Ai Giết Lão Phong Lôi
Châu Yên Thạch nhộn lên như dạo nọ vì đột nhiên từ đâu đưa đến những tin tức rợn người.
Nguyên do, lão già Phong Lôi đêm qua bị giết, xác còn nằm trong buồng lão. Kẻ sát nhân dùng dao nhọn đâm thủng một bên phổi, máu ra rất ít. Lão già chết trong giấc ngủ, vì xác lão vẫn nằm thẳng cẳng, tỏ ra không chống cự gì với kẻ thù.
Viên tri châu, xét theo sự nghi ngờ của riêng ông, đã hạ lệnh xích người cháu lão Phong Lôi, giam trong dinh, lấy cung rồi giải tỉnh.
Hung phạm là một gã trẻ tuổi, tên: Hoàng Chí Tuệ
Phố chính của châu Yên Thạch buôn bán sầm uất. Mươi nóc nhà mới lần lượt ganh nhau được dựng lên do bọn khách trú khởi nghiệp bằng nghề tìm đất cát, chạy mả để mồ, còn thì do mấy ông chủ ruộng người Việt xuất thân bằng nghề phu phen đã bỏ nửa đời phó thác cho muỗi rừng, suối độc.
Ngày mà phố chính châu Yên Thạch xảy ra án mạng làm ngứa ngáy những cái miệng ốm yếu và nhợt nhạt vì ngã nước thì ve sầu kêu rộn rã, hoa núc nác đỏ như phun máu lên trời, ở những nương bát ngát bao chân núi thì lúa chín trĩu bông. Câu chuyện đổ máu ở miệng bọn này thực là sôi nổi.
- Đáng tiếc thằng cha Tuệ. Chẳng chịu làm ăn gì cả, chỉ nhởn nhơ đàn sáo, đánh bạc, hát hỏng, bê tha…
- Đã thế lại có máu hay ve gái. Cu cậu khỏe mạnh, đẹp trai mà lại!
- Cứ dài lưng ra mà ăn bám vào lão chú ruột. Có lẽ cu cậu nóng lòng thừa hưởng cái số ruộng ngon lành của lão nên giết lão đi cho sớm chứ gì. Đồ dại, ông lão Phong Lôi cô độc, có con cái gì đâu. Chú cháu sống nương vào cửa hàng áo quan ấy, lão chết đi, chẳng để cho hắn thì còn để cho ai nữa.
Đó là dư luận của những cái miệng vốn xưa nay ghét Tuệ. Trong khi đó, những kẻ bênh vực Tuệ cũng cất tiếng cải chính ồn ồn:
- Các bác nhầm. Sao không nhớ rằng từ khi anh ấy đến thì trẻ trong châu này đều được anh tận tâm dạy bảo, đứa nào cũng đã biết đọc nhật trình lau láu. Các bác ghét anh ta, vì các bác không có con gởi học, vậy thôi! Còn như việc ve vãn trai gái thì có gì lạ khi một người con trai ba mươi tuổi chưa vợ con. Lại như đánh bạc, buồn như cái châu này những ngày mưa dầm gió bấc, không giở trò tổ tôm, chắn cạ với nhau thì còn biết làm gì. Các bác nhiếc người ta lười nhác. Tôi không thấy anh ấy lười. Cứ hỏi cụ ký giây thép mà xem, các bác sẽ biết anh ấy ngày nào cũng ra gửi về Hà Nội từng bó giấy. Cụ ký bảo anh ấy viết báo và được lĩnh măng đa luôn. Như tôi thấy, thì việc giết ông lão Phong Lôi rất đáng nghi ngờ. Này, này, các bác có còn nhớ vụ lúa ba giăng năm ngoái, gã khách nghiện hàng xóm lão đã đánh nhau với lão vì công nợ, có đe trước mặt lão rằng: “Sang năm mày không nộp nốt ba mươi thúng nữa, mày sẽ biết tay ông…”. Tôi còn nhớ lắm, cho nên lúc nhìn xác lão, tôi vụt nghĩ ra ngay cuộc chửi nhau năm ngoái.
- Thôi, thôi, việc đời mặc kệ việc đời. Im đi kẻo mà vạ miệng!
Câu chuyện đến đó thì đứt quãng. Người này lẳng lặng bó lúa, kẻ kia vừa hát vừa đưa những nhát liềm soàn soạt.
