Phấn Hương
Bạn làng chơi chẳng lạ cái ngõ hẻm đày người, đầy rơm rác, nặng “mùi bần tiện” , “mùi hạ lưu” ấy tại Hà Thành. Nhưng đấy là một chỗ ăn chơi, thật là một chỗ ăn chơi huyên náo, cuộc vui bắt đầu ngay từ lúc thành phố lên đèn.
Bước chân vào ngõ ấy, vào giờ vui ấy, tức thì người ta quên mùi nước cống mà để cho khứu giác xúc tiếp ngay với mùi thơm của một tiệm cao lâu ầm ĩ những tiếng hò hét của các ông chiệc đang đánh bài cào, mạt chược, và những tiếng đàn ca lanh lảnh của các cô đào Tàu mua vui cho khách đến ăn.
Liền đấy là rạp hát tuồng, một rạp hát tuồng trường thọ nhất và được khán giả hoan nghênh nhất. Ngoài cửa bao giờ người ta cũng thấy treo tấm biển: “Tối nay đại diễn...” chữ viết bằng phấn nước của họa sĩ Trần Phềnh, nét chữ mềm mại quá, khiến người ta càng ngắm càng yêu. Mấy tầu lá gồi quấn ngoài cửa rạp đã héo vì nắng gió, chiếc đèn lớn làm theo hình tấm hoành phi, phơi mãi ngoài trời nên những chữ cắt dán hồ đã rơi rụng từng nét một, và giấy bạc phếch lại thủng rách từng miếng lớn, trơ cả khung tre.
Đó là một buổi hát đặc biệt, thiên hạ nô nức đi xem. Người ta chú ý ngay tự lúc chiều: một chiếc ô tô nát tã phun khói mù đường, trên chở một tấm biển lớn kê tên tích hát, và năm bảy đào kép, mặt phấn môi son, mũ giáp lịch sự như Tiết Đinh Sơn, Phàn Lê Hoa nhà Đường; dữ dội, xấu xí như Chung Vô Diệm, Bao Công đời Tống. Những danh nhân thời chinh chiến ấy ngồi chồng chất lên nhau, chiều chiều đi diễu hết các phố, phơi mặt hề dưới nắng chiều hè còn nóng rát, hoặc dưới mưa gió buốt những chiều đông. Họ đã quen với khán giả lắm rồi, mà dân các phố cũng thích nhìn những bộ mặt ấy vì họ cho là một trò vui mắt vui tai.
Hà Thành thời đó không thiếu gì những sự ngang tàng. Muốn gặp những cái ngang tàng ấy, phải đến cái ngõ hẻm này, chỗ đấu chọi của các tay chơi.
Phong trào đâm chém của đảng Càn Long đang thịnh, cho nên những tay anh chị luôn luôn giắt roi da, dây điện, dao, búa làm khí giới cần dùng trong lúc thị uy để tranh cướp một con đĩ thập thành, hoặc một con sen ngoài máy nước. Nhất là ở cửa rạp hát tuồng trong cái ngõ đày người, đày rơm rác, đày ruồi muỗi ấy - âu là tôi cứ gọi thẳng tên nó là ngõ Sầm Công - dân Càn Long càng muốn trổ oai, hoành hành như những ông tướng đóng tuồng. Người lịch sự phải gớm mặt các ông tướng đó, vì mỗi khi họ cần cà khịa, nhe chiếc răng đồng cười nhạt để thử gan một ông diện sang đi với một cô nhân tình xinh đẹp, thì tốt hơn là ông này cứ lẳng lặng mà đi.
Nhưng các ông tướng Càn Long lại rất nhún nhường, nịnh hót những ông tướng đóng tuồng, vì họ cần những ông này truyền cho họ dăm ba miếng võ tuồng.
Được nói chuyện với một kép hát trứ danh là một điều hãnh diện. Vừa thấy mặt ông kép mặt xanh xao đầu tóc rối bù, vận quần áo cánh lụa, nghênh ngang rẽ đám đông người vào rạp, là mấy ông tướng Càn Long chạy đến chào hỏi, mời kéo ra hàng nước để thết miếng trầu, hay cốc nước chanh.
Ở thời ấy, đào kép hát tuồng được người ta yêu mến như bây giờ người ta yêu mến những ngôi sao màn ảnh..., nhưng thời ấy qua rồi!
