Bốn
Greta trải qua sinh nhật lần thứ mười tám trên con tàu Princess Dagmar. Cô đứng hờn dỗi bên lan can tàu. Cô chưa hề quay lại California kể từ mùa hè sau sự cố chiếc xe ngựa của hàng thịt. Chỉ cần nghĩ về căn nhà gạch quét sơn trắng toát trên đỉnh đồi nhìn ra nơi đại bàng làm tổ tại hẻm núi Arroyo Seco, và cả dãy núi San Gabriel có màu tía lúc hoàng hôn cũng làm cô cảm thấy nuối tiếc khôn nguôi. Cô biết mẹ muốn cô kết bạn với mấy cô con gái của bạn mẹ - với Henrietta, con gái của gia đình sở hữu mấy mỏ dầu ngay cạnh bờ biển; với Margaret, con gái của chủ tòa báo; với Dottie Anne, con gái của gia đình sở hữu trang trại nuôi gia súc lớn nhất vùng California, chính là khu vực phía nam Los Angeles với diện tích không hề kém cạnh so với toàn bộ lãnh thổ Đan Mạch. Cha mẹ Greta mong cô sẽ trưởng thành giống như con gái của những nhà ấy, như thể cô chưa từng rời đi, như cái cách mà một quý cô nếu đã sinh ra ở California thì phải sở hữu những phẩm chất sau: thông minh, lễ phép, cưỡi ngựa thành thạo và điềm tĩnh. Tại câu lạc bộ Valley Hunt, tiệc khiêu vũ dịp
Giáng sinh chính là dịp ra mắt của những cô gái con nhà quyền quý. Vào đêm đó, những cô gái sẽ bước xuống cầu thang trong bộ váy đầm phồng, lá trạng nguyên trắng bạc gài trên tóc. “Chúng ta quay về Pasadena lúc này là đúng ngay dịp con phải ra mắt mọi người,” mẹ Greta nói hàng ngày suốt chuyến hải trình. “Cảm tạ Chúa vì sự tiến đánh của quân Đức.”
Phòng của Greta ở căn nhà trên đỉnh đồi có một cửa sổ tò vò hướng ra bãi cỏ phía sau và nguyên một vườn hoa hồng với những cánh hoa đang héo tàn dưới cái nóng của mùa thu. Mặc dù điều kiện ánh sáng phù hợp, nhưng căn phòng quá nhỏ để vẽ vời. Mới ở đấy có hai ngày mà cô đã cảm thấy tù túng, cứ như ngôi nhà, với ba tầng phòng ngủ và tiếng guốc gỗ lộp cộp mỗi khi cô hầu gái người Nhật Bản lên xuống cầu thang, đang bóp nghẹt trí tưởng tượng của cô. “Mẹ, con muốn trở về Đan Mạch lập tức, ngay ngày mai! Chỗ này quá tù túng đối với con,” cô phàn nàn. “Có thể chỗ này hợp với mẹ và anh Carlisle nhưng con thấy con chẳng làm được việc gì nên hồn. Con cảm giác con sắp quên cách vẽ vời như thế nào luôn rồi.”
“Greta, con gái yêu, chuyện này là không thể,” mẹ cô trả lời, vẫn bận rộn với việc biến chuồng ngựa thành bãi đậu xe ôtô. “Làm sao ở California mà con còn cảm thấy tù túng? Con thử so với vùng đất Đan Mạch nhỏ bé xem!”. Greta phải đồng ý rằng ý kiến này không có tí logic nào, nhưng đó chính là cảm nhận của cô.
Cha cô gửi một bài khảo sát thống kê về đất nước Đan Mạch được xuất bản bởi Hội Kiểm soát Khoa học Hoàng gia. Greta dành một tuần với nó, nghiền ngẫm hết những biểu đồ trong cảm giác tủi thân và mong chờ: năm ngoái, ở Đan Mạch có 1.476.000 con heo và 726.000 con cừu. Tổng số lượng gà mái là 12.000.000 con. Cô sẽ đọc từng con số, rồi lại ngẩng đầu nhìn qua cửa sổ tò vò. Cô ráng ghi nhớ chỗ số liệu ấy, như thể cô sẽ cần đến chúng ngay lập tức, mặc dù cô không thể nói rõ ràng rằng cô cần chúng để làm gì. Và cô lại tiếp tục nài nỉ mẹ mình: “Con quay về không được sao? Con không thèm quan tâm đến tình hình quân Đức đâu mà.”