Trong khi ấy, ở ngôi hàng sũ lão Phong Lôi, xác lão nằm cứng đờ, máu lão ri rỉ ra đất bò vào các khe cửa, ngấm xuống các đống vỏ bào, mạt cưa. Ngoài cửa, những bộ mặt ngớ ngẩn, xanh xao vì sốt rét nhiều hơn vì sợ hãi, châu vào nhau mà bàn tán:
- Làm sao lại xảy ra thế được! Ông giáo lành như vậy, yêu trẻ như con, quý người rách rưới như ruột thịt. Ông giáo hết sức bênh vực kẻ ngu vì thất học mà bị ức hiếp. Xem như việc bác cu Sơ bị mụ khách A Sén và con đĩ me Tây già cậy thế người trên mà bóp cổ bác, ép ký văn tự nợ rồi lại đánh xé bác. Anh giáo thấy thế đã ra tay che chở bác tại toà bên tỉnh.
- Nhưng, này bà Quản ơi, thế thì ai đã hành hung đánh chồng tôi đến vỡ đầu hồi năm trước? Chẳng thằng giết người kia thì còn ai hở?
- Bác nhầm, bác Cửu ạ, anh giáo bất đắc dĩ đánh bác trai là vì bác trai đã mượn hơi men mà chửi anh giáo trước. Người ta là người học thức, nói bóng gió người ta đã biết rồi, huống chi mình là cái thằng gì ở đây mà dám cất miệng chửi bới người ta thậm tệ.
Giọng bà Quản gay gắt quá đến nỗi vợ bác cai Cửu nổi hung to tiếng:
- À, bà bênh thằng giết người đó phỏng? Phải, chồng bà đổi đi thiên sơn vạn thuỷ, bà ở nhà buồn thì bà rỗi miệng, bà bênh vực người ta. Chỉ sợ không bênh được mãi. Gái này biết hết…
Bà Quản mặt đỏ gay gắt, nhảy chồm lên toan níu tóc mụ cai Cửu, nhưng có người quát lớn:
- Quan đến, dẹp cả ra!
Quan tri châu là một người gày cao lênh khênh, dáng điệu ốm yếu. Tuổi chưa nhiều nhưng ông đã để râu cằm. Trời nóng thế mà ông cũng mặc áo the đủ cạp. Viên thư ký thì mặt dơi mõm chuột, mắt nhìn lấm lét. Cả hai cùng tiến thẳng đến nơi có án mạng, mặt uy nghiêm. Quan khám xét tử thi rồi sai điệu hung phạm vào dinh.
Sau đó, bọn đàn bà rỗi rãi ai về nhà nấy. Bọn đàn ông ban nãy chưa xuống ruộng thì bây giờ vác liềm đi làm việc. Họ tản mát dần để rồi ngập cả mình vào những lớp sóng biển lúa vàng bát ngát.
Quan Châu Nguyễn lên đến dinh - một tòa nhà xây trên sườn núi - bắt đầu xử việc. Tên lính dõng, chính là người tóm được thủ phạm, đệ trình một con dao dính máu. Y khai rằng mờ sáng hôm đó, y qua nhà lão Phong Lôi, thấy hung phạm có vẻ cuống quýt, toan rảo bước. Y hỏi hung phạm đi đâu và đêm qua ngủ ở đâu mà ra đường sớm thế. Hung phạm trả lời ấp úng.
- Bẩm quan, thoạt tiên hắn khai là đêm qua uống rượu đánh cờ ở hiệu cao lâu chú Tổng Koóng. Con vặn rằng đánh cờ với ai, hắn không đáp được, viện lẽ say rượu quá không nhớ rõ. Con lại hỏi chú Tổng Koóng. Chú này nói hôm qua hắn không đến hiệu. Bẩm, chiểu theo lẽ đó, quyết hắn đã giết lão Phong Lôi.
Ông Châu gật gù, tay mân mê con dao dính máu.
Cai Cửu, kẻ làm chứng, do mụ vợ đã dạy khai để báo thù giáo Tuệ, gãi tai khai: chính hắn đã nghi khi thầy giáo Tuệ nói với nhiều người là rất mong lão ta chết để hưởng số ruộng kia.
Tay ông Châu vẫn không dời con dao. Tự nhiên ông thấy đầu nhức buốt. Tạng ông vốn yếu, nhức đầu sốt rét là thường lắm. Mọi khi ông vẫn làm việc được, nhưng hôm nay đầu ông nhức một cách quái lạ. Ông truyền dẫn Tuệ vào nhà giam. Ông bỏ con dao cùng tập hồ sơ vào tủ, tự tay khóa kỹ, rồi đứng dậy.
