Thời Gian
Bà Tú đến trước bàn thờ ông Tú, tay run lẩy bẩy đặt một vòng hương lên đầu cái que cắm trong chiếc bát sành đầy cát. Bà châm hai cây nến trắng cắm trên đôi đài gỗ mộc bày hai đầu án thư, cạnh chén nước lã với đĩa trầu lẫn mấy bông hoa.
Bà xếp lại bát đũa trên mâm cơm cho ngay ngắn, rồi ra sân nhúng chiếc khăn vải đỏ vào chậu nước nóng lau đôi mắt lèm nhèm, chậm chạp co tấm áo vải nâu cũ phơi trên dây thép, từ từ khoác lên cái mình gầy.
Bây giờ bà quỳ trước bàn thờ, lâm râm khấn vong hồn ông Tú. Những giọt lệ nóng trong hai cái hố sâu trên khuôn mặt dăn deo tiều tụy của người đàn bà già nua ấy trào ra. Bà vừa khóc vừa cúi rạp đầu xuống lễ. Mỗi lần, bà ngước nhìn lên bức chân dung ông Tú ngồi chễm chệ trong cái khám thiếp vàng nhưng hương khói của những ngày giỗ tết và bụi bậm của thời gian đã nhuộm lên màu vàng đó một màu tro bẩn - tự nhiên lòng bà lại đau xót vô cùng.
Những năm xưa…
Bà Tú với ông Tú thẹn thò quỳ dưới trời sao làm lễ tế Tơ hồng, giữa cái đêm thành Thành Thăng Long thất thủ, quan Nam mở rộng các cửa ô để quy hàng.
Ông Tú là trai vùng Yên Thế, bà Tú là gái Đình Bảng, chợ Dầu.
Hai người ấy, một hôm gặp nhau trên khúc sông đào, cùng chung một chuyến đò ngang.
Hồi đó, ông Tú chưa đủ công đăng hỏa để vào tràng ốc đua tài ganh bút. Và bồ côi, không thể học đến cùng, ông Tú ở nhà miệt mài đọc sách và gõ đầu dăm ba đứa trẻ, người ta mệnh danh ông là khóa Chu.
Khóa Chu, hôm ấy, gặp ngày xuân mộ, nghênh ngang cắp tráp xuống đò, định đi thăm một bạn cố giao hiện đang ngày ngày cày ruộng, ngâm thơ trong một gian lều cỏ dựng ở núi Nga Sơn, cách Yên Thế chừng hơn mười dặm.
Ngồi bên thầy khóa Chu là cô Liễu. Cô Liễu xinh như một bông hoa. Văn nhân vốn giống đa tình, lại gặp giai nhân kề liền bên tráp sách thì, lúc này, muôn kinh thư chẳng quý bằng hai chữ Ái tình, - thầy khóa Chu, nhân đò vắng khách, nhìn hoàng hôn mà cất giọng ngâm thơ.
Nghe giọng thầy khóa Chu trong như giọng cô gái đẹp, cảm lời thơ hay như thơ Lý, Đỗ thời xưa, trộm liếc gương mặt cùng y phục chàng thư sinh rõ ra dòng hào hoa nho nhã, cô gái Chợ Dầu thấy lòng tình bỗng nao nao, cô liền ngâm họa lại mấy vần.
Đò ghé bến, hai người cùng dắt nhau lên, rồi say sưa gắn bó một lời nguyền, thầy đồ Chu cắp tráp đi tìm lều cỏ của người ẩn sĩ, còn cô gái Chợ Dầu, ngại ngùng quẩy gánh lụa lên vai, đi về mãi tận phía ngàn dâu xanh.
Mùa thu năm sau, thầy khóa Chu cùng cô Liễu quỳ dưới trời sao làm lễ tế Tơ hồng giữa cái đêm Thăng Long thất thủ…, giữa thời kỳ loạn lạc ầm ầm rung chuyển khắp non sông.
Cô khóa cùng chồng yêu nhau như đôi chim yến. Cô chăn tằm, hái dâu, dệt lụa đem ra chợ bán, một lòng một dạ kính chồng. Cả ngày, thầy khóa chỉ nằm làm văn từ thi phú; cũng nhiều khi được lúc an nhàn, cô khóa lại ngồi mài mực hầu chồng, hoặc pha trà thơm cùng nhau ngồi kề vai lặng chờ hoa nở, trăng lên.
