← Quay lại trang sách

Chương 2 ĐẢO CORSE - LONDON

CẢNH SÁT QUỐC GIA Pháp chính thức tuyên bố Madeline Hart đã mất tích lúc 2:00 chiều ngày thứ Sáu cuối cùng của tháng Tám. Sau ba ngày tìm kiếm, họ chẳng tìm thấy dấu vết nào của cô ngoài chiếc scooter màu đỏ đã được phát hiện, đèn trước bị vỡ nát, trong một hẻm núi quạnh hiu gần Monte Cinto. Đến cuối tuần cảnh sát đành phải từ bỏ hy vọng tìm thấy cô còn sống sót. Đối với công chúng họ luôn khẳng định vụ án này là ưu tiên số một, vẫn duy trì việc tìm kiếm du khách mất tích đến từ Vương quốc Anh. Tuy nhiên, theo nguồn tin không chính thức, họ đã cho tiến hành truy tìm kẻ giết cô ta.

Chẳng ai có khả năng là nghi can hay kẻ đáng lưu ý ngoài người đàn ông cùng ăn trưa với cô ở nhà hàng Les Palmiers vào buổi chiều trước khi cô biến mất. Nhưng cũng như Madeline, dường như hắn đã biệt tăm khỏi bề mặt trái đất. Phải chăng hắn là một tình nhân bí mật, như Fiona và những người khác tình nghi, hay hai người ấy vừa mới quen nhau trên đảo Corse? Có phải hắn là người Vương quốc Anh? Là người Pháp? Hay như một thám tử thường thất bại đã nêu lên, phải chăng hắn là người ngoài hành tinh từ một thiên hà khác tới, đã biến thành những hạt nhỏ li ti và trở về tàu mẹ? Cô tiếp viên ở nhà hàng Les Palmiers giúp được rất ít. Cô nhớ lại hắn đã nói với cô gái đội mũ rộng vành bằng tiếng Anh, nhưng khi gọi món lại nói tiếng Pháp rất lưu loát. Hóa đơn được trả bằng tiền mặt - những tờ giấy bạc sạch sẽ, quăn queo được hắn rải lên mặt bàn như một con bạc thường đặt nhiều tiền - và hắn boa cho cô rất nhiều, chuyện thời nay rất hiếm ở châu Âu, do khủng hoảng kinh tế và đủ điều đủ chuyện nữa. Điều cô nhớ nhiều nhất về hắn là hai bàn tay. Lông tay rất ít, không có vết nám hay vết sẹo, móng tay sạch sẽ. Hiển nhiên hắn chăm sóc móng tay rất kỹ. Cô thích điều ấy nơi một người đàn ông.

Hình chụp hắn ta đã được cẩn thận truyền xem khắp các hố ngâm mình hạng trung và những cơ sở ăn uống trên đảo, điều này đã gợi nên ít nhiều gì đó hơn là một cái nhún vai hờ hững. Dường như chẳng ai từng để mắt đến hắn. Và nếu từng trông thấy cũng chẳng thể nào nhớ mặt. Hắn giống hệt mọi gã đỏm dáng điệu đàng khác từng tấp vào bờ đảo Corse mỗi mùa hè: màu da rám nắng đẹp đẽ, một cặp kính mát đắt tiền, một đồng hồ bằng vàng đặt riêng theo phong cách cá nhân làm tại Thụy Sĩ đeo trên cổ tay. Hắn là một kẻ chả ra gì có một thẻ tín dụng và một cô gái xinh đẹp ngồi bên kia bàn ăn. Hắn là người đàn ông bị lãng quên.

Đối với các chủ cửa hiệu và nhà hàng ở đảo Corse có lẽ như vậy, nhưng với cảnh sát Pháp thì không. Họ chuyển hình ảnh của hắn tới mọi cơ sở lưu trữ dữ liệu hình sự trong phạm vi của mình để điều tra, rồi sau đó tiếp tục chuyển đến vài nơi nữa. Và mỗi khi cuộc truy tìm chẳng đem lại kết quả gì, ngay cả một tia hy vọng mong manh lóe lên như một que diêm cũng không, họ lại tranh luận với nhau liệu có nên đưa một tấm hình cho báo chí hay không. Có một số người, đặc biệt ở cấp cao hơn, đưa ra lý lẽ chống lại động thái đó. Họ nói rốt cuộc có khả năng anh chàng đáng thương ấy chẳng qua chỉ phạm tội ngoại tình, mà ở nước Pháp hầu như đó không phải là một tội hình sự. Nhưng khi bảy mươi hai giờ nữa trôi qua mà chẳng có tiến triển nào để nói tới, họ đi đến kết luận chẳng có chọn lựa nào khác ngoài việc yêu cầu công chúng giúp đỡ. Hai tấm hình đã cắt xén cẩn thận được đưa ra cho báo chí: một tấm chụp người đàn ông ngồi trong nhà hàng Les Palmiers, trong tấm kia hắn đang đi dọc theo bến tàu - và khi đêm xuống, các điều tra viên ngập chìm trong hàng trăm lời chỉ dẫn. Họ mau chóng loại bỏ những lời khoác lác và kỳ quặc, chỉ tập trung các nguồn lực của mình vào các manh mối hơi có vẻ hợp lý. Nhưng không một manh mối nào đâm hoa kết quả. Một tuần sau khi Madeline Hart biến mất, nghi can duy nhất của họ vẫn là một người đàn ông không tên, thậm chí chẳng rõ là người nước nào.