Bây giờ, một mình ông trong phòng riêng. Ông tiến về cửa sổ, mở rộng hai cánh ra cho sáng. Chung quanh là núi rừng, mây bay bát ngát. Nương lúa chín vàng rực một màu dưới nắng. Bọn thợ gặt đang thoăn thoắt đưa những lưỡi liềm bóng sáng, hát véo von.
Cảnh kia đối với ông đã bao nhiêu năm quen thuộc. Ông yêu đất cát, yêu mùa lúa chín và “thương” dân cần lao. Ngày còn là cậu học trò trường Bảo hộ, ông đã ngốn nhiều sách. Ngày bắt đầu đi làm thừa phái, ông đã biết suy nghĩ nhiều về lớp người cần lao. Cho đến ngày thoắt một cái, nhanh đến nỗi ông cũng giật mình, ông được trọng nhậm ở nơi rừng thiêng nước độc này, hàng ngày trông thấy những cái bụng ỏng mặt xanh vì thủy thổ, ông lại càng thấm thía những trang sách ông đã đọc và ông càng nghĩ cách làm thế nào cho dân đỡ khổ, đỡ đói, đỡ chết. Ông cho tu sửa lại phòng phát thuốc bố thí, khuyên dân nên giữ vệ sinh. Việc đó có kết quả rõ ràng. Ruộng đất bỏ hoang, người Kinh lên đây thì ít, lại không đủ lực làm, người Thổ thì lười nhác. Ông khuyến khích người Kinh khai khẩn. Ngay năm đầu đã được mùa lúa tốt. Người Kinh càng kéo nhau lên làm ruộng, khai phá đất hoang. Người Thổ thấy vậy cũng ganh đua cày cấy. Thành ra mới năm sáu năm nay, nghề nông ở vùng này đã trở nên nghề chính. Ruộng tốt màu, phố xá phong quang, bán buôn sầm uất. Ông Sứ, ông Đồn đều khen ngợi ông Châu có tài dạy dân, và dân cũng trọng ông như phụ mẫu. Thế đấy! Cái tiếng quan Châu mẫn cán nổi như cồn!
Vô tình, mắt ông nhìn về phía nhà giam. Hoàng Chí Tuệ nằm trong đó. Hung phạm đã bị ông sai xích. Người ngoài không một ai ngờ chính hung đồ là bạn học với ông từ ngày để chỏm.
Mẫn (tên ông tri châu) với Tuệ, ngày đi học xung khắc nhau, đánh chửi nhau không ngớt. Đôi trẻ không thể nào chơi với nhau được nửa ngày. Mẫn hồi ấy cũng khá khỏe. Nhưng Tuệ khỏe hơn. Đọc truyện Tầu, thấy Lý Nguyên Bá mang sư tử đá, Mẫn và Tuệ một hôm thách nhau nâng một tảng đá ở sân trường. Mẫn loay hoay, bị tảng đá đè dập bàn chân, phải nghỉ nhà nửa tháng. Tuệ nhấc bổng tảng đá lên đi ba vòng mà không mệt. Tiếng vỗ tay vang sân trường khiến Mẫn xấu hổ và Tuệ vênh vang hơn trước. Rồi đó, đá bóng hay chạy thi, Mẫn đều bị Tuệ chèn cho kỳ ngã. Mẫn đem lòng thù Tuệ. Nhưng câu chuyện sau này đã khiến Mẫn chuyển bại thành thắng. Mẫn thắng vẻ vang. Nguyên hồi đó, trước cửa trường có một cô gái bán bút giấy sách vở cho học trò. Tên cô là Kiều Mai, nhưng bọn học trò vẫn gọi là ả Kiều. Kiều đẹp lắm. Mẫn viết ba bức thư liền cho Kiều. Một sớm Kiều Mai cười với Mẫn và biếu không Mẫn một chiếc bút chì. Tuệ biết sự đó giận lắm, vì anh cũng yêu cô hàng sách. Nhưng Tuệ chưa kịp tỏ cái giận của mình thì sau một kỳ thi hai người chia hai lối. Tuệ đi ở tỉnh khác. Mẫn theo học trường Bảo hộ. Đôi bạn từ đấy không còn gặp mặt nhau.