Cảm thấy cô đơn, Greta thả bộ về phía hẻm núi Arroyo Seco, rảo bước dọc theo lòng sông đã khô cạn, nơi mà lũ chim choi choi đang tìm kiếm nguồn nước. Lưu vực sông cạn trơ đáy vào mùa thu, từng bụi cây ngải đắng và mù tạt, oải hương sa mạc và hoa rồng, tất cả đều khô giòn; rồi quả toyon, quả coffeeberry, quả cơm cháy, quả sumac vị chanh cũng chung số phận. Không khí ở California khô nóng đến mức làm bong tróc làn da của Greta; khi cô thả bộ dọc theo lòng sông đầy cát, cô có thể cảm nhận từng mạch máu trong mũi nứt ra và chảy máu. Một con chuột túi má nhận ra chim đại bàng đang lượn vòng trên bầu trời nên vội vã lủi ngang qua mặt cô. Lá sồi đung đưa xào xạc trong gió. Cô nhớ đến những con phố nhỏ tại Copenhagen, nơi có mấy tòa nhà mấp mé dọc lề đường, trông như một cụ già đang sợ hãi bước xuống lòng đường. Cô nhớ đến Einar Wegener, bóng hình anh mờ ảo như trong mơ.
Ở Copenhagen, ai cũng biết đến Greta nhưng chẳng ai kỳ vọng điều gì từ cô; cô còn giống kẻ ngoại lai hơn cô thợ giặt tóc đen quê ở Canton đã lang thang khắp chốn và hiện đang làm việc cho mấy cửa hàng nhỏ ở khu Istedgade. Tại Copenhagen, bất kể cô cư xử ra sao, người ta đều tôn trọng cô như cái cách mà dân Đan Mạch khoan dung cho hàng tá những bá tước phu nhân lập dị thường chỉ biết thêu thùa trong những tòa trang viên phủ đầy rêu. Về California, cô lại trở thành quý cô Greta Waud, em gái sinh đôi của Carlisle, người thừa kế của vùng Orange. Những ánh mắt cứ xoi mói dọc theo từng bước chân cô. Tính trong địa phận hạt Los Angeles, có không đầy mười người đàn ông thích hợp để kết hôn với cô. Người ta cũng biết cô sắp chuyển vào ở trong một ngôi nhà kiểu Ý nằm ở bờ bên kia hẻm núi Arroyo Seco. Và con cô sẽ lớn lên trong phòng dành riêng cho trẻ em và chơi đùa tại phòng vui chơi trong ngôi nhà ấy. “Con chẳng cần phải chờ đợi nữa đâu,” mẹ cô nói ngay trong tuần đầu tiên quay lại California. “Đừng quên là con đã mười tám tuổi rồi.” Và tất nhiên chẳng ai quên mất sự kiện chiếc xe ngựa của hàng thịt. Một cậu trai khác đã thay thế vị trí người giao hàng, nhưng mỗi lần tiếng lộc cộc của chiếc xe vang lên, một khoảnh khắc xấu hổ lại bao trùm lên ngôi nhà quét sơn trắng.
Carlisle què quặt, cái người luôn bị đau chân mỗi khi Đan Mạch trở lạnh, đang chuẩn bị nhập học ở Stanford. Đây là lần đầu tiên cô cảm thấy ganh tị với anh mình - ganh tị rằng anh được phép tập tễnh băng qua sân trường đầy cát đến lớp học dưới ánh mặt trời trong trẻo của vùng Palo Alto, trong khi cô phải ngồi trong phòng đón nắng với quyển sổ ký họa đặt trên đùi.
Greta bắt đầu mặc áo choàng kiểu họa sĩ, và cô cất tờ giấy nhắn của Einar ở túi áo trước. Cô ngồi trong phòng hứng nắng và viết thư cho anh, mặc dù cô thấy thật khó khăn khi nghĩ ra chuyện gì đó để báo cho anh biết. Cô không muốn kể cho anh biết việc mình đã không vẽ vời gì từ lúc rời khỏi Đan Mạch. Cô không muốn viết về thời tiết vì đó là thứ chỉ có mẹ cô mới hay nói đến. Thay vào đó, cô viết thư kể về những dự định của mình khi trở lại Copenhagen: quay lại học tại Học viện Hoàng gia; cố gắng sắp xếp một buổi triển lãm nhỏ để trưng bày tranh cô vẽ tại trung tâm triển lãm Den Frie Udstilling; thuyết phục Einar tháp tùng cô vào bữa tiệc sinh nhật mười chín tuổi. Suốt cả tháng đầu tiên vừa quay về California, cô đi bộ đến bưu điện nằm trên phố Colorado để gửi những bức thư. “Thư sẽ đi rất chậm đấy,” thư ký bưu điện nói qua song cửa sổ bằng đồng. Và Greta trả lời, “Đừng nói với tôi rằng quân Đức hiện giờ cũng thiêu hủy thư tín.”
