← Quay lại trang sách

Đất

Ông già Bút đầm mình trong ruộng nước với con trâu. Người và vật làm việc quần quật từ buổi ngọ. Nước trắng trải rộng đến chân trời. Những cột dây thép xi măng đứng chôn chân dưới nước, chạy một hàng xa tắp. Đôi chỗ, có một vài lùm cây nhô lên, như nổi bồng bềnh. Những bụi cói và những bụi liễng xanh phơ phất. Một hai chiếc cò bay đến đậu, không kêu một tiếng, mất bóng đi trên cánh đồng ngập nước vút hơi may.

- Vrắt!... Hẹ!

Con trâu bước hụt vào chỗ trũng. Nước bùn bắn tóe lên. Con vật lắc sừng, phì, hục hặc. Nó đi mấy bước rồi đứng lại bướng bỉnh. Tiếng con nghé kêu trên mặt đê cao xanh rờn cỏ non. Con mẹ nghếch mõm, vểnh tai, mắt đỏ ngầu, lơ láo.

- Vrắt... vrắt...

Con vật bị thúc giục lại nặng nề cất bước. Nước vẩn đục chấm ngang bụng nó. Chiếc cày chìm hẳn, cán chỉ thò lên một tí khỏi mặt nước. Ông Bút lừ lừ theo con vật như người đánh dậm theo lưới. Nửa mình ông nhô lên, hạ xuống, lắc lư tựa cái phao trên dòng sông có sóng.

- Vrắt!...

Đầu con vật chúi xuống. Tiếng phì thêm mạnh, mũi cày vướng, nặng, có lúc không nhúc nhích.

- Khổ! Mệt rồi, vừa đẻ ít ngày đã phải cầy non.

Người thương vật, ông già Bút cũng thở phì phì, lấy sức lay cày, vuốt nước bùn bám lên đầy râu tóc. Hai chân ông lần mò, đờ đẫn tìm bờ ruộng, tìm gò hố, cho trâu lên chân đê. Mây mù. Cả ngày hôm ấy không có mặt trời, bóng tối xuống nhanh tưởng chừng trông thấy.

Ông Bút còn cách bờ đê một quãng. Con nghé đang gậm cỏ trên mặt đê, vừa kêu vừa chạy xuống đón mẹ. Một chiếc xe tay đi tới. Người phu lật đật tránh con nghé, cáu kỉnh, chửi mấy câu. Anh ta chửi con vật, chửi cả kẻ nào đi chăn mà không trông. Ông Bút ngẩng lên. Ông mở to đôi mắt lèm nhèm nhìn người ngồi trong xe, lẩm bẩm:

- Quái, ai như cậu tú nhà!

Ông bì bõm khẽ hất cái cày cho trâu đi nhanh. Xe trên đê cũng vừa vặn đến gần. Ông Bút không ngờ gì nữa, gọi rối rít:

- Cậu cả, cậu tú! Cậu mới về.

Thái bảo đỗ xe. Nhìn thấy người lão bộc già nua của gia đình anh làm lụng khó nhọc, anh thấy lòng nao nao buồn và thương xót. Nước ruộng bắn lên mặt ông Bút khô đi thành những mảng bùn lờ đờ đỏ chát loang lổ trên mớ tóc hoa râm búi củ hành và bộ mặt đen bóng có cái trán hói, vết nhăn chằng chịt, bộ râu cằm ngắn cụt.

- Khốn khổ, suốt tháng quanh năm nhem nhuốc vì ruộng đất.

Con trâu đã tới bờ. Khi nó cất được hai chân sau lên thì bùn và nước cũng bắn theo. Con nghé vừa xuống tới, chạy quanh mình mẹ, rúc ào bụng mẹ như lúc bú. Con mẹ phì phì hít hơi con, rồi ra sườn đê gặm cỏ nhai ràn rạt.

Ông già Bút mình trần đóng mảnh khố, đặt cày xuống đất, tươi cười:

- Lâu lắm cậu mới về.

Thái đáp:

- Về, buồn chết đi được. Vả có việc gì mà về.

