Hai
Greta Wegener là một họa sĩ hai mươi chín tuổi. Cô là người thuộc dòng dõi nhà Waud gốc California. Ông nội cô, Aspley Haven Waud đã phất lên nhờ chuyển nhượng đất đai; còn cha cô, Asplay Jr. lại trở nên giàu có hơn thế nữa nhờ vào vườn cam. Trước khi chuyển đến Đan Mạch vào năm cô lên mười, nơi xa quê nhà Pasadena nhất mà cô từng đặt chân đến chính là San Francisco. Tại noi ấy, vào một ngày khi đang mải mê lắc vòng ngay trước nhà dì Lizzie trên đồi Nob Hill, cô đã vô tình thúc khuỷu tay trúng vào người anh sinh đôi, khiến anh ấy va vào một chiếc xe ngựa đang chạy qua. Carlisle may mắn sống sót, với một vết sẹo lõm dài vĩnh viễn trên cẳng chân; vài người cho rằng anh ấy chẳng thể nào hồi phục như xưa. Khi lớn lên, Greta đã nói rằng Carlisle chẳng bao giờ có được một khung xương cao to kiểu Tây. Cô nhớ lúc lên mười tuổi, cô đã cao nhòng và thường ngồi trên sàn tàu được làm từ gỗ tếch để luyện tiếng Đan Mạch trong suốt hành trình trên biển. Cô nhận xét: “Một vài người họ Waud sinh ra với khung xương kiểu đấy, trong khi vài người khác thì không.” Dân Đan Mạch chắc chẳng có vóc người cao to kiểu Tây đâu; mà sao họ lại cần điều đó chứ? Vì vậy mà đối với hầu hết, Greta đều tỏ ra khoan dung với khuyết điểm này của họ. Cô đặc biệt không xét nét việc này với Einar, giáo sư dạy mỹ thuật đầu tiên và cũng là người chồng thứ hai của cô. Tính đến mùa xuân năm 1925, họ đã kết hôn hơn sáu năm rồi: có đôi lúc, Greta cảm giác mọi chuyện như mới xảy ra cách đây sáu tuần; nhưng nhiều khi cô lại tưởng như mình đã trải qua sáu đời người đầy ý nghĩa.
Einar và Greta gặp nhau lần đầu tại Học viện Mỹ thuật Hoàng gia vào ngày 1 tháng 9 năm 1914, chỉ vài tuần sau khi quân Đức đánh chiếm Luxembourg và Bỉ. Năm ấy Greta tròn mười bảy tuổi. Einar chỉ mới hơn hai mươi tuổi nhưng đã là giảng viên môn hội họa. Anh hay nhút nhát và e thẹn khi đối mặt với những người trẻ tuổi hơn, và vẫn còn độc thân. Từ hồi ấy, cô đã là thiếu nữ có bờ vai rộng với dáng điệu đặc trưng của thời thơ ấu nhong nhong trên lưng ngựa. Cô còn để tóc dài đến tận thắt lưng, trông thật khiêu khích giữa mấy con phố lờ mờ ánh đèn tại Copenhagen. Dân Đan Mạch lượng thứ cho hành vi này vì cô đến từ California, một nơi mà chưa ai trong số họ từng được thấy tận mắt. Nhưng họ tưởng tượng những người như Greta quen sống trong những căn nhà thoáng đãng rợp bóng cây chà là với quặng vàng lấp lánh dưới lớp đất đen ngay trong vườn nhà.
Một ngày nọ, Greta thử nhổ lông mày và chúng chẳng bao giờ mọc ra lại. Cô cảm thấy đây đúng là tiện lợi. Sáng nào cô cũng kẻ lông mày bằng mấy cây bút chì sáp tậu được từ căn phòng không có cửa sổ ở tầng ba khu nhà Magasin du Nord, nơi mà chị em phụ nữ có nhu cầu chăm sóc sắc đẹp thường bí mật đến mua sắm. Mỗi khi mở sách ra, Greta có một thói quen không kiềm chế được là nặn mụn trên mũi. Thói xấu này đã để lại vài vết sẹo nhỏ cỡ đầu bút chì trên da, khiến cô lo lắng hết sức. Cô thường cho rằng mình là cô gái cao nhất Copenhagen, nhưng thực tế thì sai bét. Sao có thể không kể đến Grethe Janssen, cô gái yểu điệu hiện đang là tình nhân của ngài thị trưởng và luôn lượn ra lượn vào các cửa hàng dọc hành lang khách sạn D’Angleterre trong bộ váy dài đính pha lê ngay giữa ban ngày.
Dù thế nào thì Greta vẫn luôn nghĩ mình thuộc týp phụ nữ khó có khả năng kết hôn nhất. Khi một người đàn ông trẻ tuổi nào đó - như anh chàng đẹp mã người Đan Mạch thuộc dòng dõi quý tộc đang suy tàn, hay như cậu con trai của tay trùm tư bản ngành thép của Mỹ đã dành cả năm trời chu du khắp châu Âu - mời cô đến xem múa ballet hay đi thuyền buồm dọc kênh Christianshavn, thì ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu cô vẫn luôn là thế này: Anh sẽ chẳng bắt được tôi đâu. Cô chỉ muốn trở thành một nữ họa sĩ. Một người phụ nữ trẻ trung được suốt đời tự do vẽ vời bên khung cửa sổ tràn ngập ánh sáng. Một người chỉ gặp gỡ bạn bè giữa đêm khuya khi nhóm bạn tám người tụ tập tại chỗ của Sebastian, đấy là quán rượu yêu thích của cô, để hớp nhanh hai ly Peter Heering có vị anh đào. Cả bọn sẽ ở đó cho đến khi ngài cảnh sát có gương mặt dài như lưỡi cày đi tuần vào một giờ sáng và ra lệnh cho quán đóng cửa.
Nhưng chính Greta cũng biết ước vọng đó vừa ngớ ngẩn vừa không thực tế tí nào. Vì sao ư, vì quý cô trẻ tuổi Greta Waud sẽ không bao giờ được phép sống như vậy.
Khi còn bé, cô thường viết đi viết lại vào cuốn sổ ghi chép dòng chữ “Greta Greta Greta”, cố ý lờ đi cái họ “Waud” như thể muốn biết mình sẽ như thế nào nếu chỉ đơn thuần là Greta, mặc dù chưa ai từng gọi cô như vậy. Cô chẳng hề muốn cho ai biết về gia đình mình. Ngay cả khi trưởng thành, cô cũng chưa từng có ý dựa dẫm vào những mối quan hệ của gia đình. Cô khinh bỉ tất cả những kẻ chỉ biết dựa dẫm vào cha ông. Mà có đúng là điều đó chẳng có ý nghĩa gì không?
Greta phải chuyển đến Đan Mạch từ khi còn là một cô bé. Lúc đấy, cha cô, một người đàn ông với cánh tay dài ngoằng và bộ râu sườn cừu, được bổ nhiệm đến đại sứ quán. “Sao bố lại muốn làm vậy?” Greta thắc mắc khi ông lần đầu tiên thông báo với cô về vị trí mới được bổ nhiệm. Mẹ cô nhắc nhở: “Ngoan nào, Greta. Con đang nói chuyện với cha con đấy.” Greta đã quên mất rằng tên mình được đặt theo tên mẹ của cha, tức là bà nội cô. Bà Gerda Carlsen là người Đan Mạch chính gốc với mái tóc vàng óng như gỗ sồi. Bà lớn lên ở đảo Bornholm. Người ta thường nhận ra bà Gerda nhờ vào những bông hoa anh túc đỏ như máu được cài phía sau tai. Bà còn được biết đến vì là người con gái đầu tiên của gia đình đã lên thuyền buồm rời bỏ vùng đảo Baltic. Khác với những thanh niên tò mò muốn rời đi để tới Copenhagen, bà lại chọn đến miền nam California. Với bối cảnh thời đó, chuyện này giống như thể bà di cư lên mặt trăng. Sau vài năm quản lý bãi chăn ngựa hết sức thành công, rốt cuộc bà cũng được ông Apsley Waud, chú ý đến. Không lâu sau đó, cô gái cao kều từ đảo Bornholm với mái tóc dài đến eo được cài những bông hoa anh túc đã trở thành bà chủ lớn của vùng California. Khi biết được cha sẽ dẫn cả gia đình về Đan Mạch, Greta có phần thờ ơ đến mức chính cô cũng phải thừa nhận rằng mình chẳng thể cảm nhận được bất kỳ mối liên hệ thân tình nào. Cô cũng không nhận ra là cha muốn bù đắp cho bà nội, người phụ nữ tên Gerda Carlsen Waud có đôi mắt xanh thẳm. Bà qua đời khi đứa con trai Apsley Jr mới trưởng thành đã dẫn bà đến chỗ rìa hẻm núi Arroyo Seco ở Pasadena để chụp ảnh với cảnh đẹp đằng xa. Ông kinh hoàng chứng kiến cảnh tượng khoảng đất sụp xuống do bị kiến đục, kéo theo mẹ ông rớt xuống vực thẳm phía dưới, vướng ngay chỗ chạc cây hình chữ Y chết người trên thân cây tiêu huyền sần sùi có nhiều mắt.
Mùa thu năm 1914, tại Học viện Hoàng gia, Greta cho rằng hầu hết mọi người, đặc biệt là những quản lý học viên sẽ xì xào bàn tán hai chủ đề: tình hình chiến trận và cô. Dù đi đến đâu, cô cũng gây xôn xao. Rốt cuộc là có vấn đề gì với mái tóc vàng hoe cứ như cái chuông báo động gắn sau lưng cô, đặc biệt khi về lại miền nam California. Mới năm ngoái, khi Greta quay về Pasadena để học chơi tennis và cưỡi ngựa vào mùa hè, cô đã để mắt tới chàng trai bán thịt đang điều khiển chiếc xe ngựa. Anh ta có mái tóc đen tuyền xoăn tít. Bàn tay ấm áp của anh kéo cô lên tấm ván ngồi phía trước và họ cùng ngồi xe ngựa xuống đại lộ Wilshire rồi ngược lại. Cô chăm chú nhìn cách anh ta điều khiển cái kẹp sắt khi anh dỡ từng dẻ sườn quay và những tảng sườn cừu nguyên khối xuống mấy nhà ở công viên Hancock. Trên đường về nhà, chàng ta cố hôn cô không chỉ một lần. Điều đó làm Greta cảm thấy thất vọng. Lần đầu tiên trong đời cô cảm thấy nghi ngờ về độ dài của tóc mình. Đến cuối chặng đường, anh ta chỉ thốt ra: “Dài quá.” Và thế là Greta nhún vai rồi đi thẳng vào phòng. Nhưng sáng hôm sau, ngay tại bàn ăn sáng, mẹ cô mấp máy đôi môi mỏng và bảo: ‘ ‘ ‘‘Greta, con gái yêu của mẹ. Con có thể giải thích cho mẹ về việc này được không?” Mẹ cô giở ra một bài báo từ tờ American Weekly. Trên đó là một lời nhận xét kín đáo như sau: “Có vẻ như quý cô Greta Waud đang dự định dấn thân vào nghề bán thịt?” Nhiều tuần sau đó, nỗi sợ hãi do tin đồn phơi bày trên trang báo xã hội bao trùm cả nhà. Mỗi sáng sớm, tiếng huýt sáo của cậu bé giao báo làm bước chân cả nhà đông cứng lại. Câu chuyện chẳng bao giờ tiếp diễn nhưng tất nhiên tin đồn cuối cùng cũng bị lan truyền. Điện thoại trên lầu không ngừng réo suốt hai ngày trời. Cha Greta còn không dám đến ăn trưa tại Câu lạc bộ California dưới thị trấn và mẹ cô trải nghiệm một khoảng thời gian khủng khiếp để kiếm nguồn cung cấp thịt tươi thay thế. Ngay sau đó, ba mẹ cô phải hủy bỏ kỳ nghỉ hè ở California, và Greta lên đường trở về Copenhagen đúng lúc hiện tượng Bắc cực quang và pháo hoa tỏa sáng tại công viên Tivoli.
Tháng Chín năm cuối cùng của tuổi thiếu niên, khi chiến tranh vọng tới trong những đám mây dông, Greta bắt đầu nhập học tại Học viện Hoàng gia. Ngày đầu tiên đến trường, Greta ngạc nhiên khi Einar đứng trước tấm bảng đen lờ mờ dấu vết của buổi học trước đó và hỏi cô: “Còn em? Em tên là gì?”
Khi Greta trả lời anh, Einar - trong suy nghĩ của cô lúc đó vẫn còn là giáo sư Wegener - đánh dấu vào sổ theo dõi lớp học rồi tiếp tục hỏi tên những học viên khác. Đôi mắt nâu to tròn như búp bê của anh thoáng nhìn cô rồi chuyển sang chỗ khác. Dựa vào vẻ nhút nhát đó, Greta bắt đầu cho rằng anh hẳn chưa từng gặp phải một người Mỹ nào trong đời. Cô hất nhẹ làn tóc qua vai, như thể đang vung vẫy một lá cờ.
Sau đó, khi năm học vừa bắt đầu, chắc là có ai đó đã xì xào với Einar về chuyện của cha cô với đại sứ quán và cả câu chuyện chiếc xe ngựa của hàng thịt - đúng vậy, tin đồn có thể vượt qua Đại Tây Dương - bởi vì anh càng lúng túng hơn trước mặt cô. Cô thất vọng vì anh tỏ vẻ mình là một trong số những gã đàn ông không cách nào cảm thấy thoải mái khi ở cạnh cô gái con nhà giàu. Cảm giác ấy giống hệt như sự sống đang bị thiêu đốt, bởi Greta chưa từng đòi hỏi một cuộc sống giàu sang; không hẳn lúc nào cô cũng để tâm đến chuyện đó. Einar đã không thể giới thiệu một bức vẽ đáng giá nào ở phòng triển lãm Kunstudstillingen và còn không có khả năng chỉ đường cho cô đến cửa hàng chuyên bán dụng cụ mỹ thuật gần bệnh viện Kommunehospitalet. Cô mời anh đến dự buổi tiệc chiêu đãi tại Đại sứ quán Mỹ dành cho ông chủ một hãng đóng tàu đến từ Connecticut và bị từ chối. Anh còn khước từ lời thỉnh cầu đi xem một vở kịch opera cùng cô. Khi hai người trò chuyện, anh hiếm khi nhìn thẳng vào cô. Nhưng cô vẫn luôn chăm chú nhìn anh khi họ gặp nhau và dõi mắt theo anh từ xa, qua cửa sổ, khi anh băng qua khoảng sân trong học viện với bước chân vừa ngắn vừa vội. Khuôn ngực anh nhỏ hẹp, với gương mặt tròn, làn da nhợt nhạt và đôi mắt sâu đến mức Greta không biết rốt cuộc có thứ gì ẩn sau đó. Chỉ cần nói chuyện với anh, Greta cũng đủ sức làm mặt Einar đỏ bừng từ thái dương xuống tận cổ. Anh đúng là ngây thơ như con nít, và điều đó mê hoặc Greta, một phần bởi vì khi còn bé, cô luôn tỏ ra già dặn và thẳng thắn đến mức khiến người ta phải đối xử như với người lớn. Một lần nọ cô đã thắc mắc: “Giáo sư, anh kết hôn chưa?” và câu hỏi ấy làm mí mắt anh run rẩy như không kiểm soát được. Anh mím môi lại như đang cố gắng phát âm một từ xa lạ: “Chưa.”.
Những học viên khác xì xầm về Giáo sư Wegener. Một cô bạn thì thào: “Giáo sư sinh ra và sống trong một gia đình toàn là người lùn và bị mù đến tận năm mười lăm tuổi.” Cậu bạn đang muốn thu hút sự chú ý của Greta thì bảo: “Giáo sư sinh ra trong một vũng lầy.” Cậu bạn ấy đang mải vẽ mấy bức tượng thần Hy Lạp, và Greta không thể nghĩ ra thứ gì hoặc ai khác có thể nhàm chán hơn thế. Khi cậu ta mời cô đến công viên Tivoli chơi đu quay, cô chỉ biết đảo mắt qua lại. “Hừ, Giáo sư Wegener sẽ không chấp nhận cậu đâu, nếu đó là điều cậu mong chờ,” cậu ta gằn giọng, đá chân vào gốc cây du.
Ở nhà, mẹ cô vẫn còn lưu tâm đến sự kiện chiếc xe ngựa của hàng thịt nên thường chăm chú quan sát khi Greta về nhà vào mỗi buổi tối. Ánh sáng tỏa ra từ lò sưởi chẳng đủ để hé lộ điều gì từ ánh mắt của Greta. Một buổi tối nọ, mẹ cô bảo: “Greta, con gái yêu của mẹ. Nếu con không sắp xếp được người đi cùng vào bữa tiệc sinh nhật thì mẹ sẽ hỏi thăm giúp con người nào đấy.” Bà đang miệt mài thêu thùa bên lò sưởi ở phòng khách, và Greta còn nghe thấy tiếng Carlisle đang tung hứng bóng tennis trong phòng ngủ trên lầu. “Mẹ chắc là con trai nữ bá tước nhà Recke sẽ muốn đi cùng con đấy,” bà Waud lên tiếng. “Tất nhiên là cậu ấy không biết khiêu vũ, nhưng nhìn thì cũng đẹp trai, miễn là con đừng để ý tới cái bướu kinh khủng kia là được. Con đồng ý không, Greta?”. Gương mặt nhòn nhọn của bà khẽ ngước lên. Ngọn lửa đỏ trong lò sưởi đang yếu dần, và tiếng đập bóng tap-tap- tap của Carlisle vang vọng khắp phòng, làm cho ngọn đèn chùm run lên bần bật. “Rốt cuộc chừng nào nó mới ngừng cái trò đó?”, bà Waud cáu kỉnh, “trái banh tennis ngu xuẩn.” Bà gấp gọn tấm vải thêu và đứng dậy. Tư thế của bà cứng đơ như một mũi tên kết tội nhắm thẳng vào phòng Carlisle. Cô thở dài và đáp: “Con đoán là Carlisle lúc nào chả như vậy.” Và sau đó, ánh lửa trong lò sưởi dường như đột nhiên bốc cao lên, làm sáng bừng cả phòng khách, bà Waud nói tiếp: “Ừ, phải rồi. Carlisle lúc nào chả vậy. Mà sao con không đi cùng với Carlisle. Anh con cũng chưa có bạn đi cùng mà. Con có thể đi với anh con, thành một cặp đôi cùng ngày sinh nhật.” Thế nhưng Greta, vẫn đang đứng ở cửa phòng khách, phản đối bằng cả hai tay: “Carlisle à? Con không thể nào đi với Carlisle được. Chẳng vui gì cả. Ngoài ra, con thừa sức kiếm được một người đi cùng với con.” Hàng lông mày xám như lông chim bồ câu của mẹ cô khẽ nhướng lên. Bà vặn lại: “Ồ thật thế sao. Là ai cơ?”
Greta có thể cảm thấy móng tay mình đang bấm chặt vào lòng bàn tay khi cô quả quyết: “Mẹ cứ chờ mà xem. Con sẽ đi cùng người mà con muốn. Con sẽ không đi cùng với anh trai đâu.” Cô mân mê mái tóc mình, mắt nhìn chằm chằm vào mẹ, trong khi tiếng đập bóng tennis tap-tap-tap vẫn vọng xuống từ trên lầu. “Mẹ cứ chờ mà xem,” cô cao giọng. “Dù sao thì con cũng sắp đủ mười tám tuổi rồi.”