❉❉❉
Ngày đôi bạn còn trổ tài vác đá và chiếm đoạt một cặp mắt đong đưa cho đến ngày Tuệ vác va ly lên cái châu này, cách nay đã bảy năm trời. Tuệ vô tình chưa biết ông tri châu đây là bạn cũ. Đột nhiên anh đã thốt reo lên trước đôi mắt ngạc nhiên của một người mệnh phụ trong một canh chắn cạ. Người mệnh phụ đó chính là nàng Kiều Mai năm nao.
- Bà tri châu đấy! Ô hay. Thế ra ông giáo Tuệ chưa biết à?
Tuệ lặng người, không đáp. Bà Quản Thụ vừa phát quân “nhất văn” vừa đưa con mắt sắc: “Dâng ông cô gái đẹp, ông ăn ngon nhé!”.
Tuệ bỏ quân “nhất văn” đáng lẽ văn vào chắn, để nhìn cố nhân. Kiều Mai rầu mặt lại.
Đêm ấy trời đổ mưa. Mưa rừng nuôi sầu cho người lính thú và Tuệ bắt đầu mang tâm sự của người lính thú. Một người bạn giang hồ đã tặng anh gióng trúc đẵn tận đỉnh núi Côi Sơn nơi miền Trung để anh làm ống địch. Tuệ có tài thổi địch khiến cho ai cũng khâm phục, rung động tự đáy lòng huống hồ tấm lòng nhạy cảm của Kiều Mai đang rời rã trong canh mưa, lại gặp tiếng địch của người trẻ tuổi réo rắt đâu đó. Nàng khẽ nhấc đầu bên cánh tay chồng, lén ra cửa sổ nhìn xuống con đường dốc núi. Lửa đèn trong các căn nhà lụp xụp dưới phố đã tắt, duy cái ánh lửa quen thuộc trong nhà hàng sũ còn le lói. Đêm nào, Kiều Mai cũng để ý đến ánh lửa kia. Người dưới núi vô tình không ngửa mặt trông lên sườn núi, chứ người trên núi vẫn hàng ngày trông xuống bóng một người tha thẩn trong các rặng cây, đồng ruộng, và bóng một cái đầu bù gục trên trang giấy cạnh những cỗ quan tài.
“Anh chàng hay nhỉ! Không hiểu đêm đêm viết lách gì bên những chiếc áo quan gớm ghiếc kia?” - Nàng thắc mắc hỏi thầm.
Chiều hôm nay, nàng nhất định phải gặp Tuệ. Ngày mưa mà họp mặt nhau đánh bạc là một việc dễ dàng. Người ta đã họp ở nhà bà Quản Thụ, người đàn bà có chồng đi xa và có ý tình xa xôi với Tuệ. Nhưng Tuệ vốn dĩ thờ ơ với con người trăng gió đó.
Không hiểu do tình cờ hay định mệnh sắp đặt, vừa bước chân vào căn phòng đầy hơi người và hơi bạc Kiều Mai đã trông thấy anh, nhưng anh không nom thấy nàng. Anh đang đứa tựa cửa sổ, nhìn về phía chân núi. Ánh chiều tà viền quanh mái tóc bồng và tấm thân tao nhã cân đối của anh nom vừa thân quen, vừa xa lạ. Nàng chỉ nhìn rõ một bên mặt anh, bởi vì nửa kia quay ra ngoài ánh sáng. Trong nhà bà Quản Thụ lúc này người ta đang vùi đầu vào chắn cạ, tổ tôm nên chẳng ai để ý đến nàng. Nàng bồi hồi tiến tới chỗ Tuệ đứng. Nghe bước chân ai, Tuệ ngoảnh lại. Anh sững sờ, mắt mở to kinh ngạc, và anh bất giác đưa cả hai bàn tay mạnh mẽ ấm áp ra nắm lấy đôi bàn tay thon thả của nàng, mắt nhìn mắt. Anh đọc được trong đó nỗi xót thương dịu dàng, tình yêu, tấm lòng và tâm hồn của Kiều Mai. Anh bỗng thấy mình như một gã học trò nghèo thuở xưa, bởi cái nhìn kia là cái nhìn của Kiều Mai khi nàng ngồi trong quán sách tuềnh toàng trước cửa trường, kín đáo nhìn theo anh. Bao nỗi lo âu, nghèo túng và chờ đợi nhọc nhằn lúc này đều như tiêu tan hết. Anh cảm thấy như có tiếng gọi của lòng nàng, và anh thèm được ngả đầu bên vai nàng để quên hết. Nàng bỗng xiết chặt tay anh, khẽ nói chỉ đủ anh nghe:
- Chiều mai, vào giờ này, tôi đợi anh bên rừng trúc ở cuối phố chính.