❉❉❉
Ngày nay người ta thích chớp bóng, thích cải lương Nam Kỳ, người ta quên hẳn nghề hát bộ, quên những người, chừng mươi, mười lăm năm trước, đã được họ nhắc nhủ luôn, đã được họ ngắm những chân dung lồng trong khung kính treo ngoài cửa rạp, như ngắm những bậc vĩ nhân thế giới.
Phong trào của kịch trường mới đã đẩy họ lùi vào dĩ vãng tối tăm hoặc đưa họ về những nấm mồ. Họ đã chết hay là đang sống không nghề nghiệp, hay là đang hấp hối, thở nặng nề mà tiếc than nghề cũ, thời xưa.
Đã lâu lắm rồi, tối nay tôi mới đi qua cái ngõ chật người, đầy muỗi, ngạt mùi hôi hám ấy.
Tôi đã vì một sự bất đắc dĩ mà chui đầu qua một khung cửa gần như đổ sụp xuống đầu tôi, và tôi đã đứng trong một căn gác tối gần như hũ nút. Bạn tôi bảo tôi ngồi xuống chiếc giường có sẵn một người nằm bên khay đèn thuốc phiện chưa lên lửa. Người nằm đó nhỏm đầu lên, vơ chiếc giẻ lau khay đèn để chùi mũi, nhìn chúng tôi không biết nói câu gì. Bạn tôi lẳng lặng đặt giữa lòng khay một hộp thuốc một đồng, rồi giới thiệu cho tôi rõ người đàn bà ấy xưa là một danh ca của nghề hát bộ.
Nàng là Bảy Hoa.
Tôi tưởng đó là lời giễu cợt, nhưng không, ai lại giễu cợt một nỗi đau thương, một hiện hình của cái dĩ vãng sầu thảm ấy. Vậy thì Bảy Hoa, chính thị nàng. Nàng, xưa là Sắc đẹp, xưa là Tài hoa, xưa là tất cả những lời tưởng lệ, mà nay, trái lại... tôi rất ngại ngùng vì phải tìm những chữ chẳng văn hoa để ta hình dung người đàn bà ấy.
Bảy Hoa! Tên nàng in vào óc tôi tự ngày còn nhỏ. Tôi bỏ học, nhịn ăn quà để lấy tiền xem hát, cũng như để thuê những truyện La Thông tảo Bắc, Chinh Đông, Chinh Tây, Thủy Hử, Tùy Đường. Mê xem hát và ham đọc tiểu thuyết Tầu đến nỗi bị thầy tôi treo ngược chân lên cành cây mà đánh, bắt nhịn cơm đến hai ba bữa, me tôi xin hộ mới thôi.
Tôi thuộc tên các đào kép hơn thuộc tên các danh nhân trong sử ký; tôi thuộc tích hát hơn thuộc những bài học ở trường.
Nhất là Bảy Hoa, cái tên dễ nhớ làm sao! Tôi mê vẻ đẹp của nàng - tôi chỉ biết mê thôi, bởi vì tuổi thơ ngây tôi đã biết gì là yêu. Tối nào đi xem mà Bảy Hoa không sắm trò thì tôi chán ngán chỉ muốn về. Không được đi xem, tôi nằm mê thấy Bảy Hoa, tôi thấy Bảy Hoa hiển hiện trên trang sách học, trong bóng ngọn đèn. Tôi vui thích mỗi khi Bảy Hoa đóng vai võ chém một tướng Phiên; tôi hồi hộp mỗi lần Bảy Hoa bị trúng mũi tên, xõa tóc than thảm thiết bên bức phông vẽ cảnh núi rừng.
Không bao giờ Bảy Hoa sắm vai đào phụ, vì người ta phải kính trọng cái danh và tài nghệ của nàng. Nhiều lần, chen lách vào lấy được chiếc vé hàng ghế cuối, tôi ra cửa thở, và tôi đã phát ghen với mấy ông lớn rất sang khoác tay Bảy Hoa lên chiếc xe hơi, đưa nàng đi ăn uống trước giờ nàng vào rạp sắm tuồng.
Bảy Hoa đẹp như thế, tài danh như thế, ai mà chẳng đón đưa.