Cô không thể sống như thế này, cô kể lể với Akiko, một trong mấy cô hầu gái người Nhật với cái mũi lúc nào cũng sụt sịt. Cô hầu gái sẽ cúi đầu chào rồi mang đến cho Greta một bông hoa trà thả nổi trong cái tô bằng bạc. Mình phải thay đổi thứ gì đó, Greta tự nhủ với chính mình khi cô tức giận đến sôi máu, mặc dù cô chẳng đặc biệt căm giận ai, ngoại trừ quân Đức. Vừa mới đây thôi, cô vẫn còn là đứa con gái tự do nhất Copenhagen, nếu không nói là nhất thế giới, và giờ đây những tên lính Đức bẩn thỉu gần như phá hủy cuộc sống của cô! Cô đã trở thành một kẻ bị đày ải. Bị trục xuất đến tận California, nơi hoa hồng dại mọc cao đến ba mét và chó sói Bắc Mỹ trong hẻm núi gào rú suốt đêm. Cô không thể tin nổi mình lại trở thành loại con gái cả ngày chỉ biết chờ đợi đến lúc thư tín đến, một xấp phong bì và chả có cái nào đến từ Einar.
Cô đánh điện cho cha, van xin ông cho phép cô quay lại Copenhagen. Ông trả lời: “Đường biển không còn an toàn nữa.” Greta đòi mẹ cho cô đến học ở Stanfod cùng anh Carlisle, nhưng mẹ cô bảo rằng trường duy nhất phù hợp với cô là trường Seven Sisters ở vùng phía Đông đầy tuyết phủ.
“Con có cảm giác như con đang bị vò nát,” cô than vãn với mẹ.
“Đừng có đóng kịch nữa,” quý bà Waud đáp lại, vẫn bận rộn xoay sở việc gieo hạt mới cho cánh đồng vụ đông và vườn hoa anh túc.
Một ngày nọ Akiko gõ nhẹ vào cánh cửa phòng Greta, cúi đầu chào và trao cho cô một tập sách nhỏ. “Xin lỗi cô chủ,” Akiko nói. Rồi cô ấy lại vội vàng lui ra ngoài, bước lộp cộp trên đôi guốc gỗ. Tập sách nhỏ giới thiệu về cuộc họp mặt lần tới của Hiệp Hội Mỹ thuật và Thủ công vùng Pasadena. Greta lại nhớ đến những tay nghiệp dư của hiệp hội với bảng màu kiểu Paris nên quăng tập sách giới thiệu qua một bên. Cô quay lại với quyển sổ ký họa nhưng chẳng tài nào nghĩ ra được ý tưởng gì.
Một tuần sau đó, Akiko quay lại trước cửa phòng Greta. Cô ấy trao cho Greta một tập sách giới thiệu thứ hai. “Xin thứ lỗi cho tôi,” Akiko nói, tay vẫn che miệng. “Nhưng tôi nghĩ cô chủ sẽ thích nó.”
Mãi cho đến lần thứ ba khi Akiko đưa đến tập sách giới thiệu thì Greta mới quyết định tham gia buổi họp mặt. Hiệp hội này sở hữu một căn nhà một tầng bằng gỗ ngược hướng với Pasadena ngay tại chân đồi. Mới tuần trước, một con sư tử núi với bộ lông vàng như màu hoa hướng dương, đã thình lình xông qua bụi thông cuối đường và tóm lấy một đứa trẻ ở gần đó. Những thành viên của hội không còn biết thảo luận về chuyện gì khác. Chương trình nghị sự bị hủy bỏ, và người ta bắt đầu thảo luận về một bức tranh tường mô tả lại cảnh tượng đó. “Bức tranh đó sẽ được đặt tên là: Cú tập kích bất ngờ của sư tử!" có ai đó đã tuyên bố. Một thành viên khác thì đề nghị: “Sao không làm một bức tranh khảm?". Thành viên của hội phần đông là phụ nữ, nhưng vẫn có một ít đàn ông tham gia, và nhiều người trong số họ hay đội mũ nồi. Ngay khi buổi họp mặt sắp thống nhất ý kiến về việc trưng bày một bức tranh tập thể ở thư viện thành phố vào ngày đầu năm mới, Greta lủi ra tít phía sau căn phòng. Suy đoán của cô đúng là chính xác.
“Cô không tham gia sao?" một người đàn ông chợt hỏi.
Người đó là Teddy Cross, với vầng trán rất trắng và cái cổ dài nghiêng về bên trái. Chính Teddy Cross là người đã mời cô rời khỏi buổi họp mặt và đến tham quan xưởng gốm của anh ta trên phố Colorado, nơi lò nung luôn đốt ngấu nghiến từng khúc gỗ óc chó cả ngày lẫn đêm. Cổ chân anh đầy cơ bắp do thường xuyên dùng chân quay bàn xoay làm gốm. Teddy Cross là người đã trở thành chồng của Greta sau buổi ra mắt vào đêm vũ hội Giáng sinh tại câu lạc bộ Valley Hunt; người ngay trước khi chiến tranh thế giới kết thúc, đã bỏ mạng dưới ánh nhìn sững sờ của Greta.
Anh là người đàn ông thứ hai mà Greta yêu. Cô yêu Teddy vì những chiếc bình sứ cổ lọ do anh nhào nặn từ cao lanh và kính mờ. Cô yêu gương mặt trầm tĩnh lởm chởm râu ria và cách anh nhếch mép mỗi khi nhúng đồ gốm vào thùng men sứ. Anh là người gốc Bakerfields, con trai của gia đình nông dân trồng dâu. Vết nhăn nheo xuất hiện trên vùng da quanh mắt do tật nheo mắt lúc còn bé. Anh hỏi Greta về Copenhagen, về dòng kênh đào và những vị vua, nhưng anh không phán xét gì về những chuyện cô kể, mí mắt là thứ duy nhất chuyển động trên gương mặt anh. Cô kể với Teddy rằng có một họa sĩ tài hoa chuyên vẽ tranh phong cảnh đã đem lòng yêu cô, nhưng anh chỉ nhìn chằm chằm. Anh chưa từng đặt chân đến phía đông vùng Mojave, và lần duy nhất anh đến thăm một trong những khu nhà nằm dọc đại lộ Orange Grove là khi anh được thuê sản xuất gạch men trang trí trước lò sưởi và lót sàn phòng ngủ phụ ở hành lang phía trước.
Greta thích thú với ý nghĩ hẹn hò cùng anh; dắt tay anh đi dạo quanh những đình hóng mát tại sân tennis, nơi sẽ diễn ra những buổi tối tiệc tùng ở Pasadena vào mỗi mùa thu; khoe khoang với anh về mấy cô gái hay đến câu lạc bộ Valley Hunt, như thể cô không phải là một trong số họ, không còn giống như họ nữa - đằng nào thì cô cũng sẽ chuyển đến sống ở châu Âu. Cô sẽ trèo lên xe ngựa của hàng thịt nếu cô muốn, hay cô sẽ để một anh thợ gốm sứ tháp tùng cô.
Đúng như mong đợi, mẹ Greta cấm cửa Teddy Cross. Nhưng điều này chẳng hề ngăn cản việc Greta sẽ dắt anh dạo quanh Pasadena, đến thăm hỏi mấy cô nàng tẻ nhạt như Henrietta, Margaret và Dottie Anne trong khu vườn rợp bóng mát của họ. Mấy cô gái đều không cảm thấy phiền về sự hiện diện của Teddy, với Greta, điều này đồng nghĩa với việc bọn họ hoàn toàn phớt lờ anh. Đồ gốm của anh bán chạy hết mức. Greta phát hiện rằng khi anh đến dự tiệc với những vệt đất sét bám dưới ngón tay, anh trông quyến rũ lạ thường. Mẹ Greta, người hay tuyên bố trong những bữa tiệc tùng rằng bà chắc chắn sẽ coi trọng California hơn đất châu Âu cũ kỹ, lạc hậu, vẫn thường vỗ nhẹ vào tay Teddy bất kỳ lúc nào họ gặp mặt. Cử chỉ của bà khiến Greta cảm thấy bực mình. Mẹ cô biết nếu bà tỏ thái độ không tốt với Teddy Cross ngay trước mặt người khác, thì mối bất hòa sẽ nhanh chóng được đăng tải trên tờ American Weekly.
“Bọn họ khinh thường anh,” Greta càu nhàu với Teddy trong một bữa tiệc.
“Chỉ có vài người như vậy thôi,” anh trả lời, vẻ mặt rất vui khi được ngồi cạnh Greta trên chiếc trường kỷ đan bằng liễu gai đặt cạnh hồ bơi, khi gió Santa Anas thổi bay mấy chiếc lá cọ xuống đất và bữa tiệc hừng hực diễn ra sau mấy ô cửa sổ của căn nhà lớn. Giá mà anh ấy biết được! Greta nghĩ ngợi, chuẩn bị sẵn sàng để chiến đấu - với ai, hay là với cái gì, cô không biết rõ, nhưng cô đã sẵn sàng.