Cách năm sau, một ngày xuân, thầy khóa Chu cùng tên đầy tớ nhỏ vác lều chõng lên vai, tạm biệt vợ hiền bên kia bến sông đào, thầy vui cùng mấy chàng sĩ tử lên đường xa để dự kỳ thi Nam.
Khoa đó thầy đỗ Tú tài. Cô khóa vẻ vang ra đứng bên sông đón tiếp tân khoa, rồi đêm hôm ấy, đôi vợ chồng kể lể niềm thương nỗi nhớ ngày ly biệt, và dưới đèn trăng, hai người vui chuốc rượu hồng, say sưa quá cùng ôm nhau ngủ.
Những ngày xưa…
Yên Thế mịt mù khói đạn: Đề Thám hưng binh chống lại với quân Pháp, với Lê Hoan.
Rừng cháy, cây khô, núi vỡ, thôn dân nheo nhóc. Cô Tú Liễu hãi hùng thu xếp áo quần, tiền bạc, ép chồng xa lánh cảnh binh đao, nhưng thầy Tú Chu, tuy sức nhà nho không buộc nổi chân gà, song dòng máu anh hùng của trai Yên Thế không cho thầy yếu hèn trốn lẩn như một kẻ tầm thường nhi nữ. Thầy nhất định ở lại để một là làm mưu sĩ cho Đề Thám, hai là, nếu không đắc dụng, thầy sẽ ung dung nằm nhìn tên đạn mà ngâm thơ đọc phú.
Một thời gian, cuộc chiến bỗng nhiên ngừng lại, người ta không biết quân Pháp đành tạm khoanh tay tìm chiến lược, hay “con Hùm Yên Thế” tạm nghỉ ngơi nuôi sức để vồ mồi?
Tuy nhiên, cô Tú Liễu vẫn lo ngay ngáy, cô hết lời lạy van ép chồng đi lánh nạn, hết lời van lạy mãi, suốt ngày nước mắt chảy đầm đìa, thầy Tú đành chịu mềm lòng, rồi chẳng thể đừng… - một đêm sâu, hai cái bóng người in lờ mờ trên bóng núi, chạy trên một bãi đất rộng mênh mông, lau trắng xóa rít xào xào trong gió lạnh…
Những ngày xưa…
Các đấng anh hùng đã hóa người thiên cổ, muôn triệu vong hồn chiến sĩ đã tan trong khoảng trời bình trị, muôn triệu bộ xương chiến sĩ đã bị đè nát tiêu mòn dưới chân móng những tòa nhà gạch nguy nga, tiêu mòn dưới những con đường trải nhựa ồn ào qua lại những xe cộ tân thời, những gót giày da của một giống người vong quốc.
“Hỡi những người đã chết vì đất nước, đã chết vì ta!
“Hỡi những người tử sĩ mà tên tuổi còn ghi lại lờ mờ trên trang sử ký, hoặc không ghi lại chút gì, hãy nằm yên, nằm yên! Dưới vỉa cống kia, hằng ngày anh phu rác, biết đâu, đã đưa bao nhát chổi lên những bộ đầu lâu trắng của mấy vị anh hùng nào đó. Dưới con đường trong một phố nhiều ánh sáng nhất đô thành kia, ta vẫn xéo hàng ngày lên những mớ xương vàng khè, lên những mẩu sắt gỉ vì thấm máu, vì khí đất, mà ta có biết gì đâu!
“Khắp cả, khắp cả! Không còn thiếu chỗ nào! Dưới sàn gạch bóng ta ôm nhau khiêu vũ, dưới chiếc ghế ta đang ngồi xem một cuốn phim tả cuộc chiến tranh ghê gớm nhất của loài người, dưới chiếc ghế các cô đang ngồi soi gương, thoa phấn, kẻ lông mày, ngắm nhìn nhan sắc, dưới gậm giường ta đang ngủ say sưa trong giấc mộng đầy hương, dưới chân bàn ta đang ngồi viết những dòng này với một u hoài thống thiết đắm tâm hồn…, khắp cả! Khắp cả! Đâu cũng có xương, có thịt, có máu, có linh hồn người chiến sĩ Việt Nam!
