâng cho Mãng Xà Vương.

Quan ngự y hỏi:

- Chừng nào Mãng Xà Vương đến?

- Dạ, chúng tôi chưa rõ.

Nghe xong, quan ngự y bèn đến nơi, hỏi han dân chúng. Các kỳ lão đều tỏ vẻ sợ hãi, trình bày đầu đuôi sự việc. Hằng năm, đúng dịp, hai con Mãng Xà Vương từ ngoài biển khơi vịnh Xiêm La đến khuấy rối xóm làng. Đôi Mãng Xà Vương nọ to như cái khạp bò, khi chúng đến, cả khu rừng rung chuyển, nổi giông gió, sập nhà cửa. Dân làng khấn vái, hứa nạp cho Mãng Xà Vương hằng năm hai đứa trẻ. Nhờ vậy, chúng không còn hung hăng như trước.

Nhìn qua cuộc lễ, quan ngự y vô cùng xúc động, nhất là khi ông thấy hai đứa bé vô tội kia.

Quan ngự y hỏi nhanh:

- Chừng nào Mãng Xà Vương đến?

Các kỳ lao thưa:

- Dạ, tối mai vào khoảng canh ba, giờ Tý.

- Các ông cứ yên trí, nghe lời tôi.

- Dạ, rủi bề gì “họa hổ bất thành”, gây thêm tai hại cho dân chúng trong xóm.

- Đừng ngại, ta cứ làm như vầy, như vầy. Điều quan trọng là đừng tiết lộ trước, e dân chúng xôn xao khiến kế hoạch có thể thất bại.

Thế là ngày hôm sau, đích thân quan ngự y điều khiển vài người dân tín cẩn, bảo họ tìm hai con chó thật mập, đem về cạo lông, mổ ruột tại căn chòi xa vắng trong rừng.

Mặt khác quan ngự y truyền cho quân sĩ tán vài vị thuốc cho thật nhuyễn. Đâu đó xong xuôi, quan bèn dạy họ bỏ thuốc tán ấy vào bụng hai con chó, may ruột thật kín.

Đêm hôm sau, dân chúng tề tựu đến sân lễ. Chạ mẹ của hai đứa bé thấy con mình bị nhịn đói, ngất xỉu trong bầu không khí đầy khói trầm ngột ngạt, khóc la thảm thiết.

Đến canh hai, các kỳ lão đứng ra kêu gọi dân chúng:

- Bà con hãy yên tâm, rút lui vào nhà. Đừng lấp ló ngoài cửa mà chết oan mạng.

Ai nấy ngơ ngác nhưng rốt cuộc đành tuân lời. Riêng có cha mẹ và thân nhân của hai đứa bé thì cứ ngã lăn ra mà khóc mãi.

Chờ khi mọi người đã khuất dạng, quan ngự y Nguyễn Hữu Long nói với cha mẹ hai đứa bé nọ:

- Bây giờ, các người cứ đem con về, đừng cho chòm xóm hay biết.

Họ ngơ ngác:

- Chúng tôi sợ Mãng Xà Vương trả thù.

- Thôi, cứ đi mau. Lát nữa đây, ta đủ tài trí ứng phó.

Sau đó, theo lệnh của quan ngự y, quân sĩ đem hai con chó dồn thuốc nọ ra sân. Quân sĩ dựng hai con chó theo dáng điệu của đứa trẻ quỳ.

Họ dùng mực và son để tô miệng và mắt chó cho giống với mặt đứa bé.

Quan ngự y căn dặn lần chót:

- Những anh nào chuẩn bị nước sơn? Đã tới chưa?

Vừa dứt lời, cây rừng chuyển răng rắc như giông bão. Quan ngự y khoát tay, bảo những người còn lại:

- Chúng ta hãy núp cho thật kỹ để chờ cơ hội...

Ngoài sân, đỉnh trầm bay nghi ngút. Hai con chó cạo lông, xem trắng phều, mơ hồ giống như hai đứa bé.