Tuần sau, Greta chặn Einar ngay cầu thang trong Học viện Hoàng gia. Einar đang nắm lấy lan can màu trắng khi cô níu lấy cổ tay anh và hỏi: “Em nói chuyện với giáo sư được không?”
Lúc đó đã trễ lắm rồi, xung quanh đều không có ai và cầu thang cực kỳ tĩnh lặng. Giáo sư Wegener đang khoác trên người bộ vest màu nâu với phần cổ áo màu trắng pha chút nâu nhạt. Trên tay anh là một khung vải bố còn trắng tinh to cỡ quyển sách. “Bọn em sẽ tổ chức một bữa tối để chúc mừng sinh nhật,” Greta nói. “Em sắp tròn mười tám tuổi. Anh trai sinh đôi và em.” Rồi cô tiếp lời, “Em đang tự hỏi thầy có muốn đến tham dự không?”
Sắc mặt Einar trầm xuống như thể anh vừa ăn phải thứ gì đó ôi thiu. Rồi anh cũng lên tiếng: “Cô gái à, mong cô hiểu cho.” Anh nói tiếp: “Có lẽ cô nên cân nhắc việc đổi sang lớp khác? Tôi nghĩ đó là phương án tốt nhất.” Anh chạm vào cổ họng, như thể có thứ gì mỏng manh và cần được nâng niu đang đung đưa ở đó.
Cho đến lúc này Greta mới nhận ra xét trên phương diện nào đó, Giáo sư Wegener còn non nớt hơn cô. Khuôn mặt anh trông như một cậu bé, với khuôn miệng nhỏ và vành tai lúc nào cũng ửng hồng. Bỗng dưng có thứ gì đó thôi thúc Greta dùng tay ôm lấy khuôn mặt Einar. Anh khẽ nhảy dựng lên khi ngón tay cô chạm vào gò má, tựa như vầng thái dương ấm áp đang nằm gọn giữa hai bàn tay cô. Greta ôm lấy mặt Einar, và anh không từ chối. Rồi cô hôn anh, với khung vải bố kẹp giữa hai người. Đó chính là thời khắc Greta nhận ra Einar Wegener không chỉ là người đàn ông mà cô muốn đi cùng vào bữa tiệc sinh nhật lần thứ mười tám, mà còn là người đàn ông mình muốn kết hôn. “Anh đúng là một người đàn ông xinh đẹp,” cô thốt lên. “Tôi đi được không?” Einar hỏi, ngay lập tức lùi ra sau. “Ý thầy là đi dự tiệc?”
“Ồ, không phải vậy...”
“Tất nhiên là thầy có thể đến dự tiệc rồi. Đó là lý do vì sao em đến hỏi thầy mà.”
Và rồi, trong sự ngỡ ngàng của cả hai người, Einar quay người đối mặt với Greta và hôn cô lần thứ hai.
Thế nhưng ngay trước buổi tiệc, trước khi Greta tròn mười tám tuổi, cha cô cho rằng châu Âu không còn an toàn nữa. Không lâu sau khi quân Đức tấn công vào lãnh thổ Pháp, cha Greta mang cả nhà rời Đan Mạch về quê nhà. Ngồi bên chiếc bàn gỗ tròn màu vàng óng, ông bình luận: “Nếu quân Đức chiếm được Bỉ thì có lý do nào sẽ ngăn họ không đánh thẳng đến đây?”. Mẹ Greta gật gù: “Đúng đấy,” trong khi vẫn vòng vòng quanh phòng với mấy bó rơm lót thùng vận chuyển. Cảm giác như mình chính là kẻ tị nạn đang bỏ trốn, Greta bước lên con tàu Princess Dagmar mà chẳng có thứ gì trong túi ngoại trừ một mẩu giấy với lời nhắn từ Einar: “Hãy quên tôi đi. Đó có lẽ là quyết định tốt nhất.”
Lúc này, giữa mùa xuân ẩm ướt của năm 1925, và hơn mười năm đã trôi qua, Greta lại có cảm giác như mình đang nắm giữ bí mật gì đó về chồng. Suốt vài tuần sau đó, Greta và Einar chẳng hề nhắc đến chuyện chiếc váy đầm của Anna. Hai người đều bận rộn với giá vẽ và dè dặt để không chạm mặt nhau. Bức chân dung Anna đã được hoàn thành và Greta hiện đang tìm kiếm đơn hàng mới. Một hai lần gì đó, khi hai người ăn tối hoặc thức khuya để đọc sách, có điều gì đó thôi thúc Greta nhớ lại chiếc váy đầm, và cô suýt nữa thì buột miệng gọi anh là Lili. Cũng may là cô dừng lại kịp thời. Chỉ có một lần kia, cô đã trả lời anh bằng câu hỏi: “Có chuyện gì vậy, Lili?”. Ngay lập tức cô nói xin lỗi. Hai người phá lên cười và cô hôn lên trán anh. Cô chẳng mảy may suy nghĩ nhiều về sự cố ấy, cứ như Lili chỉ là một nhân vật trong vở kịch mà họ đã xem tại nhà hát Folketeatret.
Rồi, vào một tối nọ, khi quầng sáng tỏa ra từ ánh đèn bao trùm lên chiếc ghế tựa, Greta đang lướt mắt qua tin tức về đảng phái Tự do Xã hội đăng trên tờ Politiken. Einar tiến lại gần, ngồi bệt xuống đất và gối đầu lên đùi cô. Đầu anh nằng nặng mà ấm áp cứ thế tựa vào bắp đùi Greta trong khi cô vẫn say sưa đọc báo. Cô nhẹ nhàng vuốt tóc anh, rồi sau vài phút lại nhấc tay lật sang trang mới. Khi đã đọc hết tất cả tin tức, cô gấp tờ báo lại, lôi từ túi áo khoác ra một cây bút chì và bắt đầu giải ô chữ.
“Anh cứ nghĩ mãi về cô ấy,” Einar lên tiếng.
“Ai cơ.”
“Lili bé bỏng.”
Thoáng rời mắt khỏi ô chữ, Greta đáp:“Vậy sao chúng ta không để cô ấy xuất hiện thêm lần nữa?” Ngón tay lờ mờ vết mực in cứ chạm vào vết sẹo mờ do bệnh thủy đậu.