Rừng trúc là một trong những cảnh trí đẹp nhất của châu Yên Thành. Trong các loại rừng thì rừng thông và rừng trúc quả có cái cốt cách riêng của nó. Sau khi đi qua một quãng đường mọc toàn những cây núc nác hoa đỏ rực trời, vào đây thấy tôi tối, mát lạnh và dễ chịu. Tịch mịch vô cùng, tiếng lá rì rào, các thân trúc cọ vào nhau cọt kẹt và tiếng con chim chào mào rúc từng hồi dài đâu đây càng làm tăng vẻ đẹp cô liêu của núi rừng. Nàng đã đứng đó đợi tự bao giờ, khuôn mặt nàng nhợt nhạt, thảng thốt.
- Từ hôm gặp lại, không lúc nào tôi không nghĩ đến anh.
Hai người ngồi xuống lớp lá trúc dầy êm, mầu vàng ươm, xung quanh là cả một rừng trúc vô tình tạo thành những bức rèm che chở cho họ. Bóng chiều bảng lảng buông mau. Họ đã nói với nhau những gì chính họ cũng không nhớ, nhưng chúng giúp họ chóng hiểu nhau. Mùi hương từ mái tóc và thân thể nàng khiến anh bổi hổi bồi hồi. Anh xót xa cảm thương nàng và thương mình. Bỗng anh ghì chặt nàng vào lòng, áp đôi môi anh lên môi nàng, thì thào trước khuôn mặt thương yêu đó:
- Tôi cũng không lúc nào không nghĩ đến mình. Vĩnh biệt! Vĩnh biệt!
Anh đứng dậy. Rồi lặng lẽ quay đi. Kiều Mai đưa tay bưng lấy mặt. Nàng nghe thấy tiếng chân bước chậm chạp xa dần của anh, trong nhịp điệu của chúng có cái gì khiến nàng phải phát khóc.
Từ đó đêm đêm anh thường thổi địch trong những canh dài. Anh đứng tựa lưng vào một gốc cây, lấy lá làm ô, đem cả cái hơi bệnh tương tư ra thổi một khúc đoạn trường để gửi cho người bạn lòng. Quả vậy, Kiều Mai đã ngẩn ngơ, lòng rạo rực khi đêm đêm nàng rời khỏi cánh tay gầy của ông chồng ốm yếu. Đã nhiều đêm, tỉnh giấc không thấy vợ nằm bên, ông mò mẫm đi tìm. Và nhiều lần, ông đã bắt gặp nàng đứng ngoài thềm vọng nhìn xuống con đường dốc núi kia.
Tiếng địch tắt khi có mấy tiếng gà rừng văng vẳng. Nàng khép cửa sổ, tiến vào giường rồi ngả mình bên ông chồng đang vờ say giấc.
❉❉❉
- Không thể như thế được. Ta phải cương quyết trong vụ án này.
Ông tri châu quay đi, đập tay lên vầng trán cho tan hỏa. Ông rời khỏi khung cửa sổ, vào giường. Chân tay ông rời rã. Ông cố ngủ để đến chiều lấy cung thằng bạn sát nhân, với một mối thâm thù mà ông đang cố kìm nén.
Chiều, ông thét giải hung phạm đến. Ông đập tay chan chát xuống mặt bàn.
- Thế nào, đêm xảy ra án mạng mày ngủ ở nhà hay ở đâu?
Tuệ nhận ra bạn cũ, nhưng ở trường hợp này, anh thản nhiên vụt nhớ lại những cuộc xung đột với nhau ngày xưa, và anh cũng biết rằng không nên ngây thơ nhắc người bạn giàu sang nhớ lại ngày y còn mang áo vải.
- Kìa, tao hỏi đêm hôm ấy mày ngủ ở đâu? Mày có giết chú mày không?
Tuệ mím chặt môi. Anh yên lặng đến thành tê dại cả người.
- Đêm ấy mày ngủ đâu?
Tuệ bật lên như gào thét:
- Điều đó tôi không thể nào nói rõ được. Tôi chỉ có thể đáp rằng tôi đã ngủ ở một chỗ có giường màn, trên là trời dưới là đất. Còn giết người thì tuyệt không!