Bỗng đâu, giông gió im bặt. Hai con Mãng Xà Vương xuất hiện, bò sát đất, từ từ xáp lại gần đỉnh trầm rồi dựng mình lên, khoe cái mồng khá to, múa qua múa lại.

Quan ngự y mừng thầm nói với quân hầu:

- Chúng nó quá tin nơi hai con chó. Trước khi đớp mồi, Mãng Xà Vương còn giỡn mồi. Rõ ràng chúng đi cặp một con đực một con cái.

Vài phút sau, hai con Mãng Xà Vương quấn lấy mồi, nuốt trọn vào họng rồi bò tới bò lui, dáng điệu càng lúc càng uể oải.

Chất thuốc mê hồn ngấm dần...

Chẳng bỏ lỡ cơ hội, quan ngự y khoát tay ra hiệu lệnh. Bọn quân hầu đem nước sơn ra, tiến dè dặt đến bên cạnh hai con ác thú.

- Sơn cho nhanh lên, mỗi con một màu khác nhau.

Mãng Xà nằm mê man. Quân hầu tha hồ sơn phết: con đực sơn xanh, con cái sơn đỏ.

Các vị kỳ lão hỏi khẽ:

- Tại sao thượng quan chưa ra lệnh giết nó?

Quan ngự y đáp:

- Thế của nó tuy vậy chớ vẫn còn mạnh. Quân hầu của ta chỉ gồm vài người, nhưng ta bảo đảm từ rày về sau chúng nó sẽ chẳng dám trở lại gây rối nữa.

Hai con Mãng Xà bỗng cựa quậy vì chất thuốc mê lần lần mất công hiệu. Nhưng khi nhìn nhau, trông thấy những màu sắc kỳ lạ, chúng trở nên hốt hoảng, xem nhau như kẻ thù khác loại, quá xa lạ. Thế là con Mãng Xà đực và con Mãng Xà cái nổi giận, cắn nhau, rượt nhau như giông như gió, đi mất dạng về phía vịnh Xiêm La.

Từ đó về sau, chẳng bao giờ đôi Mãng Xà nọ trở lại đất liền nữa.

Tiếng hát của Hà Ô Lôi

Trong Lĩnh Nam Chích Quái có chép sự tích chàng Hà Ô Lôi như sau:

Đời nhà Trần, quan An Phủ Sứ vâng lệnh vua đi sứ qua bên Trung Hoa. Quan tên thật là Đặng Sĩ Dinh, cư ngụ tại làng Ma La.

Người vợ của Đặng Sĩ Dinh ở nhà một mình. Đêm đêm, vị thần của làng Ma La bèn giả dạng Đặng Sĩ Dinh, lén vào phòng của người vợ để tư thông.

Đến lúc hừng sáng, vị thần ấy bèn biến mất.

Thấy chuyện lạ kỳ, người vợ bèn hỏi chồng (tức là thần Ma La trá hình):

- Tại sao chàng đi sứ tận bên Trung Hoa mà ban đêm lại về nhà được như vậy? Ban ngày, chàng ở đâu?

Thần Ma La đáp:

- Vua đã sai vị quan khác đi sứ thế cho ta. Hàng ngày, ta hầu vua, đánh cờ với vua. Lúc ban đêm rảnh rang, nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng, ta lén về nhà thăm nàng. Hừng sáng, ta phải đi ngay, kẻo vắng mặt ta, vua quở trách.

Cuộc ái ân thầm kín nọ kéo dài khá lâu, người vợ mang thai.

Năm sau, Đặng Sĩ Dinh đi sứ trở về nhà, thăm vợ. Thấy ngày sanh của vợ đã gần kề, Sĩ Dinh nổi giận, tố cáo với vua. Vua truyền hạ ngục người đàn bà mất nết ấy.

Một đêm nọ, vua chiêm bao thấy vị thần mách bảo:

- Ta là thần Ma La, bấy lâu nay ta ăn ở với vợ Sĩ Dinh. Tại sao Sĩ Dinh ngày nay cướp vợ và con ta? Xin nhà vua phân xử?