Greta thường hay phát ngôn mà không chút đắn đo suy nghĩ, cứ như có gì đó trong lòng luôn sôi sục, thôi thúc cô phải phủ nhận, phải thể hiện tư tưởng cấp tiến. Từ khi kết hôn, cô đã không ít lần đưa ra những ý tưởng ngớ ngẩn như: Sao chúng mình không chuyển về sống ở Pasadena để trồng cam? Sao vợ chồng mình không mở một phòng khám nhỏ tại đây để chữa bệnh cho mấy cô gái làng chơi tại Istedgade? Sao chúng mình không chuyển đến nơi nào trung lập một tí như Nevada, nơi chẳng ai biết mình là ai? Những lời như vậy nghe như cấm kỵ trong hôn nhân, nhưng may thay chúng chỉ lấp lửng, nhỏ nhặt, đen xì và ngược ngạo một cách vô hại như một con dơi đang ngủ say. Chí ít đó là suy nghĩ của Greta; còn tâm tư của Einar ư, cô chẳng thể nói được.
Có một lần cô đã thử phác họa hình ảnh con dơi đang ngủ - chỉ có hai lớp da đen thui bọc quanh thân hình của một con chuột - và thất bại thảm hại. Kỹ thuật của cô không đủ điêu luyện để vẽ những ngón tay bị kéo dài ra còn ngón tay cái bé xíu cong lại như cái móc. Cô chưa được huấn luyện để tạo hình đường nét cho cơ thể động vật. Einar thỉnh thoảng sẽ vẽ thêm heo rừng, chim sẻ hay cả con Edvard IV vào phong cảnh trong tranh. Nhiều năm liền, anh đã hứa sẽ dạy cô cách vẽ động vật. Nhưng cứ mỗi khi ngồi xuống học thì lại có chuyện xảy ra như: có điện tín gửi từ California, cô thợ giặt quần áo đánh một tiếng “ping” ngay ngoài phố bằng cặp chũm chọe đeo trên ngón tay, một trong những khách hàng quen của Einar gọi điện thoại đến. Khách hàng quen của anh thường là những người đầu tóc đã bạc phơ, có địa vị và thích sống ẩn dật sau những cánh cửa chớp màu xanh lục luôn đóng chặt.
Vài ngày sau đó, Greta quay về khu nhà Widow House sau khi gặp gỡ ông chủ phòng triển lãm tranh, người cuối cùng đã quyết định từ chối trưng bày tranh cô vẽ. Nhà buôn tranh nghệ thuật, một người đàn ông đẹp mã với vết tàn nhang trông như một vệt sô-cô-la dính trên cổ, chưa hề thẳng thừng từ chối Greta. Nhưng cái cách người đó đưa tay gõ nhẹ dưới cằm nói cho Greta biết anh ta không hề hứng thú. ‘‘Toàn bộ đều là tranh chân dung à?” anh ta cao giọng hỏi. Anh ta biết, và tất cả những ai sống tại Copenhagen đều rõ ràng là, cô đã kết hôn với Einar
Wegener. Greta cảm thấy chính vì lý do này mà anh ta kỳ vọng được chiêm ngưỡng những bức tranh phong cảnh đẹp tuyệt do cô mang đến. “Cô có bao giờ cho rằng những bức họa của mình có lẽ quá mức” - anh ta ngập ngừng để lựa chọn từ chính xác - “khoa trương?” Lời nói này làm Greta sôi máu, và cô cảm giác như cơn giận dữ cháy bùng lên trong chiếc váy đầm với ve áo cách điệu theo kiểu âu phục nam giới. Quá khoa trương? Làm sao lại quá khoa trương? Cô giật phắt tập tranh vẽ từ trong tay nhà buôn và nhấc gót quay đi. Gương mặt cô vẫn hiện rõ cảm xúc nóng giận và ấm ức mãi đến khi lên tới tầng trên của khu nhà Widow House.
Khi mở cửa, Greta nhìn thấy một cô gái đang ngồi trên chiếc ghế bện thừng. Trong chốc lát, Greta thậm chí còn không nhận ra cô gái ấy là ai. Cô ấy đang ngồi đối diện cửa sổ, trên tay là một quyển sách và con Edvard IV đang chễm chệ trên đùi. Cô ấy mặc một chiếc váy đầm màu xanh dương với cổ áo trắng tinh có thể tháo rời. Nằm trên xương quai xanh của cô ấy là một trong những sợi dây chuyền vàng của Greta. Cô gái ấy - Greta quen cô ấy sao? - thoang thoảng hương thơm vị bạc hà và sữa.
Gã thủy thủ dưới lầu vẫn không ngừng mắng nhiếc vợ mình, và mỗi khi cụm từ ‘‘con điếm” vọng lên thì cổ của cô ấy ửng hồng. Rồi lại nhạt dần. “Con điếm”, gã thủy thủ cứ lặp đi lặp lại, khiến màu hồng cứ nổi lên rồi chìm xuống trên cổ của cô ấy.
Greta cuối cùng cũng lên tiếng: “Lili?”
“Đây là một quyển sách tuyệt vời.” Lili cầm quyển lịch sử California được cha Greta gửi sang cùng với một thùng đầy những hộp thiếc đựng chanh ngâm đường, dưỡng chất Pasadena tinh khiết và một túi vải bố chứa đầy búp hoa khuynh diệp để xông hơi cho da mặt.
“Em không muốn quấy rầy đâu,” Greta đáp lại.
Lili thì thầm khe khẽ. Con Edvard IV gầm gừ một cách lười biếng, hai tai dựng đứng. Cửa trước còn mở toang và Greta vẫn chưa cởi áo khoác ngoài. Lili quay lại với quyển sách, và Greta chăm chăm nhìn vào cần cổ tái nhợt đang lấp ló giữa lớp cánh hoa trên cổ áo. Greta không biết chồng mình định làm gì tiếp theo. Cô tự nói với mình rằng đó là việc quan trọng đối với Einar, và rằng cô nên nghe theo sự dẫn dắt của anh. Thế nhưng đó không phải là phản ứng tự nhiên đối với Greta. Cô đứng ở lối vào căn hộ, tay vẫn còn giữ lấy nắm cửa, trong khi Lili vẫn yên lặng ngồi trên ghế bên ô cửa kính tràn ngập ánh nắng. Lili hoàn toàn phớt lờ Greta, trong khi Greta vẫn mong Lili sẽ đứng lên và nắm lấy tay mình. Nhưng chuyện ấy không hề xảy ra, và cuối cùng Greta nhận ra cô nên để Lili một mình. Vậy nên cô đóng luôn cánh cửa phía sau lưng, bước xuống dãy cầu thang tối om và tiến thẳng ra phố. Cô gặp phải chị thợ giặt người Quảng Đông và tiễn chị ấy một đoạn.
Một lúc sau, khi Greta quay về khu nhà Widow House, Einar đang vẽ tranh. Anh đang mặt chiếc quần tây kẻ ca rô bằng vải tuýt phối kèm với áo vest, tay áo xắn lên tận khủy tay. Đầu anh trông thật nhỏ bé giữa phần cổ áo ngay trên nút thắt cà vạt. Gương mặt anh bầu bĩnh với hai má ửng hồng, khuôn miệng khẽ bĩu ra như đang ngậm lấy một đầu của cây cọ vát đầu hình hạt phỉ. “Bức vẽ đang dần được hoàn thiện,” anh vui vẻ reo lên. “Cuối cùng thì anh cũng phối được tông màu chuẩn cho phần tuyết trên bãi đất hoang. Em thử nhìn xem?”
Einar đã quen vẽ tranh cảnh vật với kích cỡ nhỏ đến mức ai cũng có thể giữ bức họa thăng bằng trong tay. Khung cảnh trong bức tranh này đặc biệt u ám, một vũng lầy chìm ngập trong bụi tuyết của mùa đông; một mảnh tuyết xám xịt là thứ duy nhất ngăn cách giữa mặt đất lầy lội và bầu trời. Greta khẽ hỏi: “Đây là vũng lầy ở làng Bluetooth?”. Gần đây cô cảm thấy ngán khi nhìn vào những cảnh quan do Einar vẽ. Cô không sao hiểu được lý do anh cứ vẽ đi vẽ lại một thứ mà không biết chán. Anh sẽ hoàn tất bức vẽ bãi đất hoang này trong đêm nay và bắt tay vào sáng tác một bức mới ngay sáng mai.
Một ổ bánh mì lúa mạch nằm trên bàn. Einar đã đi chợ, mặc dù việc đó nghe chẳng hợp với anh tí nào. Còn có một hộp tôm đông lạnh cùng một đĩa thịt bò xé sợi. Thêm vào đó là một tô hành củ ngâm giấm. Mấy củ hành trắng tròn như những hạt ngọc trai làm cô nhớ đến chuỗi hạt mà mình và Carlisle đã xâu lại khi họ còn bé và anh trai vẫn chưa đủ sức để chơi đùa bên ngoài. “Lili vừa đến đây sao?” Cô cảm thấy mình cần phải chủ động lên tiếng trước, bằng không thì Einar sẽ chẳng buồn nói gì.
“Đến khoảng một tiếng đồng hồ. Hay là ít hơn chút. Em có thể ngửi được mùi của cô ấy không? Mùi nước hoa của cô ấy?”. Anh đang ngâm rửa mớ cọ vẽ trong một cái bình. Nước trong bình dần chuyển sang màu trắng đục giống như thứ sữa loãng mà Greta phải mua lúc vừa quay lại Đan Mạch sau khi chiến tranh kết thúc.
Greta không biết nói gì; cô cũng không rõ chồng mình muốn cô nói gì. “Cô ấy sẽ còn quay lại đây chứ?”
“Chỉ khi nào em muốn vậy,” Einar đáp lời, lưng vẫn xoay về phía cô.
Bờ vai anh không hề rộng hơn một cậu bé. Anh gầy đến mức Greta thỉnh thoảng nghĩ rằng tay cô có thể vòng quanh người anh đến hai lần. Cô lẳng lặng ngắm nhìn bờ vai phải của anh đang động đậy khi anh xả sạch mấy cây cọ. Có điều gì đó trong lòng đang thôi thúc cô tiến lên đứng sau lưng anh, giữ tay anh lại và khẽ bảo anh hãy đứng yên. Tất cả những gì cô muốn là để anh tự do theo ý muốn, nhưng cùng lúc ấy, cô vẫn không cưỡng lại mong muốn được vòng tay ôm chặt và nói rõ ràng với anh về chuyện của Lili. Và họ đứng đó, trong căn hộ trên tầng gác mái trong khu nhà Widow House, với những ô cửa sổ phủ đầy bụi mờ. Ở đó, Greta đang ôm siết lấy Einar, trong khi cánh tay anh cứng đơ bên mạn sườn. Cuối cùng, cô khẽ khàng lên tiếng chấp nhận - chỉ vì với cô, đó là chuyện đã rồi - “Điều đó phụ thuộc vào Lili. Cô ấy cứ làm tất cả những gì cô ấy muốn thôi.”
Vào tháng sáu, thành phố tổ chức buổi Vũ hội Nghệ thuật tại tòa nhà Rảdhuset. Suốt cả tuần lễ, Greta cất tấm thiệp mời ngay trong túi áo và tự hỏi nên làm gì với nó. Mới đây, Einar vừa tuyên bố sẽ không đi đến mấy vũ hội linh tinh nữa. Nhưng Greta có ý tưởng khác; cô đã nhìn thấu khao khát ẩn giấu trong mắt Einar khi anh vẫn chưa sẵn sàng thừa nhận.
Một đêm nọ, khi đang ở nhà hát, cô dịu dàng hỏi: “Anh có muốn đi dự vũ hội trong bộ dáng của Lili không?” Cô đề nghị vì đoán được đó là điều mà Einar đang mong chờ. Anh ấy sẽ chẳng bao giờ thừa nhận những khát khao như thế. Anh vốn rất hiếm khi thú nhận điều gì, trừ khi cô chủ động thúc đẩy. Những lúc như vậy, anh sẽ để mặc cho cảm xúc tuôn trào, và cô luôn chống tay lên cằm, kiên nhẫn lắng nghe.
Họ đang ngồi xem biểu diễn tại ghế ngồi khu ban công phía trên lầu Nhà hát Hoàng gia. Tấm vải nhung màu đỏ trên chỗ để tay đã trở nên bạc thếch. Nổi bật phía ngoài màn sân khấu là dòng chữ khắc nổi EJ BLOT TIL LYST [1]. Sàn sân khấu bằng gỗ sồi đen đã được đánh bóng từ lúc chiều. Hương dược liệu phảng phất trong không khí khiến Greta nghĩ đến mùi của căn hộ sau khi Einar đã lau dọn sạch sẽ.
Bàn tay Einar hơi run rẩy, làn da dưới cổ ửng hồng. Chỗ ngồi của Greta và Einar cao ngang tầm với chiếc đèn chùm được làm từ nhiều khối cầu pha lê màu khói. Ánh đèn chiếu lên phần xương quai hàm, nơi cánh đàn ông thường để tóc mai. Râu của anh nhạt màu đến mức chỉ cần cạo râu mỗi tuần một lần; số ria mọc phía trên môi ít đến nổi Greta có thể đếm từng cọng nếu muốn. Gò má anh luôn nhàn nhạt như màu trà hoa hồng. Điều này làm cho Greta thỉnh thoảng phải liếc nhìn với ánh mắt ganh tỵ.
Dàn nhạc giao hưởng đang dần xuất hiện trên sân khấu, chuẩn bị sẵn sàng cho vở Tristan und Isolde. Cặp đôi ngồi cạnh Einar và Greta đang len lén bỏ chân ra khỏi đôi giày bệt dành cho buổi tối. Einar cuối cùng cũng trả lời: “Anh tưởng chúng mình đã thống nhất là sẽ không tham gia vũ hội năm nay.”
“Chúng mình không nhất thiết phải đi. Em chỉ là nghĩ đến...”
Đèn trần tối dần, và nhạc trưởng tiến đến trước dàn nhạc. Suốt năm tiếng đồng hồ sau đó, Einar ngồi cứng ngắc, hai chân khép lại, tay siết chặt tờ giới thiệu chương trình. Greta biết anh vẫn luôn hướng về Lili, giống như một người anh nghĩ đến cô em gái xa cách đã lâu nay vừa trở về nhà. Đêm nay Anna diễn vai Brangane, cô hầu gái của Isolde. Giọng hát cô ấy làm Greta liên tưởng đến những hòn than trong bếp lò. Và mặc dù giọng cô không hề chuẩn như giọng nữ trung, nó vẫn rất phù hợp và ấm áp trong từng góc cạnh. Giọng của một cô hầu gái thì còn có thể như thế nào nữa chứ? “Một vài người phụ nữ thú vị nhất mà em biết đều không phải thuộc dạng xinh đẹp tuyệt trần,” cô lầm bầm bình luận với Einar khi họ đang nằm trên giường và tay Greta đang cuộn dưới vùng eo ấm áp của anh. Khi đó, cô đã gần đi vào giấc ngủ và không tài nào phân biệt được mình đang ở đâu, Copenhagen hay California.
Ngày hôm sau, khi trở về nhà sau buổi gặp gỡ với ông chủ một phòng triển lãm khác, một người đàn ông rụt rè và tầm thường đến mức không nỡ nói lời từ chối để cô phật lòng, Greta đã lao đến hôn Einar. Lúc ấy, trên má và tóc anh hiển hiện vết tích của Lili, là hương thơm thoang thoảng của bạc hà và sữa.
“Lili vừa đến đây sao?”
“Cô ấy ở đây suốt cả buổi chiều.”
“Cô ấy đã làm gì?”
“Cô ấy đến dạo quanh cửa hiệu Fonnesbech và mua cho mình một vài thứ.”
“Một mình?” Greta hỏi.
Einar gật đầu. Anh đã vẽ xong tranh cho ngày hôm nay và đang ngồi trên chiếc ghế có tay vịn bằng gỗ cây óc chó, với tờ Politiken trải rộng trong tay và con Edvard IV cuộn tròn dưới chân anh. “Cô ấy nhờ anh nhắn với em rằng cô ấy muốn tham dự vũ hội.”
Greta không nói gì. Cô có cảm giác như ai đó đang giải thích quy tắc của một trò giải câu đố mới toanh: cô vẫn đang nghe và gật gù nhưng thực chất lại đang nhủ thầm, mình hy vọng là sẽ hiểu rõ hơn khi trò chơi bắt đầu.
“Em muốn cô ấy tham dự buổi vũ hội mà, phải không?” Einar hỏi, “Em thấy sao nếu cô ấy thay anh đi cùng với em?”
Đang xoắn đuôi tóc thành nút thắt mà tí nữa sẽ rối như mớ bòng bong, Greta đáp: “Em không thấy phiền đâu.”
Đêm đó, Greta nằm trên giường, cánh tay cô đặt lên ngực Einar. Khi hai người kết hôn, bà của Einar đã tặng hai người một chiếc giường chân cao làm từ gỗ sồi. Chiếc giường nhỏ nhắn như bất kỳ ai trong gia đình nhà Wegener, ngoại trừ cha của Einar. Nhiều năm qua, Greta dần quen với việc nằm xéo và gác ngang qua chân Einar. Thỉnh thoảng khi cảm thấy hoài nghi cuộc sống hiện có ở Đan Mạch, Greta có cảm giác mình là một cô bé con, và Einar với gương mặt tinh xảo như búp bê Trung Hoa cùng bàn chân nhỏ xinh chính là món đồ chơi yêu thích của cô. Lúc ngủ, đôi môi bóng của anh sẽ bĩu ra. Tóc anh rũ xuống ôm lấy gương mặt. Greta còn không đếm nổi những đêm mình không ngủ chỉ để ngắm hàng lông mi dài khẽ lay động khi anh đang nằm mơ.
Đêm đã khuya lắm rồi, phòng ngủ hoàn toàn tĩnh lặng trừ vài tiếng còi phát ra từ chuyến phà đang rời bến Bornholm, một hòn đảo trên biển Baltic. Đó chính là quê hương của bà nội cô. Greta càng ngày càng thao thức nhiều hơn khi nghĩ đến Lili, nhớ đến gương mặt mộc mạc, bờ môi trên rõ ràng đang run rẩy, ánh mắt nâu sũng nước khiến Greta không biết cô ấy có bật khóc vào lúc nào hay không. Chiếc mũi thanh tú làm Lili trông như một cô gái thực thụ.
Lili hóa ra còn e thẹn hơn Einar. Ít nhất là khi tiếp xúc ban đầu. Đầu cô khẽ cúi thấp khi nói chuyện, và đôi lúc cô sẽ hoảng hốt đến mức không nói nên lời. Chỉ cần được hỏi những câu đơn giản như “Cô đã từng nghe đến vụ hỏa hoạn khủng khiếp ở vũng tàu đậu của công ty Mậu dịch Hoàng gia Greenland chưa?”, Lili sẽ nhìn chằm chằm vào Greta hoặc Anna rồi quay mặt đi. Lili thích viết giấy nhắn và dán khắp căn hộ, đặt bưu thiếp mua được từ chỗ người phụ nữ mù đứng trước cổng công viên Tivoli lên trên tủ quần áo màu xám tro hay đính lên phần rìa bé xíu trên khung vẽ của Greta.
Nhưng chị chẳng quen ai ở vũ hội cả. Em nghĩ chị có nên đi không?
Để anh Einar ở nhà có ổn không? Anh ấy sẽ không thấy phiền lòng chứ?
Và một lần nọ, cô viết:
Chị thấy mình không đẹp tí nào. Hãy cho chị lời khuyên.
Greta trả lời tin nhắn, đặt chúng dựa vào cái tô đựng lê ngay trước lúc rời khỏi căn hộ:
Quá trễ rồi. Em đã thông báo vói mọi người rằng chị sẽ tới. Chị đừng lo gì cả. Mọi người đều nghĩ chị là em họ của Einar mới từ Bluetooth đến đây. Vài người đã hỏi em rằng chị có cần ai đó đi cùng hay không, nhưng em đã nói rằng không cần thiết. Chị sẽ không phật ý, phải không? Em không nghĩ là chị - không biết đây có phải là từ thích hợp hay không - sẵn sàng cho việc này.