Mặt ông Bút hơi tối lại. Thái biết ông đau đớn vì câu nói, tuy anh thực tình, nhưng ông, một người suốt cả một kiếp chỉ bám chặt lấy làng, lấy xóm ắt phải cho là tàn nhẫn. Nên anh nói lảng đi:

- Nước đã lên, lại mưa mãi…

Câu nói bỏ lửng không đâu. Anh trèo lên đê. Ông Bút gạt mấy con đỉa bám ở đùi mình và ở bụng con trâu, chắp tay đáp:

- Vâng, xin rước cậu về trước. Cháu ra sông tắm qua cho trâu rồi cháu về thổi cơm cậu xơi.

Thái hơi khó chịu về dáng điệu quá lễ phép của người đầy tớ già.

Ngồi lên xe, anh nghĩ đến ngày nào, mỗi lần anh theo ông cụ thân sinh về làng là họ hàng, gia nhân ra tận đây đón rước ra làm quan trọng lắm. Ai nhìn cậu con cụ lớn cũng tỏ vẻ kính cẩn, mặc dầu anh mới là cậu bé mười bốn tuổi, học ở tỉnh còn ăn quỵt tiền quà và đánh nhau như giặc.

Thái đưa mắt nhìn chung quanh. Ruộng nước, cỏ cây, con đê chạy dài, cột dây thép sừng sững trên bến đò Tân Đệ. Cảnh vẫn như xưa. Thái mỉm cười, ngửa mặt hứng những hạt mưa bụi lúc bấy giờ bắt đầu bay trắng như sương chiều.

- Ờ, cảnh thì vẫn như xưa. May mà mình có thay đổi, nghĩa là mình đã ba mươi tuổi và bây giờ thì đứa con hoang trở về làng thui thủi một mình với chiếc va li nát và đôi giầy rách.

Nhìn xuống đôi giầy, anh muốn cười to một tiếng. Nhưng ý nghĩ hoan lạc mà chua chát đó bị bạt đi vì tiếng động cơ của chiếc ô tô hàng chạy dưới con đường thuộc địa. Thái nhìn xuống. Cái ô tô sơn đỏ, bên sườn xe vẽ rồng vẽ phượng, chật ních người ầm ầm chạy đến. Trong xe sau lưng tài xế, có một thiếu nữ mặc áo tím, đeo kiềng vàng. Nhìn cái búi tóc trễ tràng rơi xuống cái cổ trắng tròn thon thon, tuy xe chạy nhanh, Thái cũng nhận ra cô gái ngồi trên xe là con ông Bang tá Trịnh.

“Chờ ngày chúng nó lớn lên là ta cho chúng thành vợ thành chồng. Chỗ anh em mình, có con ta gả cho nhau…”.

Lời đính ước của ông thân sinh Thái với ông Bang, vụt trở lại tâm tưởng Thái. Anh mỉm cười:

- Thế mà chẳng nên duyên số gì.

Anh chặc lưỡi:

- Càng hay! Và cũng may!

Nhưng bóng dáng một bàn tay nhỏ trắng muốt vịn ra ngoài thành xe còn mơ hồ hiện ra như con bướm trắng đang bay trước đôi mắt lim dim của Thái.

Khuôn mặt một người có bệnh lao bỗng làm rợp tối tâm hồn anh. Người bạn thân nhất, chơ vơ như anh ở cõi đời. Sáng hôm nay, anh vừa cầm tay chào bạn ở nhà thương Cống Vọng. Anh hẹn bạn về thăm quê ít ngày.

- Thưa cậu, cầu Ngải kia rồi.

Thái xuống xe. Anh có ý nhìn người phu. Thấy hai hố mắt sâu tím của anh ta giống hệt mắt bạn mình, Thái ngoảnh vội đi. Một cảm giác ghê lạnh chạy khắp da thịt Thái. Anh cho anh ta thêm tiền và xách va li vào trại.

❉❉❉

Không khí rộng rãi đượm mùi hoa lá, mùi đất ẩm, khiến Thái ngây ngất. Anh lắng nghe tiếng gió thầm thì xô động trong khu vườn tối. Tiếng sàng gạo ở gian nhà bếp nghe rào rào như mưa khuya.

Một ánh lửa le lói sáng, qua lại sau các gốc chanh, gốc bưởi.

Thái ngồi ở thềm nhà trên. Anh biết cô con gái ông Bút đang vừa làm gạo, vừa sửa soạn một bữa cháo khoai đãi mình. Cô ta mới đâu chừng mười lăm, mười sáu tuổi. Da đen giòn, được cái đôi mắt sáng và khuôn mặt trái xoan, càng nhìn càng thấy duyên. Con bé mới ngày nào bé tí, thấy mình về là xin xu, thế mà bây giờ đã biết thẹn, biết trốn lẩn rồi.

- Cậu tú xơi cháo nhà quê nhé. Để cháu nấu một thứ cháo ngon lạ lắm.

Cô ta đánh bạo cười nói với anh như vậy và lúc nãy ngồi bên bể nước gọt vỏ khoai lang, cô ta đã làm đứt tay và cố để cho Thái trong nhà nhìn thấy ngón tay mình chảy máu.

Lúc này bàn tay đen đủi của cô gái quê mùa lại nhắc anh nhớ tới bàn tay cô gái con ông Bang. Con bướm trắng chập chờn trong bóng tối. Con bướm ấy giờ này đậu vào đâu, trên mớ tóc nào? Anh hình dung một cái mặt béo tròn, đôi lông mày rậm, cặp môi dày trong đêm tối đặt lên bàn tay ai, - như lúc này, đôi mắt anh, đôi mắt buồn thờ ơ tìm cái bóng xa mờ của con bướm trắng.

Thái bước ra vườn. Ánh lửa điếu thuốc lá chấm một vệt đỏ lửng lơ và di động theo mỗi bước chân.

Bóng một đứa trẻ chập chững chạy reo, ngã vào cánh tay người mẹ đưa ra đón…

Vết chân đứa trẻ, rêu xanh năm tháng đã phủ kín đi rồi. Dư âm của ngày xưa cũ thầm thì trong tâm tưởng anh, xa lạ như luồng gió may.

Hai cánh tay ấm áp kia không bao giờ còn có nữa. Chỉ có những bàn tay hững hờ.

- Mời cậu tú vào xơi cháo cho nóng.

Que diêm lóe sáng lên châm điếu thuốc khác. Cô con gái ông Bút tiến đến gần. Ánh lửa khiến cô nghiêng đầu và đôi mắt đen khẽ chớp. Thái quên châm thuốc. Anh nhìn cô gái dậy thì e thẹn. Bụi cám bám trắng tấm khăn vuông vải chéo go, dưới nếp khăn mấy sợi tóc rủ bơ phờ xuống khuôn mặt thơ ngây, trong sáng.

Ăn cháo xong, ông Bút cầm đèn đưa Thái vào buồng ngủ. Mùi ẩm hôi hám của căn buồng xông lên khó chịu. Anh ngồi xuống cái giường nan tre, hoang mang nhớ xưa kia bà mẹ đã sinh ra anh ở gian buồng này và ngày bị bệnh đã nằm chết ở đây. Kỉ niệm đến với anh, như vệt nắng tàn trong đám bụi mong manh xa vắng.

❉❉❉

Ông Bút hôm nay nghỉ cày, ở nhà cuốc đất vườn.

Thái dậy muộn. Suốt đêm qua rệp, muỗi đốt, anh chỉ chợp mắt hồi gần sáng.

Anh ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ. Ánh nắng nhạt yếu lọt qua lá cây hắt xuống cái mình đen trũi của ông Bút. Những nhát cuốc gieo mạnh, cánh tay ông Bút tuy già rồi mà vẫn nổi hằn bắp thịt. Ý định của anh, anh thấy sáng hôm nay cần phải ngỏ qua cho ông Bút biết. Anh chỉ còn ít ngày giờ, việc ấy xong rồi, anh sẽ lên Hà Nội ngay.

Anh ra bể rửa mặt rồi đến chỗ ông Bút đang cuốc, xới. Sự quả quyết trước người lão bộc trung thành đang đổ mồ hôi vì mảnh đất cha mẹ anh để lại tự nhiên bị giảm đi. Anh thấy cái ý định ấy, với anh thì là thường, nhưng với ông già, tất ông cho là tàn nhẫn. Cha con ông Bút sẽ bơ vơ như chim mất tổ. Còn anh sẽ là một thân cây bật rễ, không bao giờ về đây nữa. Nhưng, dù sao, anh cũng thử dò xét ý ông Bút:

- Tôi về, là vì có chút việc…

Ông Bút vẫn cuốc, chỉ khẽ đáp:

- Dạ.

Thái nhìn thẳng vào mặt người đầy tớ già, giọng anh không khỏi run run vì cảm động:

- Tôi cần tiền làm việc ở tỉnh. Ý tôi muốn bán cả ruộng, cả nhà, đất này đi.

Lưỡi thép mòn ngập sâu dưới đất, ông Bút không lôi lên được nữa. Hai tay ông mềm nhũn đi, mắt ông mở to nhìn Thái:

- Cậu!

Thái làm ra thản nhiên:

- Lão quản Bính muốn mua lắm đấy. Ông đến nhà lão hỏi xem. Tôi cần xong ngay để tôi đi sớm.

Từ nãy, đôi mắt ông Bút vẫn nhìn vào một chỗ trống không. Cơn phẫn uất làm cho nét mặt ông quằn quại. Những ngọn cau sai buồng, những cây bưởi, cây cam trĩu quả, cả một khu trại lá xanh reo sự sống. Chính ông đã gây sự sống cho cây cỏ, chính ông đã gây màu mỡ cho đất cát. Chính ông, từ hai mươi nhăm năm xưa, đã trần lực ra khai nhát cuốc đầu tiên để biến một khu đất cỏ mọc hoang thành một cái trại phì nhiêu, cây cối tươi tốt như bây giờ. Cái nhà gạch này, cũng chính ông đã cùng thợ đào móng đóng cọc, đã cùng thợ đặt gạch trát vôi xây lên nó. Gió táp, mưa sa mấy chục năm dư đã làm cho tòa nhà đổ nát ít nhiều. “Hai cụ lớn thì quy tiên rồi, cậu thì lang bạt kì hồ quanh năm suốt tháng. Thôi thì còn tôi, hai cụ phù hộ cho sống được ngày nào, tôi còn xin trông giữ lấy nơi tổ đường này cho trọn vẹn để đền ơn cụ thương tôi từ ngày nhỏ…” Ông Bút đã một lần khóc với Thái như vậy. Lần ấy, Thái đương theo học thi tú tài. Ông Bút nhớ hôm ấy, trời mưa bão, Thái ở tỉnh về bảo ông Bút đưa tiền. Ông đã vội vàng vét thóc đem bán hết và phải bán cả mấy sào ruộng lẻ mới đủ số tiền Thái hỏi. Sau đó, mấy lần nữa, Thái lại về bảo cần tiền. Ông Bút lại bán thóc, bán ruộng đi. Ruộng thóc bán gấp vội, kẻ giàu ở làng được dịp bắt chẹt mua giá rẻ. Ông Bút mỗi lần đứng nhìn Thái kí văn tự lại nghẹn ngào, rưng rưng nước mắt. Ruộng thóc bán dần bán mòn, ông thấy như là bán tất cả mồ hôi, sức lực của ông đi. Từ một bông lúa lúc còn đòng đòng cho đến ngày gặt hái, từ một nụ hoa cho đến ngày thành quả, tất cả đều là mồ hôi ông, tất cả, tất cả! Của, bây giờ là phần Thái thừa hưởng hết, nhưng cái công lao cấy cày, trồng trọt, gìn giữ, ông không thể nào cứ để Thái coi là thường, bán lúc nào cũng được, bán đi cả, bán không còn gì nữa. Đất cát của Thái? Không, chính là của ông. Mồ hôi, đã đành rồi, nhưng cả linh hồn ông, từ mấy mươi năm nay, sống cùng với đất. Mồ hôi rỏ xuống theo từng nhát cuốc, luống cày. Linh hồn ông đã trộn lẫn vào lòng đất trong những ngày lo mưa, sợ nắng. Cho đến bây giờ, giữ đất cát cho cố chủ, tóc ông đã bạc đi rồi.

- Không. Không thể nào thế được! Cậu bán hết, bán hết, bán cả tổ đường đi, rồi thì biết thờ cúng ở đâu? Không, không, không. Tôi xin cậu, tôi lạy cậu, tôi lạy cậu!

Hai tay rời cán cuốc, người đầy tớ già ôm mặt khóc.

Thái thấy lòng đau thắt lại. Anh hiểu, anh đọc được hết ý nghĩ trong đôi mắt đỏ ngầu của ông Bút. Bản năng anh sáng suốt và tế nhị. Bản năng ấy, hơn nữa, lại đã chứa bao nhiêu giông bão, lửa và gai.

Thái nắm chặt cánh tay ông Bút. Môi anh run trong hơi thở mạnh:

- Ông Bút! Ông Bút!

Anh không thể nói gì thêm nữa. Cả khu trại yên tĩnh lạ thường, chỉ có tiếng động nhỏ của bầy gà con tha thẩn kêu ở các khóm cây, bóng lá ướt ẩm vì trận mưa đêm qua.

Bỗng ông Bút từ từ ngẩng lên. Mặt ông đờ đẫn. Sự nhẫn nhục, sự khổ cực quen chịu của một tâm hồn quê mùa tăm tối lại khiến ông hối hận đã hỗn xược với chủ mình. Ông nắm lấy cán cuốc, nhìn chăm chăm vào luống đất đang cuốc dỏ.

Đất sét quánh, vẩn đỏ như tia máu. Máu! Mồ hôi! Mồ hôi!

Mắt ông càng đỏ thêm, trợn ngược. Răng ông nghiến chặt. Hai cánh tay giơ cao lên, thật cao lên. Lưỡi thép loáng nhanh trong ánh nắng. Lòng đất xé vỡ ra. Một tiếng “cạch” rất mạnh. Thái đang khoanh tay nhìn ra mặt ao, ngoảnh lại. Ông Bút ngồi thụp xuống, thò tay bới đất. Ông rít lên thảm hại:

- Cậu tú! Cậu tú!

Thái vội bước đến, ngơ ngác nhìn những mảnh nồi đất trong bàn tay người bõ già.

- Nồi nhau của cậu! Cái đêm bà ở cữ cậu, bà đã sai cháu chôn nhau cậu ở đây. Thế mà… - Ông ngậm ngùi định nói: “Thế mà chả mấy chốc, bây giờ cậu đã ba mươi tuổi”.

Người thanh niên trở về làng, đứng trên mảnh đất của tổ tiên, cha mẹ, thấy lòng đau nhói như vừa bị chính lưỡi thép kia khơi xuống. Anh tưởng ông Bút định trách mắng anh: “Thế mà cậu nỡ bán cả mảnh đất cắt rốn chôn nhau của cậu. Cậu tàn nhẫn quá!”.

Ý nghĩ ấy khiến Thái bùi ngùi, khổ sở. Anh cúi nhặt những mảnh nồi đất vụn nát cầm lên mân mê và ngửi. Mùi đất. Mùi đất thơm, tưởng như lẫn cả mầm rễ một thứ cỏ gì quý hiếm. Thái hít một hơi sâu vào phổi. Một cảm giác mát rượi chạy lan trong mạch máu, rung động cả tâm hồn. Đầu anh cúi xuống, cúi xuống, đón mùi hương của đất. Giọng anh thầm thì, nóng hổi như giọng đứa trẻ thơ trong lòng người mẹ!

- Thôi, ông Bút ạ!

(Đăng Tiểu thuyết thứ Bảy, số 440/1942.)

(In lại trong Cô gái làng Sơn Hạ, Nxb Văn học, H., 1989)