“Nhưng hỡi các Người! Hãy nằm yên đấy, nằm yên đấy!
“Bởi vì những ngày xưa…, xa lắm lắm rồi!”
…
Người trai Yên Thế với cô gái Chợ Dầu, từ bao nhiêu năm nay, sống trong một gian nhà lá ngoại thành Hà Nội.
Ông Tú Chu dần dần già yếu, tính nết ông ngày một bướng gàn. Ông vẫn như xưa, chỉ nằm dài ngâm thơ, đọc sách, không ra khỏi ngõ, chẳng kết giao với một ai. Cái búi tóc, theo tuổi rụng dần chỉ còn bé bằng một củ hành con, ông Tú nhất định không chịu cắt. Suốt cả bốn mùa, sáng ông dậy sớm, ngồi gây một lư trầm, gắp mấy cánh chè tàu bỏ vào chiếc ấm nhỏ bằng quả quất, hãm nước mưa lọc đun sôi. Hết buổi trà, buổi rượu, đến việc ngâm thơ, ra vườn bón cây, tỉa lá, chiết cành, tưới rau, nhổ cỏ, không còn một việc gì hơn.
Bà Tú thì vất vả không cùng.
Bà tảo tần buôn bán, ngày ngày gánh rau lên chợ Đồng Xuân bán, có khi trốn vé, người ta điệu bà vào “ngồi bót” suốt một ngày đêm.
Mỗi khi không chiều đúng ý chồng, bà lại bị mắng mỏ, rày la cực nhục. Đã một lần, bà bị ông ném cả cây điếu ống vào đầu, đau phát ốm, nhưng bà vẫn giữ mặt ôn hòa vui vẻ, gánh rau lên chợ bán như thường, và lại càng chiều quý ông hơn nữa.
Nuôi chồng, bà lại nuôi cả hai con.
Người con trai lớn được bà cố nai lưng kiếm cho ăn học bảy, tám năm. Bà thầm mong con sẽ đỗ lấy mảnh bằng, đi làm cho nhà nước để bà bõ công mồ hôi nước mắt. Không ngờ, một hôm bà được tin con trai bà bị bắt, rồi cách ít lâu bị kết án đầy ra Côn Đảo vì tội làm chính trị. Bà kêu đất, gọi trời, khóc gần lòa mắt, mê loạn tựa người điên.
Ông Tú thì trái lại. Nghe bà gào khóc báo tin dữ đó, ông thản nhiên vuốt râu, ngửa mặt lên cười. Ông rung đùi ngâm bài thơ Chính khí, uống cạn luôn ba hồ rượu, và đặt tay lên vai bà, vui vẻ nói:
- Có thế mới là con trai Yên Thế! Có thế mới là con ta!
Những canh khuya, ho nhiều không ngủ được, ông Tú thường trở dậy ra sân đứng ngắm sao mờ lẩn trong mây, nghe lá rụng chạy xiết mặt thềm rêu, ông Tú lại cau mày thương xót đứa con trai chí lớn, không biết còn sống hay bị lao mà người ta ném xác xuống biển khơi rồi. Gió khuya thổi phất phơ chòm râu bạc, ông Tú trầm ngâm giơ tay áo rộng lau đôi mắt ướt, thở dài.
Sáu năm rồi, người con trai ấy mất tích. Ông Tú dần dần sức yếu, ít khi ngâm thơ uống rượu, gây lư trầm hãm ấm trà thơm hay ra vườn thăm hoa, sửa cảnh, suốt ngày đêm ông chỉ nằm trong màn.
Bà Tú lại càng khó nhọc, kiếm được đồng nào dùng thuốc thang cho chồng hết. Có lần bà cùng Nhung, cô con gái, đành ăn cháo để nhường cơm cho ông Tú.
