Thầy pháp sợ ma - Và-Dốt đặc hơn hay chữ lỏng
Ở xóm Đông, có một ông lão thầy pháp lừng danh. Một hôm nọ, lúc ăn cơm, vợ của lão bèn hỏi ướm thử:
- Mình sợ ma quỷ không? Ma quỷ có thật hay không?
Lão cười rồi đáp:
- Nhất định có ma quỷ và tôi chẳng bao giờ sợ chúng nó. Nghề của tôi rất già dặn, dẫu ma quỷ thứ dữ, tôi trừ gấp một khi. Nếu non tay ấn, tôi đã bị chúng nó vật từ lâu rồi.
Nhưng người vợ vẫn chưa tin, tìm cách thử thách tài năng chồng mình. Chiều hôm đó, lão đi làm đám ở xóm bên cạnh. Vợ lão đứng nép vào bụi cây rậm rạp, tay cầm khúc củi cháy dang dở.
Trong đêm khuya, lão phù thủy lò mò lần bước trở về, mang cái đãy xôi, chuối, gà luộc của thân chủ tặng cho. Vợ lão hay trước, bèn thổi lên cho đóm than cháy đỏ, đón đường lão, từ từ nâng khúc than cháy đỏ lên cao, hơ qua hơ lại như bóng oan hồn yểu tử bay vật vờ trong cõi âm.
Lão hoảng hốt, rởn tóc gáy, sực nhớ tới mấy câu thần chú trừ tà. Lập tức lão thủ bộ, bỏ đãy xôi thịt xuống đất hai tay chắp bắt ấn, miệng đọc lẩm bẩm:
- Yểm thiên lý thu lai, vạn lý thu lai?
Vợ lão nín cười, đi xăm xăm lại gần, huơ tới huơ lui khúc củi cháy dang dở.
Lão thầy pháp sợ điếng hồn, tay chân run lẩy bẩy, quên cả việc bắt ấn, quên cả đãy xôi thịt. Lão ta cắm đầu chạy thẳng về nhà, miệng đọc hớt hải:
- Yểm thiên lý... Yểm vạn lý... Trời đất ơi, tha tội cho tôi, tội nghiệp tôi. Sáng mai tôi sẽ cúng xôi cho các người.
Chờ cho lão chạy khuất dạng, vợ lão bước ra đường xách cái đãy, ung dung trở về, đem giấu kín trên giàn bếp.
Sáng hôm sau, lão cố giữ nét mặt trầm tĩnh, vợ lão hỏi:
- Mình đói bụng không?
Lão đáp:
- Đói chớ.
- Vậy thì vợ chồng mình cùng ăn bữa xôi thịt.
Nói xong, bà vợ đem mấy vắt xôi đặt vào đĩa rồi rút con gà luộc trong đãy, đem chặt từng khúc.
Lão trố mắt...
- Xôi này giống như xôi... Con gà này giống như con gà...
Bà vợ nói nhanh:
- Mình lẩm cẩm quá. Xôi là xôi, gà luộc là gà luộc. Con ma hồi tối là... con ma, chẳng có gì ngạc nhiên cả.
Lão thầy pháp cúi đầu ăn miết, mặt mày sượng sùng, hiểu rằng mình đã mắc mưu của vợ hồi tối.
Dốt đặc hơn hay chữ lỏngÔng bá hộ nọ sinh ra hai người con gái xinh đẹp. Với bản chất lo xa, ông gả con gái lớn cho anh thanh niên dốt đặc, suốt ngày anh ta chỉ biết chăm lo đồng áng. Riêng về đứa con gái út, ông gả cho một chàng nho sĩ đang học dở dang.
Hôm nọ, nhân lúc rảnh rang, ông bá hộ rủ hai chàng rể đi dạo chơi ngoạn cảnh. Trên dòng sông trong vắt, nước chảy êm đềm, ông thấy một con ngỗng vừa lội, vừa kêu inh ỏi.
Ông bèn hỏi:
- Này hai con, tại sao con ngỗng kêu to như thế?
Chàng rể thứ, ỷ mình biết chút ít chữ nghĩa bèn vỗ trán suy nghĩ, long trọng nói:
- Trường cảnh tắc đại thanh.
Trong khi ấy, chàng rể lớn giải thích:
- Con ngỗng kêu to vì trời sanh nó sẵn như vậy!
Lát sau, ông bá hộ lại gặp một con vịt lội tung tăng trong ao, ông hỏi hai chàng rể:
- Tại sao nó nổi trên mặt nước?
Chàng rể nho sĩ nói câu chữ:
- Đa mao thiểu nhục tắc phù.
Chàng rể nông dân lắc đầu:
- Chẳng có gì lạ cả. Trời sanh nó nổi thì nó nổi...
Mãn cuộc du ngoạn, ông bá hộ đưa hai chàng về nhà uống rượu, ông gật gù khen người rể thứ:
- Con học nhiều, rành sách vở thánh hiền. Hồi nãy con giải đáp rành rẽ, cha lấy làm hài lòng...
Người rể lớn nghe vậy, tỏ thái độ bất mãn:
- Vậy chớ hồi nãy khi thấy con ngỗng kêu lớn tiếng, dượng Ba nói câu gì?
Người rể thứ đáp:
- Trường cảnh tắc đại thanh, nghĩa là cổ dài thì kêu tiếng to lớn.
Người rể lớn đáp:
- Vô ích quá. Vậy chớ con ếch, con ễnh ương đâu có cổ dài, chúng nó vẫn kêu to! Còn dượng cắt nghĩa tại sao con vịt nổi trên mặt nước?
- Tôi nói: Đa mao thiểu nhục tắc phù, nghĩa là nhiều lông, ít thịt thì nó nổi.
Người rể lớn cãi:
- Vậy chớ chiếc thuyền đâu có lông, đâu có thịt mà nó vẫn nổi trên mặt nước? Tóm lại, hai câu chữ nho của dượng Ba đều... trật cả. Theo ý kiến nông cạn của tôi thì “ngỗng kêu lớn tiếng”, “vịt nổi trên mặt nước” đều do trời sinh ra như thế, chẳng cần giải thích lôi thôi.
Người rể nho sĩ lắc đầu, nhìn nhận rằng lời nói ngang của chàng dốt kia cũng có lý.
Ông bá hộ bèn cười khì, lẩm bẩm:
- Thế mới hay, lời tục thường nói: Thà dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng.