← Quay lại trang sách

Phần I - Một Copenhagen 1925

Vợ anh là người biết đầu tiên. Vào buổi chiều hôm đó, Greta gọi với ra từ phòng ngủ: “Anh giúp em làm một việc được không? Giúp em việc này một chút thôi.”

“Tất nhiên rồi,” Einar đáp lại, ánh mắt vẫn chăm chú vào khung vải bố, “bất kỳ điều gì em muốn.”

Đó là một ngày hơi lạnh với từng đợt gió rét thổi vào từ biển Baltic. Họ đang sống cùng nhau trong căn hộ tại khu nhà Widow House. Einar, người đàn ông với vóc người nhỏ nhắn và chưa đầy ba mươi lăm tuổi, đang ngồi khắc họa lại khung cảnh mùa đông trên biển Kattegat dựa trên trí nhớ của mình. Vùng biển đen ngòm với những con sóng bạc đầu hung dữ chính là nơi đã chôn vùi hàng trăm ngư dân đang trên đường về cảng Copenhagen với mẻ cá biển đánh bắt được. Người hàng xóm sống ngay dưới lầu cũng là thủy thủ, một gã đàn ông với cái đầu nhìn như hình viên đạn và hay chửi rủa vợ mình. Đang vẽ đến phần sóng cuộn màu xám xịt cho từng ngọn sóng, Einar tưởng tượng đến hình ảnh gã thủy thủ kia sắp chết đuối, bàn tay giơ cao trong tuyệt vọng nhưng vẫn dùng cái giọng rề rà nát rượu chửi mắng vợ mình là con điếm xứ cảng. Nhờ vậy mà Einar đã biết mình cần phối màu tối đến mức nào: màu sắc phải xám xịt đủ để nuốt chửng cái loại đàn ông như vậy, giống như bột nhão đang nhấn chìm tiếng gầm nhỏ dần của gã ta.

Trẻ tuổi hơn chồng mình, Greta trông rất duyên dáng với khuôn mặt căng tròn mịn màng lên tiếng: “Em sẽ ra ngay sau một phút nữa, rồi chúng mình bắt đầu.”

Trong hội họa, Einar cũng khác hẳn vợ mình. Anh thường vẽ cảnh địa phương hoặc cảnh biển. Khung cảnh trong những bức tranh hình chữ nhật của anh thường được chiếu sáng bởi nắng rọi xiên vào tháng sáu, hoặc là ánh sáng mờ nhạt của mặt trời tháng giêng. Greta thì lại chuyên về vẽ chân dung cho những người có chút ít thế lực. Cô thường vẽ họ với đôi môi hồng, từng thớ tóc sáng bóng và thường là với tỉ lệ thực. Herr I. Glückstadt, nhà tài phiệt đứng sau việc thiết lập Khu cảng Tự Do Copenhagen. Christian Dahlgaard, nhà kinh doanh chuyên về da lông thú của nhà vua. Ivar Knudsen, thành viên quản trị của hãng đóng tàu Burmeister & Wain. Và nhân vật của ngày hôm nay là Anna Fonsmark, cô ca sĩ có giọng nữ trung của Nhà hát Hoàng gia Đan Mạch. Nhiều giám đốc điều hành và các nhân vật có máu mặt của ngành công nghiệp thường đặt Greta vẽ tranh chân dung để trưng bày trong văn phòng, trên ngăn tủ đựng hồ sơ hoặc treo dọc hành lang hay bị chặn ngang bởi xe đẩy hàng của công nhân.

Greta xuất hiện tại khung cửa. “Anh có chắc là anh không cảm thấy phiền nếu tạm ngưng tay một chút để giúp em không?” Khẽ vuốt tóc ra sau, cô hỏi. “Em sẽ không nhờ anh nếu là việc không mấy quan trọng. Nhưng mà Anna lại hủy hẹn rồi. Anh giúp em ướm thử đôi tất lụa và cả đôi giày của cô ấy, được không?”

Từ phía sau Greta, ánh mặt trời tháng tư rọi qua tấm lụa mềm mại nằm trong bàn tay cô ấy. Nhìn ra ngoài cửa sổ, Einar có thể thấy tháp Rundetarn trông như một ống khói bằng gạch khổng lồ và ngay trên bầu trời là chiếc máy bay của hãng Deutscher Aero-Lloyd đang hối hả bay ngược về Berlin.

“Greta”, anh hỏi lại, “ý em là sao?” Một giọt sơn dầu rơi từ cây cọ vẽ xuống đôi ủng mà anh đang mang. Chú chó Edvard IV bắt đầu sủa vang, cái đầu trắng muốt cứ quay qua quay lại giữa Einar và Greta.

Greta giải thích: “Anna lại hủy hẹn rồi. Cô ấy phải tập luyện thêm cho vở Carmen. Em thì lại cần hình mẫu của một đôi chân để hoàn thành bức vẽ của cô ấy, không thì chẳng biết lúc nào xong được. Và em chợt nghĩ là thay thế bằng chân anh cũng được mà.”

Greta bước đến gần chồng mình, trên tay là một đôi giày màu vàng mù tạt với những cái khóa bằng thiếc. Cô đang mặc một chiếc áo khoác có hàng nút ở phía trước và có cả túi hộp để nhét những thứ linh tinh mà cô không muốn cho Einar thấy.

“Nhưng anh không thể mang giày của Anna được”, Einar đáp lời. Ngắm nghía đôi giày, Einar nghĩ đến cảnh chiếc giày sẽ ôm khít đôi chân nhỏ nhắn khum khum và hơi đệm cao ở phần gót của mình. Những ngón chân của anh khá mảnh dẻ với chỉ vài cọng lông tơ màu đen. Anh lại hình dung ra cảnh tượng đôi tất lụa hơi nhàu khẽ cuộn và lướt qua chỗ xương mắt cá chân trắng ngần. Rồi bao bọc lấy phần bắp đùi. Gắn liền với phần móc của nịt bít tất. Einar buộc phải nhắm mắt lại.

Đôi giày trông y hệt như thứ mang trên chân con ma-nơ- canh mặc bộ váy màu lam đậm mà họ đã thấy qua khung kính tại cửa hàng bách hóa Fonnesbech. Eirnar và Greta phải dừng lại để ngắm nhìn qua khung kính đã được trang trí bằng vòng hoa trường thọ. Greta xuýt xoa: “Đẹp thật, phải không anh?” Khi thấy chồng mình không phản ứng gì, và phản chiếu từ tấm kính là hình ảnh đôi mắt anh mở to, Greta đã phải kéo Einar ra khỏi khung kính của cửa hàng Fonnesbech. Cô kéo anh ra ngoài đường lớn, băng qua cửa hàng bán ống nước, hỏi han: “Einar, anh không sao chứ?”.

Phòng phía trước của căn hộ được dành ra làm xưởng vẽ. Trần nhà được chống đỡ bằng những cây xà mảnh, cong cong thành mái vòm trông như chiếc thuyền đánh cá bị lật úp. Hơi nước từ biển đã làm cong vênh những cửa sổ ở mái nhà, còn sàn nhà thì nghiêng rất nhẹ về hướng tây. Khi chiều xuống, mặt trời chiếu thẳng vào khu nhà Widow House, một mùi cá biển nhàn nhạt sẽ len lỏi vào từ các vách tường. Vào mùa đông, mưa phùn sẽ rỉ qua những chỗ dột trên phần mái kính, làm phồng rộp lớp sơn trên vách tường. Einar và Greta đều đặt giá vẽ ngay dưới phần mái kính đôi, bên cạnh mấy chiếc thùng sơn dầu đặt hàng từ chỗ Herr Salathoff tận Munich và mấy hàng khung vải bố còn để trắng. Khi Einar và Greta không vẽ, hai vợ chồng cất giữ tất cả mọi thứ dưới tấm vải nhựa màu xanh lá bị gã thủy thủ dưới lầu quăng lăn lóc ngay trên thềm.

“Tại sao em lại muốn anh mang giày của cô ấy?”, Einar thắc mắc. Anh ngồi trên chiếc ghế bện dây thừng mang về từ túp lều nhỏ nằm sau trang trại của bà nội. Chú chó Edvard IV nhảy lên đùi anh, vẫn đang run rẩy vì tiếng quát tháo của gã thủy thủ dưới lầu.

“Để em hoàn thành bức vẽ cho Anna”, Greta đáp. Rồi cô tiếp lời, “Em sẽ giúp anh mang giày mà.” Trên gò má cô mờ mờ một vết sẹo do bệnh thủy đậu. Ngón tay cô khẽ cọ vào vết sẹo ấy. Enair biết đó là thói quen của vợ mình khi cô áy náy.

Greta quỳ xuống tháo đôi ủng khỏi chân Einar. Mái tóc dài của cô vàng óng đúng chất Đan Mạch hơn hẳn màu tóc Einar. Cô thường vén tóc ra sau tai khi bắt tay vào việc gì mới. Lúc này, vài cọng tóc lòa xòa phủ qua mặt khi cô động đến nút buộc dây giày của Einar. Cơ thể cô toát ra mùi tinh dầu cam. Đây là loại tinh dầu được mẹ cô gửi sang hàng năm, gói kỹ trong kiện hàng đầy những lọ thủy tinh màu nâu mang nhãn hiệu “Chiết xuất tinh dầu vùng Pasadena”. Mẹ Greta cứ nghĩ cô sẽ dùng nó để nướng bánh dùng kèm với trà, nhưng Greta lại dùng để điểm lên phía sau tai.

Greta bắt đầu cọ rửa hai bàn chân Einar đặt trong chậu. Cô dịu dàng mà thoăn thoắt cọ xát miếng bọt biển qua từng ngón chân anh. Einar cuộn ống quần lên cao hơn. Anh thầm nghĩ hóa ra bắp chân mình trông cũng cân đối đấy chứ. Anh nhẹ nhàng duỗi thẳng chân, và con Edvard IV tung tăng chạy đến liếm mấy giọt nước dính trên ngón chân út, chính là ngón chân hình đầu búa và không có móng chân từ khi anh sinh ra.

“Chúng mình giữ bí mật việc này nhé, Greta?” Einar thì thầm. “Em sẽ không kể với bất kỳ ai khác, đúng không?”

Anh vừa sợ vừa kích động, tim anh đập thình thịch như chực nhảy ra khỏi lồng ngực.

“Em biết kể với ai bây giờ?”

“Với Anna.”

“Anna không cần biết mấy việc thế này,” Greta đáp. Einar nghĩ dù có được kể thì Anna vẫn là ca sĩ opera. Cô ấy chắc quen với việc đàn ông mặc trang phục phụ nữ. Và phụ nữ mặc trang phục đàn ông như trong vở Hosenrolle. Đó là cú lừa bịp cổ xưa nhất trên thế giới, và trên sân khấu kịch opera, những chuyện thế này chẳng có gì là to tát hơn ngoài việc tạo ra sự nhầm lẫn. Mà nhầm lẫn thì thế nào cũng được hóa giải trong màn cuối cùng của vở kịch.

“Không ai biết chuyện này đâu”, Greta trấn an, và Einar, có cảm giác như ánh đèn sân khấu đang chiếu thẳng vào mình, bắt đầu thả lỏng và tự kéo tất lụa lên bắp chân.

“Anh đang kéo ngược tất đấy,” Greta chỉnh lại đường may trên tất cho đúng hướng rồi bảo: “Kéo nhẹ nhàng thôi anh.”

Chiếc tất thứ hai rách toạc. Einar hỏi: “Em còn chiếc nào khác không?”

Gương mặt Greta đông cứng lại như thể vừa nhận ra điều gì đó; rồi cô đi đến chỗ ngăn kéo tủ quần áo màu xám tro. Phần trên tủ quần áo là một ngăn riêng với chiếc gương hình bầu dục được gắn ngay trên cửa. Phần dưới là ba ngăn kéo với tay nắm hình khuyên làm bằng đồng thau; còn ngăn kéo trên cùng được Greta khóa lại bằng một chiếc chìa khóa nhỏ xinh.

Đưa cho Einar đôi tất lụa thứ hai, Greta nói: “Đôi này dày hơn.” Đôi tất được gấp vuông vức gọn gàng. Với Einar, đôi tất trông như da người thật - như làn da nâu bóng của Greta sau kỳ nghỉ hè ở Menton. Cô dặn dò: “Cẩn thận nhé. Ngày mai em còn phải mang nó đấy.”

Lấp lánh dưới mái tóc của Greta là làn da trắng mịn, và Einar bắt đầu tự hỏi cô ấy đang nghĩ gì dưới lớp da thịt ấy. Với ánh mắt hướng lên trên và cái miệng bĩu ra, chắc hẳn cô ấy đang chăm chú suy nghĩ gì đó. Einar cảm thấy khó lòng mở miệng để hỏi; anh thấy mình như bị khóa chặt, bị chặn miệng bởi một miếng giẻ lau cũ nghét lấm lem màu vẽ. Thế nên, anh tự vấn trong thầm lặng, với chút bực bội khẽ dâng trào dưới gương mặt nhợt nhạt, trơn láng trông như lớp da của quả đào trắng. Nhiều năm về trước, khi lần đầu đứng cạnh nhau, cô đã xuýt xoa: “Anh đúng là một người đàn ông xinh đẹp.”

Greta ắt hẳn đã nhận ra sự bực bội của anh vì cô lập tức vươn tay ra véo má Einar và dịu dàng lên tiếng: “Em không có ý gì đâu.” Sau đó, cô tiếp lời, “Biết đến bao giờ anh mới thôi lo lắng về việc người khác nghĩ gì về mình hử?”

Einar yêu nhất là lúc Greta quả quyết mấy lời như vậy - cách cô vung tay trong không khí và khăng khăng cho rằng những gì cô tin tưởng thì cả thế giới cũng phải nghe theo. Anh nghĩ chính điều đó, cộng thêm gu yêu chuộng nữ trang bằng bạc là điểm mà cô giống dân Mỹ nhất.

“Thật là tốt vì anh không có nhiều lông chân”, cô nói cứ như thể đây mới là lần đầu tiên chú ý đến. Cô đang pha trộn màu dầu trong mấy cái bát con bằng sứ hiệu Knabstrup. Greta đã hoàn tất nửa người trên của Anna, nơi lộ ra một lớp mỡ kha khá sau nhiều năm nhấm nháp mãi món cá hồi xốt bơ. Einar cực kỳ ấn tượng với cách Greta khắc họa hình dáng bàn tay của Anna ôm một bó hoa kim châm. Từng ngón tay được vẽ một cách cẩn thận, những khớp ngón tay khẽ cong lại, móng tay sạch sẽ được tô mờ. Những bông hoa kim châm xinh xắn màu trắng ngà tựa ánh trăng được điểm xuyết bởi nhụy hoa màu vàng nâu. Greta vốn là một họa sĩ có phong độ thất thường, nhưng Einar chưa bao giờ nói ra điều đó với cô. Thay vào đó, anh khen ngợi cô hết sức mình, có lẽ vượt quá so với thực tế. Nhưng anh vẫn luôn giúp đỡ cô bất kỳ lúc nào có thể, và sẽ cố gắng truyền đạt những kỹ thuật vẽ mà anh cho là cô chưa biết, đặc biệt là về ánh sáng và luật xa gần. Một khi Greta tìm thấy đề tài tâm đắc, Einar tin chắc cô sẽ trở thành một họa sĩ tài ba. Bên ngoài khu nhà Widow House, đám mây vừa trôi qua, để ánh mặt trời rọi lên bức chân dung còn dang dở của Anna.

Greta mua một khúc gỗ sơn từ chị thợ giặt quần áo gốc Quảng Đông làm bục đứng cho người mẫu. Hai ngày một lần, khi đến nhận quần áo, chị thợ giặt sẽ không gọi cửa mà đánh một tiếng “ping” bằng cặp chũm chọe màu vàng đeo trên ngón tay.

Đứng trên khúc cây, Einar bắt đầu cảm thấy hoa mắt và nóng bừng cả người. Anh liếc xuống cẳng chân và trông thấy đôi tất lụa phẳng lì ngoại trừ mấy chỗ bị lông đâm xuyên qua, trông như tóc mọc lởm chởm trên đầu người ta. Đôi giày màu vàng trông quá tí hon để chống chịu sức nặng của anh, nhưng bàn chân anh khum khum hết sức tự nhiên, cứ như anh được duỗi thẳng những cơ bắp đã lâu không cử động. Có gì đó lóe lên trong đầu Einar, và anh chợt nghĩ đến cảnh con cáo đang đuổi bắt chuột đồng: cái mũi hồng hồng be bé của con cáo không ngừng sục sạo đánh hơi con chuột ở mấy mô đất trên vạt ruộng trồng đậu.

“Đứng yên nào,” Greta lên tiếng. Einar đưa mắt ra cửa sổ và nhìn thấy mái vòm nhọn hoắt của Nhà hát Hoàng gia, nơi mà anh thỉnh thoảng được thuê vẽ cảnh dựng cho đoàn kịch opera. Lúc này, ngay bên trong nhà hát, Anna đang dượt lại vở Carmen, cô ấy sẽ mạnh mẽ vung cánh tay mềm dẻo ngay trước cảnh dựng trường đấu bò tót do anh vẽ nên. Thỉnh thoảng khi Einar đang vẽ tranh tại nhà hát, giọng Anna sẽ cất lên sang sảng như tiếng đồng vang khắp đại sảnh. Giọng hát ấy khiến tay anh run lên đến mức cây cọ quệt nhòe phần nền của bức tranh, rồi lại buộc anh giơ tay lên dụi mắt. Chất giọng của Anna không hề đẹp. Giọng cô có phần góc cạnh, buồn thảm và dường như pha trộn giữa giọng nam và nữ. Nhưng giọng hát của cô lại có độ rung hơn những cô ca sĩ người Đan Mạch khác, vốn thường nhỏ nhẹ, trong trẻo và xinh đẹp nhưng lại không đủ để khán giả phải rùng mình. Giọng Anna mang hơi nóng hừng hực từ phương Nam. Tiếng hát ấy sưởi ấm Einar, cứ như nơi cổ họng của Anna lúc nào cũng đỏ rực vì than hồng. Anh sẽ trèo xuống chiếc thang đặt cạnh hậu trường và lẻn vào cánh gà của nhà hát: anh sẽ nhìn ngắm Anna, trong bộ áo chẽn lông cừu trắng muốt, đang mở rộng khẩu hình khi tập dượt với nhạc trưởng Dyvik. Khi hát, cô thường hay nghiêng người ra phía trước. Anna luôn kể rằng cô cảm thấy có một sức hút từ âm nhạc luôn kéo cằm cô hướng về phía dàn nhạc giao hưởng. “Tôi hình dung ra có một sợi xích mảnh màu bạc nối liền và gắn chặt với đầu đũa của nhạc trưởng ngay từ chỗ này”, cô nói, tay chỉ vào nốt ruồi mọc trên cằm trông không khác gì mẩu vụn bánh mì. “Nếu không có sợi xích ấy, tôi cảm giác chẳng biết phải làm gì, chẳng biết phải như thế nào mới là chính mình.”

Khi vẽ, Greta sẽ dùng một chiếc lược đồi mồi chải tóc gọn ra sau. Lúc ấy, mặt cô trông to hơn, cứ như khi Einar nhìn qua một cái bát chứa đầy nước. Greta có lẽ là người phụ nữ cao nhất mà anh từng quen biết. Chiều cao của cô đủ để liếc qua chỗ trống của mấy tấm rèm đính ren treo trước cửa sổ của căn hộ dưới tầng trệt. Khi đứng cạnh Greta, anh cảm thấy mình thật nhỏ bé, như đứa con trai luôn phải ngước mắt lên mới nhìn được từ cằm lên mắt cô, và phải cố gắng lắm mới với được lấy tay cô. Chiếc áo khoác đắp túi hộp của Greta phải đặt hàng riêng từ chỗ cô thợ may có làn da trắng bóc ngay góc phố. Khi dùng thước dây màu vàng để đo vòng ngực và chiều dài cánh tay của Greta, cô thợ may vừa ngưỡng mộ vừa lấy làm khó tin rằng một người phụ nữ cao to khỏe mạnh như vậy lại không phải là dân Đan Mạch.

Einar vô cùng ngưỡng mộ sự tập trung hết sức linh hoạt khi Greta vẽ tranh. Cô có thể vừa dặm thêm chút sáng ở mắt trái, sau đó mở cửa nhận hàng của công ty cung cấp sữa Busk rồi dễ dàng quay lại với phần sáng mờ hơn ở bên phải. Cô vừa vẽ vừa hát lên những ca khúc sinh hoạt lửa trại. Cô còn kể cho người mẫu về thời thiếu nữ của mình hồi còn ở California, nơi có chim công đến làm tổ trong vườn cam của ông cô. Một lần, khi vừa quay về đến cửa căn hộ trên những bậc cầu thang tối om, Einar còn nghe trộm Greta than thở với một cô người mẫu về việc khoảng cách giữa những lần thân mật của hai người càng lúc càng dài hơn. “Anh ấy lúc nào cũng nghiêm trọng hóa vấn đề. Nhưng tôi chẳng bao giờ trách anh ấy.” Einar có thể tưởng tượng ra cảnh vợ mình vừa hất tóc ra sau vừa càu nhàu.

“Chúng đang bị tuột kìa.” Greta khẽ nhắc, chỉ chỉ cây cọ vào đôi tất. “Kéo chúng lên tí nữa.”

“Có cần phải vậy không?”

Gã thủy thủ dưới lầu chợt đóng sầm cửa, tiếp theo đó là một màn im lặng ngoại trừ tiếng cười khúc khích của vợ anh.

“Ôi, Einar. Anh không bao giờ biết thư giãn sao?” Greta kêu lên, nụ cười của cô chìm nghỉm rồi vụt tắt. Con Edvard IV lon ton chạy vào phòng ngủ, bắt đầu lục lọi tấm khăn trải giường rồi lại thở dài. Nó là một con chó già sinh ra trong khu đầm lầy ở trang trại vùng Jutland. Mẹ nó cùng đám anh em khác đều bị chết ngộp dưới lớp than bùn ẩm thấp.

Căn hộ của hai vợ chồng nằm trên tầng gác mái một tòa nhà do chính phủ mở ra cho những người vợ góa của ngư dân. Khác với những căn hộ mặt phố tại Copenhagen, căn hộ này có cửa sổ hướng ra phía bắc, phía nam và phía tây, nên có đủ không gian và ánh sáng để Einar và Greta vẽ tranh.

Họ suýt nữa đã chuyển đến sống tại căn nhà trong thị trấn của khu Christianshavn nằm phía bên kia vùng Inderhavn. Đó là nơi mà giới nghệ sĩ sống chung với gái điếm và mấy gã cờ bạc nát rượu, bên cạnh xưởng trộn xi măng và công ty nhập khẩu. Greta bảo sống ở đâu cũng được vì chưa có nơi nào làm cô cảm thấy khó ở. Nhưng sau khi đã chịu đủ thảm cảnh ngủ dưới mái nhà tranh suốt mười lăm năm đầu đời, Einar cật lực phản đối ý tưởng đó và tìm được một chỗ trong khu Widow House.

Mặt ngoài khu nhà được sơn màu đỏ. Khu nhà chỉ cách kênh Nyhavns một dãy phố. Cửa sổ mở ra từ mái nhà dốc đứng lợp ngói đã bị rêu phủ đen xì, còn phần mái kính thì được trổ rất cao. Mấy căn nhà khác dọc con phố đều quét sơn trắng và lắp cửa trước kiểu tám ô tứ giác sơn xanh màu tảo. Đối diện con phố là nhà bác sĩ Moller, người chuyên cấp cứu cho mấy sản phụ sinh con giữa đêm khuya. Chỉ có vài chiếc xe ô tô chạy dọc con phố dẫn ra ngõ cụt tại Inderhavn, khiến cho không gian vắng lặng đủ để nghe rõ tiếng khóc của một cô bé nhút nhát vọng lại từ đằng xa.

“Anh muốn quay lại làm việc”, Einar cuối cùng cũng mở miệng, mệt mỏi vì phải đứng trên đôi giày có khóa thiếc kéo chật ních.