Bảy Hoa lại được hãng thu thanh mời hát vào đĩa nhựa. Tôi xin thầy tôi mua tất cả những đĩa có bản hát của nàng, và tôi đoan rằng được vậy, tôi sẽ không dám trốn học đi coi hát nữa.
Thế là ngày đêm tôi đã có Bảy Hoa ở bên mình, ở chung giường ngủ, ở trên bàn học và Bảy Hoa theo tôi về tận nhà quê, trên bãi cỏ, hát cho tôi nghe dưới bóng cây râm mát giữa cánh đồng. Trời ơi! giọng ngân dài như tiếng tiêu sầu, nỉ non và thấm thía như lời than thở ấy, tôi không mê mệt làm sao! Này là lớp Hán - Sở tranh hùng, Ngu Cơ khóc biệt Hạng Vương trên bến Ô Giang vẳng buồn khúc địch Trương Lương... Này là lớp Bàng Phi quỳ ôm gối Nhân Tôn, kéo dải bào van lạy quân vương xin cho khỏi tội tử hình... Này là lớp Bạch xà bị tiên ông hãm trong tháp ngọc..., Đát Kỷ làm nũng Trụ Vương đòi ăn gan nuốt mật Tỷ Can...
- Bảy Hoa ơi! Thời xưa mất hẳn rồi.
Tôi ngậm ngùi thương người đẹp ấy, nàng danh ca ấy, tối nay, một tối mưa đông buồn lạnh, một tối mà không biết vì đâu, lòng tôi cũng lạnh buồn như mưa. Cuộc gặp gỡ Bảy Hoa, hình sắc Bảy Hoa càng khiến lòng tôi thêm chán ngán, và quả như lời kẻ buồn đời thường than thở, cuộc sống của con người ngắn ngủi quá chừng.
- Vừa mới năm nào!
Ừ, vừa mới năm nào Bảy Hoa còn được đời mến chuộng, đón đưa, mà nay thì thân tàn ma dại, mình gày bọc manh áo vá tanh hôi.
- Bảy Hoa hiện nay làm nghề gì cho đủ xài, đủ hút?
Nàng tiêm thuốc trả lời:
- Còn biết làm chi nữa! Nghề hát đã phế bỏ rồi. Chỉ còn một cách tự tử, hoặc sống mà ăn xin cho qua bữa.
Câu nói ấy se lòng tôi lại, nhưng Bảy Hoa vẻ mặt thản nhiên, vì có lẽ nàng đã dùng câu đó để đáp nhiều người, như tôi, đã thương hại hỏi nàng.
- Ông ạ, bọn anh em chúng tôi nay sống ít, mà chết thật rất nhiều. Tôi đã đi đưa đám những bạn tôi, hồi còn có sức; nhưng nay yếu rồi, tôi chẳng còn sức mà đi đưa đám nữa. Sau khi mất nghệ, chị Tám mà nay còn đĩa hát đấy, đã chết vì đau phổi, anh Sáu đã bỏ mạng bởi thiếu sài... còn kẻ sống sót như anh Hải thì soạn vở cải lương, như chị Thanh, chị Cưỡng thì đi làm điếm. Còn tôi, tôi chỉ còn đủ hơi chờ một ngày rét quá, một buổi trời u ám quá...
Bảy Hoa thở dài.
Tuy căn gác tối như hũ nút, tôi cũng cố tìm xem có vật gì đáng giá ít nhiều, nhưng không. Tôi chỉ thấy trên bức tường đầy khói ám, mấy tấm ảnh lồng trong khung kính vỡ treo lệch lạc: ảnh Bảy Hoa chụp hồi còn trẻ. Bức thì chụp nàng mặc áo giáp Tàu sắm vai nữ tướng, bức thì chụp nàng ôm bó hoa to che gần kín ngực, tươi cười.
Bảy Hoa của thời xưa sắc tài đang lừng lẫy đấy! Bảy Hoa thuở trước đã qua rồi!
❉❉❉
Tôi lại bước chân vào cái ngõ hẻm đày người, đày rơm rác, đày nhặng, đày “mùi bần tiện, mùi hạ lưu” ấy một đêm sau, mưa gió lạnh lùng hơn. Và tôi lại khom lưng chui qua khung cửa thấp, trèo lên cái thang ọp ẹp gần sụp đổ, ngồi nhìn Bảy Hoa tiêm hết hộp thuốc lớn tôi mua tặng, nhìn những bức ảnh lúc thiếu thời treo trên vách bẩn nhện chăng.