Một ngày nọ, nguyên một tập thư cột bằng dây vải lại đến, và Akiko mang một phong bì màu xanh dương đến tận phòng Greta. Cô nhìn chằm chằm vào phong bì, đặt nó lên lòng bàn tay mình để ước thử trọng lượng của nó. Cô không thể tin được Einar lại viết thư cho cô, đầu óc cô không ngừng suy đoán anh có thể nói gì với cô: Có vẻ như chiến tranh sắp đến hồi kết và chúng mình sắp được ở bên nhau vào dịp Giáng sinh. Hoặc là: Anh sẽ đến California bằng chuyến tàu vượt biển lần tói. Hay cũng có thể là: Những bức thư em gửi có ý nghĩa vói anh nhiều hon những gì anh có thể nói nên lời.
Trường hợp nào cũng có thể xảy ra, Greta tự nhủ với lòng mình khi chiếc phong bì vẫn nằm trên đùi cô. Anh ấy có thể đã đổi ý thì sao. Chuyện gì cũng có thể xảy ra mà. Và rồi Greta bóc lớp xi niêm phong.
Bức thư được gửi cho “Cô Waud thân mến,” và chỉ gồm một dòng ngắn ngủi: “Dựa vào diễn biến của những sự kiện thế giới cùng nhiều khía cạnh khác, tôi cho rằng chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau, và có lẽ đó là điều tốt nhất.” Greta gấp bức thư lại và nhét vào túi áo. Vì sao Einar có thể nghĩ như vậy? Cô tự hỏi chính mình, lấy tay áo chùi nước mắt. Vì sao anh không hề ấp ủ một tia hy vọng nào? Cô đau lòng đến mức không biết nên làm gì tiếp theo.
Sau đó, Akiko chạy đến trước cửa phòng Greta và thông báo với cô, “Cô chủ có điện thoại. Là cậu Cross.”
Và thế là qua chiếc điện thoại đặt tại đại sảnh trên lầu, ngay chỗ tai vách mạch rừng với mẹ cô, Greta đã mời Teddy đi cùng mình đến buổi khiêu vũ ra mắt. Anh đồng ý, nhưng với một điều kiện rằng Greta phải ngừng lo lắng về chuyện anh có thể hòa hảo với mẹ cô hay không. “Anh sẽ mời mẹ em khiêu vũ một điệu cho em thấy,” anh trấn an cô. Nhưng Greta đảo mắt và thầm nghĩ chính Teddy mới không hiểu anh đang chuẩn bị gặp rắc rối như thế nào. Khi cô gác điện thoại, mẹ cô chỉ nói: “Vậy thì mọi chuyện coi như đã xong xuôi. Nhưng con phải giúp cậu ta chọn một bộ lễ phục đuôi tôm cho đàng hoàng đấy.”
Có tất cả bảy cô gái sẽ ra mắt trong đêm khiêu vũ ấy. Bạn nhảy của họ đều là những chàng trai vốn theo học ở Harvard, Princeton hay thao luyện tại căn cứ quân sự ở Tennessee, San Francisco và đang về nhà nghỉ đông. Một cô gái bị bệnh hen đã mời anh Carlisle tháp tùng vì lá phổi của cô ấy quá yếu để di chuyển theo tốc độ của một bạn nhảy lão luyện. Và Greta, lần đầu tiên nghĩ rằng cô nên quên hết mọi thứ về Einar Wegener, cũng ra sức chuẩn bị bằng cách tập luyện động tác nhún đầu gối và cúi chào.
Chiếc váy thắt eo cao màu trắng tinh chẳng bao giờ hợp với vóc người Greta. Vai áo đính đầy ren còn chiều dài váy thì hụt cả khúc, để lộ bàn chân cô. Hay ít nhất đó là cảm nhận của Greta; cô chỉ nghĩ đến việc để lộ bàn chân to dài khi bước xuống cầu thang đại sảnh của câu lạc bộ Valley Hunt. Lan can cầu thang được bọc kín bởi vòng hoa trang trí với cây thường xanh, táo và ớt. Mấy người khách tham dự đeo nơ bướm màu trắng đang đứng rải rác quanh câu lạc bộ và nhâm nhi loại rượu pha Tennis Specials, lịch thiệp ngắm nhìn bảy cô gái vừa được ra mắt. Người ta đã trang hoàng cho bốn cây thông Giáng sinh đặt xung quanh. Trong lò sưởi, ngọn lửa leo lét đang không ngừng cắn nuốt những khúc gỗ tùng bách.