Vua đáp:

- Được rồi, ta hứa giải quyết ổn thỏa đôi bề.

Rạng ngày hôm sau, nhớ đến giấc mộng, vua gọi Sĩ Dinh đến phán rằng:

- Ta trả tự do cho vợ ngươi. Từ rày về sau ngươi phải ăn ở thuận hòa với vợ. Còn đứa con trong bào thai, sau khi chào đời, phải giao cho thần Ma La.

Để đánh tan sự thắc mắc của Sĩ Dinh, nhà vua thuật lại những điều nghe thấy qua giấc thần mộng.

Ba ngày sau, đứa bé ra đời, nước da của nó đen như mực, láng bóng như thoa mỡ. Vua bèn trợ cấp nuôi dưỡng nó. Năm nó được 15 tuổi, vua cho phép nó được tự do ra vào hoàng thành.

Đứa bé ấy là Hà Ô Lôi. Một hôm dạo chơi xa hoàng thành, Hà Ô Lôi gặp tiên ông Lã Đồng Tân (một vị trong số Bát tiên).

Lã Đồng Tân hỏi:

- Ngươi có cầu mong điều gì không? Ta sẵn sàng giúp đỡ.

Hà Ô Lôi đáp:

- Thưa tiên ông, tôi chẳng muốn làm vương làm tướng gì cả. Tôi chỉ muốn có gương mặt xinh xắn, giọng ca lảnh lót.

Lã Đổng Tân nói:

- Ngươi ao ước có thanh sắc, nguy hiểm lắm. Người có sắc đẹp, hát hay thường gặp điều hoạn nạn. Rốt cuộc, chỉ còn chút danh tiếng mà thôi. Nhưng ngươi ao ước như vậy, lẽ đâu ta chẳng chiều lòng.

Nói xong, Lã Đóng Tân bảo Ô Lôi há miệng ra, rồi nhổ một chút nước miếng vào miệng nó.

Từ đó về sau, Ô Lôi trở nên thông minh, lanh lẹ khác thường. Chàng ta xuất khẩu thành thơ, giọng ngâm lại thanh tao quyến rũ lạ thường, các tiểu thư say mê chàng ta, muốn nhìn tận mặt chàng để kết thân, giao duyên. Tin ấy đến tai vua, vì quá thương mến Ô Lôi, vua ra lệnh cho dân chúng:

- Nếu Ô Lôi gian phạm với con gái nhà ai, quan quân nào bắt hắn tại trận, dẫn về vua răn phạt thì sẽ được thưởng 1.000 quan. Bằng ai quá hung hăng, lỡ tay giết chết Ô Lôi thì vua sẽ phạt một vạn quan.

Bấy giờ, ở làng Nhân Mục, có một nàng quận chúa tên là A Kim, nhan sắc tuyệt đẹp. Nàng góa chồng, vua mến yêu nàng nhưng nàng vẫn khăng khăng từ chối.

Vùa bèn bảo Ô Lôi:

- Quận chúa A Kim quá đoan trang, kiêu căng. Ngươi có mưu kế gì chăng? Ngươi có cách nào gần gũi với quận chúa, ta khen thưởng đấy.

Ô Lôi suy nghĩ hồi lâu rồi đáp:

- Thần nguyện dùng mọi cách để quyến rũ cho kỳ được quận chúa A Kim. Trong vòng một năm, nếu điện hạ không thấy thần trở về hoàng thành, ắt là cơ mưu bại lộ, thần bị ám hại.

Vua nhận lời. Ô Lôi lạy vua ra đi. Anh ta bèn cải trang, giả dạng như đứa giữ ngựa, ăn mặc rách rưới, tay xách cái giỏ tre. Đến dinh của nàng quận chúa, anh ta mua trầu cau, tặng cho đứa thị tì để xin phép vào cắt cỏ ngựa trong vòng rào.

Nhưng khi vào trong, thay vì cắt cỏ, Ô Lôi bèn cố ý cắt tất cả các loại hoa lài, hóa sói trong vườn.