Vào buổi tối, Einar và Greta thường ăn tối với bạn bè tại quán café yêu thích kế bên kênh Nyhavns. Thỉnh thoảng, khi đã say khước vì rượu aquavit, anh sẽ khoác lác như trẻ con về một trong những buổi triển lãm thành công của mình. “Tất cả tranh đều bán sạch!”, anh dõng dạc tuyên bố, làm Greta nhớ lại những lúc Carlisle không ngừng khoác lác về điểm số môn hình học hay về người bạn đẹp trai mới quen.
Nhưng những lời nói của Einar làm Greta thấy xấu hổ khi cô cố gắng lờ đi những lúc anh đề cập đến tiền bạc. Rốt cuộc thì rêu rao như vậy để làm gì? Làm sao mấy người bạn có thể giả vờ như mấy chuyện đó không ảnh hưởng gì đến họ? Cô sẽ liếc Einar, khi trên bàn ăn chỉ còn mấy miếng xương cá hồi đầy dầu mỡ nằm chỏng chơ trong đĩa ăn. Cô sẽ không bao giờ kể với Einar về món tiền hồi môn cha gửi trước khi tiễn cô đến Đan Mạch, và cũng chẳng hề đề cập đến khoản thu nhập gửi vào tài khoản ở ngân hàng Landmandsbanken sau mỗi mùa thu hoạch cam - không phải vì ích kỷ, mà vì cô lo tiền bạc sẽ làm anh thay đổi thành người khác, kiểu người mà cô không hề muốn chung sống. Vào một ngày đáng hận, cô đã mua đứt cả khu nhà Widow House. Nhưng cô chẳng dám hé răng kể với Einar, người vẫn đều đặn rảo bước trong căm hận đến nộp tiền thuê nhà hằng tháng cho thu ngân tại ngân hàng Landmandsbanken. Greta biết mình sai rồi, nhưng cô phải làm sao bây giờ?
Mỗi khi bị kích động, anh sẽ gõ tay trên bàn, tóc rũ xuống quanh mặt anh; cổ áo sơ mi mở rộng, lộ ra bờ ngực hồng mịn. Người anh không hề dư chút mỡ nào, ngoại trừ chỗ ngực mềm nhỏ như bánh bao. Greta sẽ vỗ vào cổ tay anh, nhắc anh uống rượu aquavit chậm thôi - đây là cách mẹ cô đã làm khi Greta uống thử loại rượu Tennis Specials tại câu lạc bộ Valley Hunt. Nhưng Einar dường như chưa từng hiểu được ám hiệu của cô, và thay vào đó, anh sẽ nâng ly rượu thon dài đến gần môi cô, nhìn quanh bàn rượu rồi mỉm cười như thể xin phép.
Einar là người đàn ông kỳ quặc về mặt thể chất; Greta biết rõ điều này. Cô nghĩ rằng nếu áo sơ mi của anh mở rộng xuống dưới thêm tí nữa, thì tất cả mọi người trên bàn rượu có thể liếc nhìn bờ ngực trông khêu gợi như cô gái mới lớn. Với mái tóc xinh xắn và chiếc cằm nhẵn nhụi như tách trà, anh đúng là khiến người ta dễ nhầm lẫn. Anh xinh đẹp đến mức thỉnh thoảng những bà già ở công viên Kongens Have sẽ phá luật để ngắt những bông tulip trong vườn hoa công cộng để tặng anh. Môi anh còn hồng hơn màu của bất kỳ thỏi son nào mà Greta có thể mua được ở tầng ba tòa nhà Magasin du Nord.
“Nhớ nói với bọn họ vì sao anh không đến dự vũ hội,” Greta nhắc chồng lúc ăn tối vào đêm nọ. Thời tiết ấm áp và họ đang ăn uống tại dãy bàn ngoài trời, với ánh lửa của một vụ hỏa hoạn hắt lên phía xa. Trước đó không lâu, hai con tàu đang chạy trên kênh đào vừa va phải nhau, khiến mùi kerosene và gỗ vụn tan tỏa trong đêm.
“Vũ hội?” Einar nghiêng đầu hỏi lại.
“Greta nói với chúng tôi là em họ anh đang trên đường từ Jutland đến đây,” Helene Albeck, viên thư ký tại công ty Mậu dịch Hoàng gia Greenland, lên tiếng. Cô ta trông chắc nịch trong bộ váy đầm màu xanh lục kiểu trễ eo. Một lần nọ, khi đã say khướt, cô ta kéo tay Einar và đặt lên đùi mình. Einar lập tức chống cự, làm Greta cảm thấy hài lòng sau khi chứng kiến sự việc qua kẽ hở trên cửa bếp.
“Em họ tôi?” Einar hỏi lại, nghe như đang lúng túng. Cánh môi trên trở nên ẩm ướt và anh im bặt như thể quên mất cách nói chuyện.
Chuyện này xảy ra không chỉ một lần. Greta đề cập đến Lili với bạn bè, thậm chí với Anna, và gương mặt của Einar nhăn lại, giống như anh chẳng hề biết ai là Lili. Anh và Greta chưa từng đề cập đến việc này sau đó, về việc anh hiểu nhầm một cách trẻ con kìa. Lili là ai cơ? À, phải, Lili. Em họ tôi á? Vâng, em họ tôi, Lili. Rồi sự việc sẽ lặp lại vào ngày hôm sau. Mọi chuyện diễn ra cứ như bí mật nhỏ của họ chính là bí mật của riêng Greta. Giống như Greta đang bày trò gì đó sau lưng Einar. Cô cân nhắc sẽ phải thảo luận trực tiếp với anh, nhưng rồi lại quyết định không làm vậy. Có lẽ cô sợ gây áp lực quá nhiều với anh. Hay anh sẽ đâm ra oán hận sự tọc mạch của cô. Hay có lẽ nỗi sợ hãi lớn nhất của cô chính là việc Lili biến mất mãi mãi, với hình ảnh chiếc cổ áo có thể tháo rời màu trắng tinh phấp phới theo từng bước chân trốn chạy, bỏ lại Greta một mình tại khu nhà Widow House.
Chú thích:
(1) Đây là khẩu hiệu của Nhà hát Hoàng gia tại thủ đô Copenhagen, theo tiếng Đan Mạch có nghĩa là “Không chỉ phục vụ cho nhu cầu giải trí”.