Một trong mấy cô gái mang đến một bình bạc đựng đầy rượu whiskey có nắp chai xà cừ. Cô và mấy người được ra mắt vào đêm nay chuyền tay nhau bình rượu trong lúc bận rộn trang điểm và gắn những khóm lá trạng nguyên trên tóc. Bình rượu làm cho buổi đêm sáng bừng lên, cứ như người quản lý câu lạc bộ đã chỉnh mấy ngọn đèn treo trên tường lên mức sáng nhất. Điều này làm cho những ngọn lửa ảm đạm trong lò sưởi trông như mấy con quái vật đang chực chờ nhảy xổ ra từ màn ảnh.
Khi Greta bước xuống cầu thang, cô nhún đầu gối và thấp người cúi chào, cằm cô gần như song song với tấm thảm đậm chất phương Đông. Những thành viên câu lạc bộ vỗ tay tán thưởng, trong khi vẫn giữ ly rượu thăng bằng trên tay. Khi cô bước vào phòng khiêu vũ, Teddy Cross đã đứng đấy chờ cô từ bao giờ. Trong bộ lễ phục với nơ bướm trắng, anh trông cao lớn hơn bình thường. Tóc Teddy Cross bóng mượt do sáp dưỡng, và dung mạo của anh có điều gì đó rất khác lạ. Với mái tóc vàng kim sẫm màu, nếp nhăn trên đuôi mắt và làn da nâu rám nắng khỏe mạnh, trái táo Adam trên cổ nhấp nhô lên xuống vì hồi hộp, anh trông hao hao đàn ông Đan Mạch.
Khi đêm đã về khuya, sau những điệu valse, món thịt bò quay và dâu tây đi kèm với rượu vang vùng Oregon, Greta và Teddy lẻn ra khỏi bữa tiệc và rảo bước về sân tennis. Trời đêm trong trẻo và se lạnh, thế nên Greta phải nâng cao tà váy để rũ bớt những giọt sương bám trên đó. Cô đã ngà ngà say, cô biết rõ điều đó vì vừa rồi đã nói đùa một cách vô duyên về những trái dâu tây và cha mẹ của Teddy. Cô lập tức xin lỗi anh, nhưng chỉ cần nhìn cách anh gấp khăn ăn và đặt lên bàn thì cũng biết anh có vẻ hơi tự ái.
Thả bộ đến sân tennis là ý của cô, như là cách cô hối lỗi với Teddy về tất cả mọi thứ, về cuộc sống kỳ quặc tại Pasadena mà cô đã áp đặt anh phải bước vào. Nhưng cô chẳng chuẩn bị trước kế hoạch nào cả, cô chẳng nghĩ ra mình sẽ làm gì để bù đắp cho anh. Hai người đi đến đình hóng mát trên sân tennis nằm xa nhất, nơi có một vòi nước lạnh và chiếc ghế sofa nhỏ đan bằng liễu gai sơn màu xanh lục. Trên ghế sofa có mùi gỗ khô đã bị mọt ăn, họ bắt đầu hôn nhau.
Cô không kiềm chế được mà cứ suy nghĩ về sự khác nhau giữa nụ hôn với Teddy và với Einar. Trên tàu Princess Dagmar, cô đã đứng trước gương và thử hôn chính mình. Mặt gương lạnh lẽo làm cô nhớ đến cảm giác khi hôn Einar, và cô bắt đầu cho rằng nụ hôn tại cầu thang của Học viện Hoàng gia có gì đó giống như khi cô tự hôn mình. Nhưng nụ hôn với Teddy hoàn toàn khác biệt. Bờ môi anh thô ráp và mạnh mẽ, hàng râu phía trên môi đâm nhẹ vào miệng cô. Cổ anh nép vào cổ cô một cách mạnh mẽ và thô bạo.
Buổi khiêu vũ vẫn tiếp diễn trong trụ sở câu lạc bộ, vì vậy Greta nghĩ cô phải tỏ ra cuồng nhiệt hơn. Cô biết mình nên làm gì tiếp theo, nhưng cũng phải mất mấy phút sau mới thuyết phục được bản thân. Greta nhấc tay đặt lên phía trên đùi của Teddy. Ồ, chỉ nghĩ đến thôi mà nó đã cứng đến vậy, nói gì đến việc thực sự kích thích nó! Nhưng cô vẫn muốn làm vậy, hay ít nhất cô cho rằng mình muốn thế, và còn chắc rằng đó là điều mà Teddy đang mong muốn thông qua hành động rúc vào cổ và loay hoay cọ xát hàng râu cứng như sắt một cách mạnh bạo. Greta đếm đến ba, rồi khẽ nín thở và với tay đến khóa kéo quần Teddy.