Mặc dù chẳng có manh mối nào đầy hứa hẹn, nhưng cảnh sát chẳng thiếu các lập luận. Một nhóm thám tử nghĩ người đàn ông từ nhà hàng Les Palmiers là một tên săn gái loạn trí đã dụ Madeline vào bẫy. Một nhóm khác lại cho hắn không đáng quan tâm, xem như một kẻ đơn giản chỉ đến không đúng nơi đúng lúc. Theo lập luận này, hắn đã có vợ, vì vậy ở vào vị thế không thể nào bước ra ánh sáng để hợp tác với cảnh sát. Về số phận của Madeline, họ lập luận có lẽ đây là hậu quả của một vụ cướp sai lầm: một phụ nữ trẻ lái mô tô đi một mình hẳn đã là một mục tiêu gây thèm muốn. Cuối cùng rồi cái xác sẽ xuất hiện. Biển cả sẽ nhả nó ra, một người đi bộ đường trường sẽ vấp ngã lên nó trên một ngọn đồi, một chủ trang trại sẽ khai quật nó lên khi cày xới cánh đồng của mình. Đó là cách nó sẽ xuất hiện trên hòn đảo này. Đảo Corse vẫn luôn hắt hủi những kẻ đã chết đi.

Ở Đảo quốc Anh, thất bại của cảnh sát là một dịp để đả kích người Pháp. Nhưng với đa số người Anh, thậm chí những nhật báo có cảm tình với phe đối lập cũng xem chuyện Madeline bị mất tích như thể đó là một tấn thảm kịch của quốc gia. Sự thăng tiến đáng lưu ý của cô từ một căn nhà hội đồng ở Essex được điểm lại từng chi tiết, và nhiều nhân vật có uy tín lớn trong đảng đã đưa ra những lời phát biểu về một sự nghiệp đầy hứa hẹn bị đứt đoạn. Bà mẹ tuôn trào nước mắt và người anh lười thối thây của cô từng người một đã nhận lời phỏng vấn trên đài truyền hình, rồi sau đó biến mất khỏi tầm nhìn của công chúng. Cũng đúng hệt như thế với các bạn cùng đi nghỉ hè với cô. Khi từ đảo Corse về tới Đảo quốc Anh, họ đã cùng nhau xuất hiện tại một cuộc họp báo ở sân bay Heathrow, có một đội ngũ trợ lý báo chí của đảng giám sát. Sau đó họ từ chối tất cả các cuộc phỏng vấn được yêu cầu khác, kể cả những kẻ tìm đến với các khoản thù lao sinh lợi. Vắng bóng trong hoạt động của giới truyền thông bất cứ việc mua bán một vụ bê bối nào. Chẳng hề có chuyện kể nào về các cuộc chè chén say sưa nhân kỳ nghỉ hè, những trò hề tình dục hay hành động quậy phá nơi công cộng, chỉ là lời nói ngớ ngẩn như thường lệ về những hiểm nguy mà các phụ nữ trẻ phải đương đầu khi đi du lịch ở nước ngoài. Tại tổng hành dinh của đảng, đội ngũ báo chí lẳng lặng tự chúc mừng vì đã xử lý vụ việc thật khôn khéo, trong khi ban tham mưu chính trị thông báo số người ủng hộ Thủ tướng đột ngột tăng lên rõ rệt trong một thời gian ngắn. Đằng sau những cánh cửa khép kín, họ gọi đó là “hiệu ứng Madeline.”

Dần dà những câu chuyện về số phận của cô chuyển từ trang đầu vào các mục bên trong, và tới cuối tháng Chín cô hoàn toàn rời khỏi mặt báo. Lúc đó là mùa thu, do đó đã tới lúc quay trở lại với công việc của chính phủ. Các thách thức mà Đảo quốc Anh phải đương đầu thật lớn lao: một nền kinh tế đang suy thoái, một khu vực sử dụng đồng tiền chung euro đang ngắc ngoải, và một danh sách dài các tệ nạn xã hội cần phải được xóa bỏ nhưng vẫn chưa có giải pháp thỏa đáng đang tiếp tục giằng xé đời sống ở Vương quốc Anh. Viễn cảnh của cuộc bầu cử đang treo lơ lửng trên tất cả. Thủ tướng đã buông ra nhiều lời ám chỉ mình dự tính sẽ ấn định một ngày trước cuối năm. Ông nhận thức rất rõ hiểm họa chính trị giờ đây đang quay trở lại; Jonathan Lancaster là người đứng đầu chính phủ đương nhiệm của Đảo quốc Anh vì người tiền nhiệm của ông đã thất bại, không thể kêu gọi tổ chức một cuộc bầu cử sau hàng tháng trời ve vãn công chúng. Lancaster, lúc đó lãnh đạo phe đối lập đã gọi ông ta là “Hamlet từ số Mười,”[1] và đã đánh một đòn chí tử.