Nhung đã mười lăm tuổi, xinh đẹp hệt như bà hồi trẻ, giống bà từ giọng nói, dáng đi. Nhung học được nghề thêu thùa rất khéo. Thấy cảnh nhà túng quẫn, mẹ làm vất vả, Nhung xin cha mẹ cho đi kiếm việc để giúp đỡ thêm đôi chút. Khi biết Nhung khâu thuê cho một nhà Tây, ông Tú tức giận kêu trời, cấm không cho con gái đi làm nữa. Bà Tú van lạy mãi, hết lẽ giãi bày cảnh khó của gia đình ông Tú mới buộc lòng mặc Nhung đi làm việc, nhưng từ đó ông không muốn nhìn đến mặt Nhung, vì ông yên trí rằng con gái mình một khi đã làm nghề khâu đầm tại một nhà Tây như thế thì giữ sao cho được vẹn toàn với chủ, với bếp, với bồi. Ông tủi nhục thở dài sườn sượt, rồi ông mang bệnh nặng.
Nhung đi làm được mấy tháng thì ông Tú lìa đời.
Khi hấp hối, ông Tú nắm chặt tay bà, lấy hết hơi mà nói bên tai:
- Đời ta có một cái vinh và một cái nhục: Vinh, là con trai ta đã chết với danh nghĩa người trai Yên Thế. Nhục vì con gái ta sẽ đi làm đĩ, sẽ bôi nhọ dòng dõi của ta, sẽ khiến vong linh ta uất ức dưới tuyền đài. Bà cứ ngẫm lời ta nói mà coi!
Ông Tú chết được hai năm rồi.
Bà Tú vì những năm xưa dầu sương, dãi nắng quá nhiều để nuôi chồng, nuôi con, nên bây giờ sức suy, lực tận, bà ốm đau hoài. Mỗi lần đặt gánh rau nặng lên vai, bà cảm thấy cả bộ xương như sụt xuống. Bà nhăn nhó còng lưng dưới đôi gánh nặng, cố lần lên mãi chợ Đồng Xuân. Nhưng tuổi già, duyên cũng hết: rau của bà không ai mua; ngồi tới lúc chợ tan, bà lại khóc mếu, gánh về ngoại ô.
Năm sau, bà Tú phải dùng đến gậy, bà lê từng bước, từng bước một, bà mắc bệnh tê.
Bây giờ thì bà hoàn toàn trông cậy vào Nhung mà sống cho hết những ngày già.
Nhung mỗi ngày thêm đẹp, thêm xuân sắc, nhưng đức hạnh thì không. Nàng cậy mình kiếm ra tiền để nuôi báo cô bà mẹ ốm nên nhiều lần nàng mắng bà Tú như mắng mụ vú già. Ngày giỗ ông Tú Nhưng đi biệt, cũng không đưa tiền chợ. Bà Tú chỉ biết ngồi dưới bàn thờ khóc một mình. Những ngày chủ nhật, Nhung kéo bạn trai về ăn uống, cười đùa, phá phách, bà Tú có nói câu nào, Nhung lại nhún vai, thổi sáo, gạt phắt ngay không cho nói.
Thế rồi, suốt một ngày kia, bà lão già nhịn đói ngồi chờ con gái…, suốt một đêm kia, tựa đầu bên cánh cửa ngóng con về. Nhung không về? Bà Tú cuống cuồng nhờ mấy người hàng xóm đi tìm. Nghĩ đến di ngôn ông Tú lúc lâm chung, bà Tú nhìn chân dung ông trên khám thờ, ôm mặt khóc.
❉❉❉
Bà lau nước mắt, đứng lên. Mấy nén hương cháy đã bén chân, hai cây nến chỉ còn leo lét sáng.
Nghe tiếng pháo nổ ran bên sân nhà hàng xóm bắn cả xác đỏ sang sân nhà mình, bà Tú bồi hồi và lẩn thẩn nghĩ thầm:
- Không biết thằng Cường ở ngoài Côn Lôn có được ăn Tết hay không?... Không biết con Nhung ăn Tết ở tỉnh nào, ở nhà ai?
- Bà Tú ơi! Năm mới, bà có một tin mừng đấy!
Bà Tú vội ngảnh ra sân, thấy bác cai xe bên láng giềng, mặt rượu đỏ gay đang hớn hở ngậm mẩu xì gà giữa hai vành môi xám.
Bà Tú còn đang ngạc nhiên chờ nghe tin mừng thì bác cai xe đã nói to:
- Thật là công to của cháu nhé! Ngót một năm trời lần mò mãi mới ra, bà hãy mở hàng trước cho đồng bạc để đi xóc đĩa đã nào.