Tay anh giữ cô lại. “Đừng, đừng làm vậy,” anh kêu lên, tay vẫn nắm lấy cổ tay cô.
Greta chưa từng nghĩ rằng anh sẽ từ chối. Cô biết ánh trăng sáng đến mức chỉ cần ngước mắt lên, cô sẽ nhìn rõ cái nhíu mày đầy lo âu về việc làm trái với lễ nghi trên mặt anh. Biểu hiện ấy sẽ làm cô xấu hổ chết mất. Greta nhớ đến lần gần đây nhất cô để một người đàn ông từ chối mình, và bây giờ, cô và Einar đã bị ngăn cách bởi lục địa và đại dương, đấy là còn chưa kể đến cuộc chiến tranh ác liệt.
Trên chiếc ghế sofa đan bằng liễu gai tại sân tennis xa nhất của câu lạc bộ Valley Hunt, Greta Waud và Teddy Cross vẫn yên lặng gần một phút, bàn tay đầy những vết chai của anh vẫn kìm chặt cổ tay cô.
Cô tự hỏi mình nên làm gì tiếp theo, và vào lúc này, cứ như bị một điều gì đó thúc giục, cô dụi mặt vào lòng Teddy. Greta bắt đầu sử dụng những mánh khóe mà cô đọc được từ mấy cuốn tiểu thuyết mua từ bên khu phố hư hỏng tại Nhà ga Trung tâm Copenhagen, hay nghe lỏm từ mấy cô hầu gái gốc Litva vốn nhiều chuyện và hay cợt nhả đang làm việc ở nhà mình. Teddy cố gắng ngăn cản cô, nhưng tiếng “dừng lại” phát ra từ môi anh càng lúc càng yếu dần. Cuối cùng, anh đành buông tay cô.
Sau khi mọi chuyện kết thúc, váy cô trở nên nhàu nhĩ và cuộn cao đến tận ngực. Áo đuôi tôm của anh cũng rách toạc. Và Greta, người chưa bao giờ trải qua chuyện gì cuồng nhiệt như thế, đang nép mình dưới cơ thể cao gầy của Teddy, lắng nghe tim anh đập thình thịch trên ngực mình và ngửi thấy mùi mằn mặn chua xót ướt đẫm giữa hai chân. Greta biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đó. Cô cam lòng đưa tay ôm chặt lưng Teddy và nghĩ thầm, mình sẵn sàng chấp nhận chuyện này nếu anh ấy dẫn mình rời khỏi nơi đây.
Họ tổ chức lễ kết hôn vào ngày cuối cùng của tháng Hai, trong khu vườn của căn nhà nằm trên đại lộ Orange Grove. Mấy cô hầu gái người Nhật Bản rắc đầy những cánh hoa trà lên thảm cỏ, và Teddy mặc một bộ lễ phục đuôi tôm mới toanh. Đám cưới được tổ chức gọn nhẹ với vài người anh em họ đến từ vùng San Marino, Hancock Park và bờ biển Newport. Hàng xóm của họ, một nữ thương nhân thừa kế công ty kẹo gôm từ Chicago cũng đến tham dự, chỉ vì bà Waud rêu rao rằng bà ấy từng trải qua chuyện tương tự như con gái. Cha mẹ Teddy cũng được mời đến, mặc dù chẳng ai mong đợi sự xuất hiện của họ; việc băng qua tuyến đường Ridge Route từ vùng Bakersfield vào tháng hai không phải lúc nào cũng khả thi.
Ngay sau đám cưới và kỳ trăng mặt ngắn ngủi tại dãy phòng hướng ra vườn của khách sạn Coronado ở San Diego, Greta ngồi khóc mỗi ngày. Cô khóc không phải vì đã kết hôn với người đàn ông tên Teddy Cross, mà vì cô càng cách xa đất nước Đan Mạch yêu dấu và cuộc sống mà cô hằng mong đợi, khi cha mẹ Greta đã tiễn cô đến định cư tận Bakersfield. Ông Waud mua cho vợ chồng Greta và Teddy một căn nhà nhỏ kiểu Tây Ban Nha có mái ngói màu đỏ kèm lưới sắt hiệu Seville che trên cửa sổ và cả một bãi đậu xe ôtô rợp bóng hoa giấy. Bà Waud thì gửi Akiko đến sống cùng họ. Lan can của tòa nhà ở Bakersfiled được chạm trổ từ sắt và cửa phòng đều làm theo kiểu cổng tò vò. Còn có cả một hồ bơi hình bầu dục và một phòng sinh hoạt chung được xây thấp xuống chứa mấy kệ sách. Căn nhà lọt thỏm giữa một khu vườn trồng cây chà là nên trong nhà vừa rợp bóng mát vừa thông thoáng.