- Tại sao mày không thể nói rõ nơi mày ngủ?
- Tôi không thể. Thế thôi!
- Vậy thì mày sẽ bị đi đày, nếu không bị lên máy chém.
Thốt nhiên, Tuệ thấy rùng mình. Anh nhớ đến những trang giấy anh đang viết dở dang, nhớ đến ánh mắt, những nụ hôn nồng nàn và vòng tay xiết chặt của Kiều Mai mới đêm nào, anh nhớ cả đến những đám mây, tiếng chim, tiếng địch… cuộc đời. Cuộc đời đẹp lắm. Có lẽ nào anh vẩy tay rũ cả cuộc đời cao quý ấy trong giây phút ngậm miệng này.
Ông tri châu nhìn thẳng vào mặt Tuệ. Sự nhận xét thông minh cho ông biết ngay rằng kẻ tội nhân đang có một cơn chiến đấu cùng thiên năng, lý trí.
- Mày thú nhận đi. Con dao này chính của mày?
- Không phải. Con dao của tôi có khắc ở chuôi một chữ T.
Vừa nói, Tuệ vừa lần tay vào túi tìm.
- Đâu, đưa xem con dao ấy?
Nhưng Tuệ không tìm thấy con dao trong túi áo. Bàn tay sững sờ buông thõng xuống, anh thất vọng đến nhợt cả mặt mày.
- Con dao đâu?
- Tôi đánh mất rồi.
- Vậy thì nó là con dao dính máu lão Phong Lôi mà ta cầm đây chứ gì. Mày khôn ngoan nhỉ!
Ông cười khanh khách. Tuệ thét to:
- Không phải con dao của tôi! Không đời nào tôi giết chú tôi! Vu khống! Tất cả các người đã cùng hùa nhau vu khống hãm hại ta!
Mắt Tuệ đỏ lên. Hai tay anh nhoài ra như muốn vò xé một vật gì. Anh càng gào thét và giẫm chân xuống đất. Ông tri châu truyền giam tội nhân.
Tội nhân đi rồi, ông lên gác. Đến đầu cầu thang, nghe thấy tiếng khóc sụt sịt, ông dừng chân lại. Người vợ biết là tiếng giầy chồng, vội nín. Ông lưỡng lự ở cầu thang, không biết nên lên hay lùi xuống. Chợt nhớ lại những đêm tỉnh giấc không thấy vợ nằm bên, rồi bắt gặp nàng đang thẫn thờ nhìn về con đường mòn nơi dốc núi, rồi đêm hôm trước, tỉnh giấc không thấy vợ hồi lâu, ông càng ngờ vợ tợn. Người đàn bà này xưa nay có khóc bao giờ. Nàng cười nói cả ngày, và dễ tính lắm nữa. Ở đâu thiếu chân bài, bên dinh triệu, nàng vui vẻ khoác áo đi ngay. Ông tri châu chiều vợ, không nói năng gì. Nhưng bà còn dễ tính đến mức ra ngoài đồng ruộng tát nước hộ dân cày hay tranh lấy liềm mà gặt lúa cho họ, nói cười với họ như bạn hữu thì ông giận lắm. “Mình là người trên phải giữ giá người trên. Tôi không bằng lòng cho mình gần gụi chúng như thế”. Biết bao lần ông trách mắng nhưng bà vẫn tìm cách thân mật, gần gũi bọn áo rách như thường.
“Tại làm sao vợ mình khóc? Thôi thôi, còn nghi ngờ chi nữa!” - Viên tri châu bất giác như bừng tỉnh và hiểu ra tất cả. Một nỗi căm giận âm ỉ từ nhiều năm cũ nay bỗng thổi bùng lên trong lòng ông. Ông dận mạnh giầy, bước lên. Người vợ đã lau nước mắt và ra vẻ tươi vui:
- Chờ mình lâu quá, đói chết người. Thôi, ta đi ăn.
Ngồi vào bàn ăn, người chồng lầm lì. Bỗng ông bật lên nói:
- Thế nào, nó có vô tội không theo ý mình?
Người vợ làm bộ ngạc nhiên:
- Ai vô tội?
- Ai nữa, nếu không là thằng cha Tuệ, thằng giết chú đêm qua.