Bà Tú run lên giục:
- Tin gì bác nói mau đi, lành hay dữ?
Bác cai xe kề cà mãi mới trả lời:
- Năm mới thì phải có tin mừng chứ. Thôi, cháu nói nhé! Chính mắt cháu đã trông thấy cô Nhung tối hôm qua.
Bà Tú mừng quá lặng người đi. Bà để tay lên ngực, cố mở to mắt nhìn bác cai:
- Thật à, bác! Thế nó có lành lặn không. Có gày lắm không?
- Bà tưởng! Cô ấy đẹp gấp trăm lần, sang gấp nghìn lần, chứ như xưa thì còn nói chuyện gì!
Trong cặp mắt lèm nhèm vụt nẩy chút hào quang, bà Tú vồ lấy áo bác cai:
- Vậy à, bác? Thế nó có nhớ mặt bác không? Bác có bảo nó rằng tôi thương nhớ nó, khóc ngày, khóc đêm vì nó không, hở bác?
- Bà nói dễ sao! Cô ấy bước xuống xe ô tô, cô ấy khoác tay một quan Tây vào nhà nhảy đầm to nhất phố Khâm Thiên, cô ấy đâu thèm để mắt đến tôi, mà tôi thì cho tiền tôi cũng chẳng dám đến gần để nói rằng bà khóc, bà thương cô ấy.
Chân tay bà run lật bật, mắt bà lệ trào ra, bà rót chén nước vối nóng, nhặt miếng trầu trên chiếc đĩa mẻ bày trên bàn thờ ông Tú, trịnh trọng đưa mời bác cai. Bà nghẹn ngào cảm ơn bác đã đem lại cho lòng bà một hi vọng cuối cùng.
❉❉❉
Tiệm khiêu vũ Động tiên, tối mồng ba Tết, mở rộng cửa, đốt một tràng pháo cối thật dài đón mừng khách nhảy đến thưởng xuân.
Xuân, ở chỗ ăn chơi rực rỡ này cái gì cũng xuân hết thảy. Cặp này, cặp khác ngồi khắp chỗ, gọi rượu, thuốc lá, vẫy nhân tình, nói tục, cười đùa, lấy điệu tự nhiên, thực là những con người sung sướng.
Vũ nữ ngồi rải rác khoe những áo quần mới nhất, đẹp nhất, làm bộ vui tươi hơn ngày thường, mặc dầu ba ngày Tết, cũng có kẻ trong bọn họ, không nhà trú trọ, đã đi lang thang các phố như những cô hồn vất vưởng, mặc dầu có kẻ đã đi gõ cửa những anh tình nhân chưa vợ cũng nghèo nàn vì sẩy lạc gia đình, để xin một li rượu ngọt uống cho lòng khỏi lạnh, cùng ngồi lặng lặng nhìn nhau chia sẻ nỗi quạnh hiu…
Khắp trần, khắp cột, khắp góc tường, đâu đâu cũng có hoa, có hơi thuốc lá thơm ngào ngạt. Ông chủ mặc lễ phục cho long trọng, luôn luôn cười nói, gập đôi mình xuống chào đón khách. Bà chủ thân chinh thu tiền, không hà tiện những khóe liếc lẳng lơ, không tiếc những nụ cười đĩ thõa làm say lòng khách.
Khúc vũ nhạc nổi lên bằng những điệu, những lời êm ngọt nhất, khiêu khích nhất. Các cặp uyên ương âu yếm ôm nhau lướt trên sóng mộng, mà kẻ dẫn đầu những tế vật của Dâm thần đó chính là quỷ Satan.
- Rosette Bạch Nhung đã đến kìa! Sao mà đẹp thế, hỡi Trời!
Đấy là một lời kêu đau xót ở miệng một gã si tình, đã hơn một lần bị Nhung vạch mắt cho nhìn thấy cái kim gài dưới bàn tay đẹp của nàng đeo tất tay nhung.
Nàng khoác tay một gã người Pháp, kiêu hãnh bước vào, đi ngang qua sàn giữa lúc người ta nhảy. Nàng ngạo nghễ nhìn thiên hạ bằng cặp mắt sâu đẹp trong khi gã người Pháp ân cần đỡ manteau [1] của nàng đưa cho tên bồi đứng cạnh, và kéo ghế để nàng ngồi.