Đứa thị tì tức giận, la lên:

- Quân gian ác? Mi lẻn vào đây phá hoại vườn hoa. Để ta trình với bà quận chúa, bắt trói mi cho đáng tội.

Bị giam trong dinh vài ngày sau, đứa thị tì hỏi Ô Lôi:

- Ngươi làm công cho ai? Tại sao chẳng thấy ai đến đây xin lỗi quận chúa, lãnh cho ngươi về?

Ô Lôi bèn thưa:

- Tôi là kẻ vô gia cư, vô nghề nghiệp, không cha không mẹ. Hôm nọ có vị quan đi ngang qua đây mướn tôi cắt cỏ. Tôi quá mừng nhưng vì người dốt, cắt mớ hoa quý mà ngỡ rằng cắt cỏ. Bây giờ, tôi xin ở đây, làm nô tỳ cho bà quận chúa để hy vọng được tha tội.

Thế là Ô Lôi được nhìn nhận là kẻ gia nhân của quận chúa A Kim. Trong lúc ra vào để làm công việc lặt vặt, Ô Lôi bèn trổ tài ca xướng, ngâm thi vịnh phú. Cả gia nhân và luôn cả quận chúa A Kim đều say mê giọng ca thiên phú của Ô Lôi. Một hôm trời đã quá tối mà cả bọn nữ tỳ đều quên thắp đèn trong dinh. Quận chúa gọi chúng đến, quở mắng một trận nên thân:

- Tại sao bọn ngươi xao lãng công việc trong dinh? Chừng này mấy giờ rồi?

Cả bọn nữ tỳ quỳ xuống chịu tội. Một đứa mạnh dạn trình bày lý do:

- Thưa quận chúa, chiều nay chúng con nghe thằng cắt cỏ ca hát quá hay. Thật là mê hồn, từ hồi nào đến giờ, chưa ai tài giỏi như nó.

Quận chúa A Kim bắt đầu suy nghĩ, cảm thấy bọn nữ tỳ thành thật. Nàng chú ý những đêm kế tiếp, cứ lúc chạng vạng, Ô Lôi rảnh rang công việc lại hát lên lanh lảnh theo lời yêu cầu dồn dập của bọn nữ tỳ. Tuy nằm trong phòng the, ngăn cách với bên ngoài nhưng quận chúa vẫn nghe con tim cô độc của mình rung động. Quả thật, hắn là kẻ có biệt tài.

Với bản chất đa sầu đa cảm, quận chúa gọi Ô Lôi đến, nói giọng thân mật:

- Từ rày về sau ta cho phép ngươi làm gia đồng, ngươi được quyền ra vào phòng ta, chờ ta sai bảo những công việc riêng. Ngươi khỏi chẻ củi cắt cỏ nữa.

Lâu ngày, Ô Lôi trở thành người hầu thân tín nhất của quận chúa. Công việc của anh ta trở nên nhẹ nhàng, thích thú. Thỉnh thoảng, quận chúa ra lệnh cho anh ta ngâm thơ, ca hát. Ban đêm, anh ta cầm đèn đứng hầu cho quận chúa đọc sách, ngâm thơ.

Ngày qua tháng lại, quận chúa đem lòng yêu thương chàng nô tỳ trẻ tuổi ấy, ghiền giọng cười tiếng nói của anh ta. Nhưng vì lễ giáo ràng buộc, quận chúa tránh tiếng, e gây dư luận không tốt.

Nàng bắt đầu mang bệnh tương tư, sức khỏe ngày càng hao mòn. Trong khi ấy, hằng đêm, giọng ca của Ô Lôi như thúc giục, quyến rũ quận chúa đi vào con đường tội lỗi.

Đêm ấy, chờ cho bọn nữ tỳ ngủ say, quận chúa A Kim nói khẽ với Ô Lôi:

- Bấy lâu, ta cảm mến ngươi, giọng hát thiên phú của ngươi khiến ta nhuốm bệnh tình. Đêm nay, ta với ngươi cứ ở trong phòng này cho đến sáng.