Nàng lẳng lặng cúi xuống, gẩy từng hột cơm trong bát. Mái tóc nghiêng nghiêng, hai diềm mi vẽ thành đôi nét sắc đậm trên khuôn mặt thanh dịu như đóa nhài nở trong sương càng làm tăng vẻ đẹp của người đàn bà lòng đang nổi bão. Ông chồng ngắm vợ, nhưng vội quay đi ngay và nói vu vơ:
- Thằng gớm thế, giết cả chú ruột để mong chiếm của.
Bàn tay trắng muốt của người đàn bà gảy mạnh một hạt thóc ra khăn bàn, nàng ngẩng phắt mặt lên, mắt sáng đến thành dữ tợn:
- Tôi bảo hắn oan. Sát nhân tất là kẻ khác mà mình mê muội không dò xét.
Người chồng bỏ đũa đứng lên cười nhạt:
- Tôi mà mê muội! Đời có kẻ mê muội mà không tự biết đó thôi.
Nói rồi ông sang buồng ngủ, bước rầm rầm. Người đàn bà lặng lẽ trông theo, rồi đưa hai bàn tay nõn nà lên bưng mặt. Ngay chiều hôm đó, ông tri châu sai hai gã thuộc hạ thân tín và hung tợn nhất trong dinh tra tấn Tuệ đêm ngày, ông còn dặn chúng tìm mọi cách không cho anh ngủ suốt một tuần liền. Sau mỗi trận đòn thù, anh như chết đi sống lại. Ông cũng không quên cho người theo dõi vợ từng bước.
Trăng soi chếch vào cửa sổ. Ông tri châu mệt mỏi, nằm vật vã. Bỗng đầu ông nhức buốt. Bệnh nhức đầu lại hành hạ mỗi khi ông bị dằn vặt bởi một ý nghĩ gì nóng bỏng.
Ông mệt quá, đầu lệnh sang bên gối, thiếp ngủ lúc nào không biết.
Trong lúc đó, Tuệ đau đớn quằn quại nơi nhà giam sau những trận đòn thù thừa sống thiếu chết. Anh mở to mắt nhìn bóng trăng soi quạnh quẽ ngoài song sắt. Tiếng thác đổ rừng xa lẫn tiếng cú kêu như tiếng ma hờn quỷ oán. Ông tri châu bỗng bừng thức dậy. Một ý định nảy ra. Ông vùng ngồi lên, xuống phòng làm việc, sai lính điệu cổ Tuệ lên lập tức. Tuệ đứng trước ông Châu, hoang mang trong cơn mệt nhọc và đau đớn cùng cực.
Giọng ông rõ rành:
- Anh nghĩ lại chưa? Anh thú thật đi, sẽ nhẹ tội.
Tuệ cúi xuống không đáp.
Ông tri châu mân mê con dao dính máu trên bàn. Giọng ông cất to hơn:
- Thực như thế đó. Anh đã đánh mất con dao của anh. Tôi đoán rằng anh đánh mất con dao ấy khi anh hẹn hò, gặp gỡ một người đàn bà nào. Nếu đúng thế thì người đàn bà mà anh đang hy sinh cho họ, sao không mang con dao ấy đến đây, con dao vô tội, con dao không dính máu, lại có khắc tên anh?... Ờ, nếu có con dao ấy thì anh thoát tội. Vậy, người ta đã phản bội anh, nếu quả có người đàn bà ấy thật.
Ông đặt mạnh con dao dính máu mà tên lính dõng đã đệ trình ông xuống bàn. Ánh thép dưới đèn lóe sáng.
Trong tâm trí rối loạn của Tuệ, vụt lóe lên ý nghĩ: “Bây giờ tất cả mọi người đều coi mình là kẻ sát nhân rồi. Ta phải nghĩ đến Kiều Mai, đừng để nàng bị liên lụy, bởi có lẽ nào nàng lại phản bội ta. Ta phải hy sinh mạng sống bé nhỏ của ta, không cần chối cãi”.
Không nhìn mặt người đang dỗ dành mình nếu buộc tội mình, anh gào thét vô cùng liều lĩnh:
- Phải, ta giết! Chính ta giết!... chính ta…
Ông Châu mỉm cười bảo Tuệ ký vào tờ cung khai - bản án nặng sẽ là tử hình, nhẹ cũng tù đày biệt xứ, đang nằm dưới cặp mắt đầy độc ác, đầy tham vọng của người bạn cũ.
(Đăng Tiểu thuyết thứ Bảy số 486/1943)