“Vậy là anh không muốn mặc thử váy đầm của cô ấy sao?” Khi cô nói đến từ “váy đầm”, bụng dạ anh bỗng dưng nóng lên, rồi một nỗi xấu hổ dâng lên trong ngực. Einar trả lời: “Không, anh không muốn.”

“Vài phút thôi cũng không được sao?” cô nài nỉ. “Em cần phải vẽ xong phần gấu váy lấp lửng trên đầu gối.” Cô thả mình trên chiếc ghế bện thừng đặt cạnh anh, vuốt ve bắp chân anh qua lớp lụa. Bàn tay cô như đang thôi miên anh, sự cọ xát nhẹ nhàng ấy khiến anh muốn nhắm mắt lại. Anh không hề nghe được âm thanh gì khác ngoại trừ tiếng móng tay của cô ma sát khẽ khàng trên lớp tất lụa.

Nhưng bỗng nhiên Greta dừng lại và dịu dàng lên tiếng: “Không, em xin lỗi. Lẽ ra em không nên nhờ anh.”

Lúc này Einar nhìn thấy cửa tủ quần áo màu xám tro đang mở toang, trong tủ là váy đầm của Anna. Chiếc váy màu trắng với chuỗi hạt viền quanh gấu váy phủ ngang đầu gối và quanh cổ tay áo. Ô kính bị rạn nứt và chiếc váy cứ thế đu đưa trên mắc áo. Có điều gì đó rất đặc biệt về chiếc váy - như chất vải lụa sáng mờ, hay phần ngực áo đính ren ở vạt trên, hoặc là hàng cúc áo hình móc trên cổ tay lúc tách ra thì giống như những khuôn miệng nhỏ xinh - khiến Einar thực sự muốn chạm vào nó.

“Anh thích nó không?” Greta hỏi.

Anh định trả lời là không, nhưng như vậy thì đúng là nói dối. Anh thích chiếc váy, và anh có thể cảm thấy máu thịt dưới da đang muốn nổ tung.

Greta mang chiếc váy đến cạnh Einar và ướm thử lên ngực anh: “Vậy thì cứ mặc thử vài phút thôi cũng được.” “Greta”, anh kêu lên, “Lỡ như anh...”

“Cứ cởi áo ra đi đã,” cô bảo Và thế là anh cởi áo.

“Nhưng mà lỡ như...”

“Nhắm mắt lại đi nào.” Cô lại ngắt lời anh.

Và anh ngoan ngoãn làm theo ý cô.

Ngay cả khi đã nhắm chặt mắt, anh vẫn cảm thấy thật dung tục khi cởi trần trước vợ mình. Cảm giác giống như bị cô bắt quả tang khi đang làm điều mà anh đã lỡ hứa với cô là sẽ tránh xa - không hẳn là ngoại tình. Chuyện này tựa như việc tái diễn một thói xấu mà anh đã thề sẽ từ bỏ, như nốc rượu aquavit tại mấy quán bar dọc kênh Christianshavn, ăn vụng món frikadeller trên giường ngủ hay chơi đùa với bộ bài có in hình mấy cô gái mà anh đã mua vào một buổi chiều cô đơn.

Greta nói thêm: “Cần cởi cả quần nữa.” Tay cô vươn ra và cô lịch sự quay đầu qua hướng khác. Cửa sổ phòng ngủ mở toang và luồng không khí thoang thoảng mùi cá biển như quấn quýt lấy da thịt anh.

Einar nhanh chóng kéo chiếc váy đầm qua đầu rồi chỉnh lại phần vạt váy. Mồ hôi khẽ rịn ra trên kẽ nách và thắt lưng anh. Cảm giác khô nóng làm anh chợt ước rằng nếu nhắm mắt, anh sẽ được quay về lúc còn là một cậu bé, với cái thứ đang đung đưa giữa chân anh vẫn còn nhỏ bé và vô hại như cây củ cải trắng.

Greta chỉ reo lên: “Tốt rồi.” Rồi cô hướng cọ vẽ lên khung vải bố. Đôi mắt xanh biếc của cô khẽ nheo lại, giống như đang chăm chú nhìn vào thứ gì dính trên chóp mũi.