- Người đẹp muốn gì?
- Crog.
Có kẻ lấm lét nhìn bộ ngực tuyệt mĩ của Nhung, có kẻ bạo dạn nhìn cặp môi hồng, cặp mày mịn như tơ. Những kẻ này nhìn để thèm thuồng. Còn vũ nữ thì nhìn Nhung để ghen hờn, để ao ước, đố kị, tố cáo với nhau cái lí lịch không tốt đẹp của nàng.
Nhung chỉ ngồi có nửa giờ, không nhảy. Nàng đứng lên chìa cánh tay cho gã người Pháp khoác, bước qua sàn, điệu ngang tàng, bướng bỉnh và khiêu khích cho thiên hạ ngắm.
Thấy mọi người chú ý nhìn mình, Nhung nhếch một nụ cười đắc thắng, nũng nịu với người yêu:
- Gấu con! Em có đẹp không?
- Mình đẹp hơn tất cả những nhan sắc cổ kim.
- Văn chương nhỉ! “Ái tình của ta ơi!”
Nàng nghẹo đầu lim dim mắt cười một tiếng, ghì chặt lấy tình nhân.
Bà Tú đứng co ro trong một xó tường chờ đợi… Bà không dám đến cửa nhòm vào vì người Tây đen gác cổng tưởng bà là ăn mày nên mấy lần dọa đánh.
Bỗng bà Tú cuống quýt chạy xồ ra:
- Nhung! Nhung ơi! Mẹ con đây mà!
Bà toan cúi xuống nắm lấy gấu manteau của Nhung, nhưng thấy Nhung trợn mắt nhìn, bước lánh ra thì bà vội co ngay tay lại.
- Nhung! Con không nhớ mẹ hả con?
Nhung cau ríu lông mày né tránh, như sợ bàn tay kia làm bẩn áo. Gã người Pháp vừa mở cửa xe ô tô, vừa quay lại hỏi nàng:
- Nó muốn gì, con mụ ấy?
Nhung ngần ngừ rồi chặc lưỡi, nàng khẽ đáp:
- Nó muốn xin tiền.
Gã móc túi quần ném cho bà Tú một đồng xu.
Chiếc xe hòm khẽ rít lên một tiếng rồi chạy vùn vụt.
Gã ngả đầu bên má Nhung:
- Mình có lạnh không, mình?
Nhung ngồi yên lặng, chẳng trả lời.
- Mình làm sao thế?
Nhung khẽ đẩy đầu tình nhân ra, giọng run run:
- Không, em chỉ khó chịu xoàng.
Thấy câu nói ấy khiến người tình buồn bã, Nhung thương hại xích mình gần lại, quàng tay ôm chặt gã.
- Rét quá, làm thế nào cho ấm? Ấp ủ cho em đỡ lạnh, mình!
❉❉❉
Trở về gian nhà lá ở Yên Phụ, bà Tú lần mò lủi thủi trên đường. Đường Cổ Ngư tối quá, gió Hồ Tây khiến bà run bần bật, đầu gối muốn rời ra. Mắt bà bị mờ dần, bà thấy mặt hồ rộng đen ngòm, xa thăm thẳm tựa một cõi âm đầy bóng quỷ hình ma.
Trên đầu bà lá xào xạc, hai bên tiếng sóng vỗ buồn như tiếng từ một thế giới hư huyền nào vọng đến.
Mê man, bà ngồi xuống cỏ, ngả đầu vào một thân cây.
Tiếng pháo nổ ở nơi nao xa bay trên sóng hồ vọng lại, bà giật mình, mở mắt nhìn ngơ ngác. Bà lại chống tay vào đầu gối đứng lên và cố bước từng bước, từng bước, vất vưởng đi như một cái vong hồn.
(Đăng Tiểu thuyết thứ Bảy, số 101/1936. In lại trong Phấn hương, 1939.)
(In lại trong Cô gái làng Sơn Hạ, Nxb Văn học, 1989, với tên Đời nó thế II.)
(Nay giữ nguyên tên cũ: Thời gian).
[1] Áo khoác ngoài (tiếng Pháp)