Nàng kể cho tôi nghe những tích hát nàng thích, những đoạn tình kỳ dị, những người yêu thủy chung, si ngốc hoặc là đểu giả, lọc lừa...
Tôi ngỏ cho nàng biết lòng tôi yêu mến sắc tài nàng hồi tôi còn thơ nhỏ. Nàng ngước mắt nhìn tôi:
- Trời ơi, đã lâu lắm tôi mới được nghe một người như ông, nhắc đến sắc đẹp của tôi, nhắc đến những cảm tình dành tặng tôi... tôi sung sướng quá...
Bảy Hoa ngồi nhỏm dậy, lôi một chiếc hòm gỗ đày bụi bậm ở gậm giường, mở lấy một gói giấy to, nàng run tay trịnh trọng mở gói giấy đó ra, khẽ đặt lên lòng tôi.
- Đây là những bó hoa năm xưa, nhân dịp biểu diễn quyên góp giúp đỡ dân bị nạn, quan Đốc lý đưa tặng tận tay tôi... đây là bó hoa của một người... một người đã mất cả gia tài, cơ nghiệp vì tôi... đây là những bó hoa của một số đông khán giả... đây là... nhưng thôi, nó nào phải là những bông hoa tươi thắm như nhan sắc tôi năm ấy,... nay chỉ là một đống lá khô, cánh héo, hương sắc không còn.
Tôi bùi ngùi đưa trả lại nàng những bó hoa khô.
Nàng khẽ tiếp:
- Giờ trót đời, tôi chỉ ước ao lại được nhận một bó hoa tươi của ai tặng… Có một đêm tôi nằm mê thấy được như thế đấy. Song đùa vậy mà chơi, chứ đó chỉ là một giấc mơ!
❉❉❉
Mấy ngày sau, vào một buổi chiều trời u ám, lá rụng tơi bời trong gió thổi, tôi đi lang thang bên bờ hồ Hoàn Kiếm, rồi qua chợ Đồng Xuân. Chợ đã tàn, chỉ còn một cô gái bán hoa, trên rổ còn một bó hoa gần héo úa. Nhìn cô gái bán hoa mặt buồn rười rượi, quần áo tồi tàn, tôi tưởng tượng đến cảnh gia đình nghèo túng của cô, tôi vét tất cả xu trong túi mua bó hoa tàn úa ấy rồi đi.
Đang lúc không biết dùng bó hoa ấy làm gì, thì một chiếc lá rơi xuống đầu tôi, một hơi gió nhẹ thổi qua tai tôi như hơi thở của một người gần chết, tôi vụt nhớ đến Bảy Hoa. Vội vàng, tôi quay lại nhà nàng.
Nghe tiếng giầy tôi vừa giẫm cọt kẹt trên sàn gỗ nát, Bảy Hoa đang thiêm thiếp bên khay đèn không lửa, bỗng mở mắt nhìn tôi, gượng cười.
Ngồi bên nàng, tôi ngạc nhiên vì thấy đày mình nàng rắc kín những cánh hoa khô héo mà người ta đã tặng nàng, và nàng đã cho tôi xem đêm nọ. Nàng nắm tay tôi, thở phì phào:
- Ông làm ơn mở rộng cửa sổ kia ra, cho tôi nhìn thấy bầu trời một lần chót nữa.
Tôi kính cẩn nâng bó hoa mua ban nãy, ghé tai nàng:
- Bảy Hoa, tôi tặng bà bó hoa này, tôi tặng bà tất cả tấm cảm tình của tôi hồi thơ nhỏ, và tôi cầu cho linh hồn bà siêu thoát.
Mắt sáng hẳn lên, nàng đỡ bó hoa đặt lên miệng hôn, rồi ấp lên ngực, hơi nhếch đôi môi xám nhợt:
- Ông đã làm giấc mơ của tôi thành sự thực, ông đã cho tôi một bó hoa cuối đời..., ông ơi, tôi mãn nguyện quá, vui thỏa quá...
Rợn người, tôi cúi đầu trước thi thể Bảy Hoa trong căn gác tối, khi ấy ngoài trời mưa gió vẫn thở dài.
(In trong Phấn hương, Nxb Tân Dân, 1939)