Khi đứng trên khúc gỗ sơn, Einar cảm thấy hơi kỳ lạ, giống như đang có một dòng nước vừa chảy qua và lấp đầy anh. Ánh mặt trời rọi lên thân hình anh, còn mùi cá biển vẫn thoang thoảng trong không khí. Chiếc váy rộng thùng thình chỉ trừ phần tay áo, anh cảm thấy thật ấm áp và mê muội như được đắm mình trong biển hè. Con cáo vẫn đang truy đuổi con chuột, và có một âm thanh cứ vọng lại trong đầu anh: tiếng khóc yếu ớt của một cô bé đang sợ hãi.

Einar cảm thấy thật khó để mở to mắt và tiếp tục dõi theo những chuyển động nhanh nhẹn mềm dẻo như loài cá khi bàn tay Greta đưa ra vạch từng nét lên khung vải bố rồi nhẹ nhàng thu lại. Mấy chiếc vòng và nhẫn trên tay cô cứ lay động như đàn cá bống. Einar cũng không thể tiếp tục mơ tưởng đến giọng hát Anna tại Nhà hát Hoàng gia với chiếc cằm nghiêng về phía cây đũa của nhạc trưởng. Quả là giống với cảm giác ban đầu của anh: chất lụa mịn màng và mỏng nhẹ như miếng băng gạc thấm đẫm thuốc trị thương được khéo léo đắp lên vùng da thịt đang hồi phục. Ngay cả cảm giác e thẹn khi đứng trước mặt vợ mình cũng không còn rõ rệt như trước khi cô ấy đang hí hoáy tô vẽ với một biểu cảm thật xa lạ. Einar bắt đầu chìm đắm vào thế giới mờ ảo của những giấc mơ, một nơi mà chiếc váy đầm của Anna có thể thuộc về bất kỳ ai, thậm chí là thuộc về anh.

Và ngay khi mí mắt anh trở nên nặng trĩu còn xưởng vẽ bắt đầu tối dần, ngay lúc anh thở dài và thả lỏng bờ vai, khi con Edvard IV đang ngáy phì phò trong phòng ngủ, ngay chính thời điểm giọng hát sang sảng như đồng vang của Anna sắp sửa cất lên, thì một giọng nói vang lên, “Nhìn Einar kìa!”

Anh mở choàng mắt. Greta và Anna đang chỉ trỏ về phía anh, khuôn mặt hai người sáng bừng và đôi môi đang mấp máy gì đó. Con Edvard IV sủa vang ngay trước mặt Einar. Và Einar Wegener bỗng dưng cứng đờ cả người.

Greta lấy bó hoa kim châm từ tay Anna. Đó là một món quà từ khán giả hâm mộ. Cô dúi bó hoa vào tay Einar. Với cái đầu nhỏ đang ngẩng cao như một nghệ sĩ chơi kèn trumpet, con Edvard IV bắt đầu chạy vòng quanh Einar như bảo vệ anh. Lúc này hai người phụ nữ lại phá lên cười, mắt Einar từ từ cụp lại và ngân ngấn nước. Anh có cảm giác mình bị châm chọc bởi tiếng cười của bọn họ. Cùng với hương thơm của hoa kim châm màu trắng ngà là nhụy hoa màu vàng nâu đang rải rác trên vạt váy, đang ép vào chỗ sưng phồng đầy chói mắt ở phía dưới, cọ xát lên đôi tất lụa và cả lòng bàn tay ướt đẫm.

“Mày là một con điếm,” gã thủy thủ dưới lầu gào lên, “Mày đúng là một là một con điếm xinh đẹp khốn nạn.” Từ lầu dưới, sự im lặng ngụ ý là có một nụ hôn tha thứ. Tiếp theo sau đó là một trận cười to hơn từ Greta và Anna. Và ngay khi Einar sắp sửa cất tiếng van nài họ rời xưởng vẽ một lúc để anh yên ổn thay váy đầm ra thì Greta lên tiếng. Giọng cô nhỏ nhẹ, thận trọng và có vẻ khách sáo: “Sao chúng mình không gọi anh là Lili nhỉ?”