Sau những ngày ân ái toại nguyện, bệnh tình của quận chúa thuyên giảm rồi dứt hẳn. Quận chúa cảm thấy yêu đời, bất chấp dư luận và màu da quá đen đúa của Ô Lôi, nàng nói:

- Ta sẵn sàng giúp ngươi tiền bạc, ruộng đất để ngươi trở nên người khá giả suốt đời sống bên cạnh ta, ngươi nghĩ sao?

Ô Lôi nhanh trí đáp ngay:

- Đời tôi không cha mẹ họ hàng, nay được quận chúa đoái nghĩ đến, thật quá lòng mong ước của tôi. Điền sản, vàng bạc, ngọc ngà châu báu tôi không cần, tôi chỉ muốn một điều này, nếu toại nguyện thì dầu chết cũng vui.

Quận chúa A Kim hỏi nhanh:

- Ngươi cứ nói.

- Tôi chỉ nguyện được thấy cái mũ vàng khảm ngọc của quận chúa, đội thử lên đầu một lần.

Vì yêu đương quá mức, quận chúa sẵn sàng nhận lời:

- Dễ quá! Nếu cần, ta tặng cho ngươi làm của riêng, gọi là kỷ niệm.

Cái mũ quý giá ấy vốn của tiên đế ban cho quận chúa, để nàng đội khi dự lễ trong triều đình. Bấy giờ, Ô Lôi, mừng rỡ, mang cái mũ ấy, lẻn trốn ra khỏi dinh của quận chúa, trở về hoàng thành ra mắt vua, tường trình tất cả mọi việc.

Vua cười vui, lập tức gọi quận chúa A Kim vào chầu. Trong khi đó, Ô Lôi nghiễm nhiên đội cái mũ ấy, đứng bên cạnh vua.

Gặp quận chúa, vua chỉ vào Hà Ô Lôi rồi hỏi nàng:

- Có biết tên đội mũ này không?

Quận chúa A Kim bẽn lẽn, hiểu rằng nhà vua muốn chế giễu, mỉa mai để trả thù nàng. Nàng ra về. Tin ấy loan truyền khắp trong hoàng tộc. Ai nấy đều chế nhạo quận chúa A Kim đồng thời tài năng của Hà Ô Lôi cũng nhờ đó mà được nhiều người chú ý hơn.

Nhờ địa vị là kẻ thân tín của vua, Ô Lôi cứ tiếp tục ra vào các dinh thự, ngâm thơ, ca hát và dụ dỗ các cô gái quyền quý. Tuy biết anh là phường Sở Khanh nhưng rốt cuộc nhiều người vẫn sa vào cạm bẫy.

Đôi khi, hắn bị bắt gặp quả tang nhưng ai nấy đều ngán uy quyền của nhà vua, chưa dám đập hắn thẳng tay, sợ vua bắt phạt tiền.

Nhưng thói thường “ăn quen chồn đèn mắc bẫy”, phen nọ Hà Ô Lôi ăn thông với con gái đầu lòng của Minh Uy Vương. Vương bèn bắt hắn, giam trong phòng nhưng chưa dám giết cho hả cơn giận. Ông đến hoàng cung, xin gặp mặt vua để tố cáo:

- Tâu điện hạ, Hà Ô Lôi lẻn vào nhà của thần, ban đêm thần lỡ tay đánh chết vì chẳng phân biệt được, lúc trời tối.

Nhà vua ngỡ rằng Ô Lôi đã chết thật nên phán như sau, để làm thỏa lòng người trong hoàng tộc:

- Nếu hắn phạm tội, bắt tại trận, giết hắn rồi thời thôi, ta chẳng phiền hà gì cả.

Thế là Minh Uy Vương về nhà, hạ lệnh giết Ô Lôi. Trước khi sắp chết, Ô Lôi nhớ đến lời của Lã Đồng Tân ngày xưa, hiểu rằng tiên ông đã dạy rất đúng.