Cha mẹ Teddy có đến thăm nhà một lần, dáng người họ hơi gù với đôi tay nhuốm màu hồng nhàn nhạt từ mấy trái dâu. Họ sống ngay ngoài ruộng dâu, trên một khoảnh đất mùn rộng vài mẫu Anh, trong một căn nhà hai gian làm từ gỗ bạch đàn. Đôi mắt hay nhíu chặt dưới mí mắt nhăn nheo bởi ánh mặt trời, và họ gần như lặng người khi ngồi trong căn phòng sinh hoạt chung của Greta, níu chặt lấy tay nhau, cùng nhau xem xét sự giàu có đang bày ra trước mặt: ngôi nhà kiểu Tây Ban Nha, bức tranh ngoại cảnh treo ngay trên lò sưởi, đôi guốc gỗ dày cộp của Akiko khi mang khay trà đến. Greta rót trà hồng đài ướp đá mời ông bà Cross, và họ ngồi cùng nhau trên chiếc ghế sofa trắng tinh mà bà Waud đã đặt riêng ở cửa hiệu Gump. Ai cũng cảm thấy dè dặt và gượng gạo vì tình huống này. Greta lái xe Mercer Raceabout đưa ông bà Cross về tận nhà. Chiếc xe chỉ có hai chỗ ngồi làm cho bà Cross phải nép vào lòng ông Cross. Trời sụp tối rất nhanh khi chiếc xe bon bon trên đường còn làn gió lạnh đầu xuân thổi ngang qua đồng ruộng. Một cơn gió rít qua những luống cày, cuốn tung bụi đất mịt mù. Greta phải mở cần gạt nước để làm sạch mớ đất cát trên kính chắn gió. Phía xa xa, ánh đèn vàng hắt ra từ ngôi nhà ván gỗ của ông bà Cross. Bụi đất thổi mù mịt đến mức Greta chẳng nhìn thấy gì ngoài ánh đèn. Cứ như cô và ông bà Cross đang cùng nghĩ đến một chuyện, bà Cross bảo, “Đó là nơi Teddy sinh ra.” Ông Cross, tay vẫn ôm chặt vợ mình, tiếp lời: “Con lúc nào cũng nói nó sẽ trở về mà.”
Suốt thời gian còn lại của mùa xuân, Greta thường ngủ gục trên một trong những chiếc ghế sofa trắng tinh đặt trong phòng sinh hoạt chung. Cô ghét vùng Bakersfield, cô ghét ngôi nhà kiểu Tây Ban Nha, cô thậm chí còn ghét lây sang cả đứa bé đang lớn dần lên trong bụng mình. Nhưng cô chưa bao giờ ghét Teddy Cross. Mỗi buổi chiều, cô ngồi đọc sách còn anh sẽ liên tục mang những tấm khăn mặt ấm áp đặt lên trán cô. Bụng Greta lớn nhanh như thổi, còn cô thì càng ngày càng yếu dần. Trước tháng Năm, cô đành ngủ tại phòng sinh hoạt chung vì quá yếu ớt và nặng nề để leo lên cầu thang. Teddy cũng ngủ trên chiếc giường nhỏ bên cạnh cô.
Đầu tháng Sáu chính là thời điểm oi bức nhất của Bakersfield, nhiệt độ có thể lên đến 370C trước chín giờ sáng. Akiko làm quạt giấy cho Greta; Teddy mang khăn lạnh thay vì khăn nóng cho cô. Và khi Greta cảm thấy khó ở, Akiko sẽ rót trà xanh ướp đá cho Greta từ chiếc chén sơn trong lúc Teddy cao giọng ngâm thơ.
Nhưng rồi một ngày, khi Teddy đang xuống thành phố Pasadena để lấy chiếc bàn xoay từ xưởng gốm cũ vẫn chưa bị đóng cửa, thời tiết oi bức và cơn khó ở cũng đến hồi kết thúc. Với sự giúp sức của Akiko, cô hầu gái với mái tóc đen như quạ, Greta hạ sinh một cậu bé xanh xao, dây rốn quấn quanh cổ cậu như chiếc cà vạt bé xinh. Greta đặt tên cho con là Carlisle. Ngày hôm sau, cô và Teddy chôn cất cậu bé trong khuôn viên căn nhà bằng gỗ bạch đàn của ông bà Cross, trong gió bụi mù mịt, ngay bên rìa của ruộng dâu vẫn đang xào xạc.