Điều đó giải thích vì sao Simon Hewitt là Trưởng phòng Thông tin của Phủ Thủ tướng thời gian gần đây ngủ không yên giấc. Kiểu mất ngủ của ông ta chẳng hề biến đổi. Kiệt sức vì bị công việc cực nhọc hằng ngày giày vò, ông nhanh chóng ngủ thiếp đi, thường trong tư thế một xấp tài liệu trên ngực, rồi chỉ hai hay ba giờ sau đã thức giấc. Một khi đã tỉnh táo, đầu óc ông ta bắt đầu chạy đua. Sau bốn năm làm việc trong chính phù, dường như ông không có khả năng tập trung vào bất cứ điều gì ngoài những chuyện tiêu cực. Số phận một trợ lý báo chí của Phố Downing là thế. Trong thế giới của Simon Hewitt chẳng hề có đại thắng, chỉ toàn là tai họa và gần như là tai họa. Như những trận động đất, chúng cũng được xếp hạng theo mức độ nghiêm trọng từ những rung động nhẹ nhất mà hầu như người ta không cảm nhận được đến những biến động do địa chấn có khả năng làm sụp đổ các cao ốc và làm cuộc sống bị đảo lộn. Người ta mong đợi Hewitt sẽ tiên đoán thảm họa sắp xảy đến, và nếu có thể thì ngăn chặn để giảm thiểu thiệt hại. Gần đây ông đã bắt đầu nhận thức công việc của mình chẳng thể nào làm nổi. Trong những giờ phút đen tối nhất của đời mình, vụ này khiến ông được an ủi đôi chút.

Ông từng là một người có thế lực trong lĩnh vực của mình. Làm chủ bút chính trị cho tờ báo Times, ông từng là một trong những người có ảnh hưởng nhất ở Whitehall [2]. Chỉ cần vài dòng văn xuôi sắc như lưỡi dao đã có thương hiệu của mình, ông có thể phán xét một chính sách của chính phủ và ban cho nó một số phận thảm thương, cùng với sự nghiệp chính trị của bộ trưởng đã tạo ra nó. Quyền lực của ông đã có ảnh hưởng rộng lớn tới nỗi không chính phủ nào từng đưa ra một sáng kiến quan trọng mà chưa được ông duyệt qua trước tiên, và không chính khách nào mơ tưởng một tương lai tươi sáng hơn, đã từng nghĩ tới chuyện ứng cử vào một chức vụ lãnh đạo đảng mà không được ông hậu thuẫn trước tiên. Một trong số chính khách như thế là Jonathan Lancaster, một cựu luật sư ở Khu Trung tâm, từng có một địa vị vững chắc ở ngoại ô London. Ban đầu Hewitt không quan tâm đến Lancaster lắm; ông này quá thanh lịch, quá đẹp mã và có quá nhiều đặc quyền nên không thể đánh giá một cách nghiêm túc. Nhưng theo thời gian, Hewitt đã đi đến việc xem Lancaster như một tài năng thiên phú với nhiều ý kiến táo bạo. Ông muốn tái lập đảng chính trị đang thập tử nhất sinh của mình rồi sau đó tái thiết lại đất nước. Còn đáng ngạc nhiên hơn, Hewitt phát hiện mình thật sự thích Lancaster, điều chẳng bao giờ là một dấu hiệu tốt. Khi quan hệ của họ tiến triển, họ dành ít thời gian hơn để tán gẫu về những mưu đồ chính trị ở Whitehall và dành nhiều thời gian hơn để thảo luận làm sao sửa đổi xã hội đã tan vỡ ở Đảo quốc Anh. Vào đêm sau cuộc bầu cử, khi Lancaster được đẩy tới thắng lợi nhờ tuyệt đại đa số tại nghị viện trong vòng ba mươi năm qua, Hewitt là một trong những người ông gọi điện thoại đầu tiên. “Simon này,” ông đã nói với cái giọng quyến rũ của mình. “Tôi cần ông, Simon ạ. Tôi chẳng thể làm việc này một mình.” Hewitt sau đó đã viết một bài báo xuất sắc về triển vọng thành công của Lancaster, và ông hoàn toàn biết rõ vài ngày nữa mình sẽ bắt đầu làm việc cho ông ấy ở Phố Downing.

Giờ đây ông từ từ mở mắt ra và đăm đăm nhìn một cách khinh miệt chiếc đồng hồ trên bàn ngủ cạnh giường. Hai cây kim phát sáng chỉ 3:42, như thể giễu cợt ông. Kế bên nó là ba thiết bị điện tử di động của ông, tất cả đã được sạc điện đầy đủ cho cuộc công kích ngày sắp tới đây qua các phương tiện truyền thông. Ông ước mong chính mình cũng được nạp lại năng lượng dễ dàng như thế, nhưng vào thời điểm này chẳng thời lượng ngủ nghê hay ánh nắng nhiệt đới nào có thể sửa chữa tổn hại mà ông đã gây ra cho cơ thể trung niên của mình, ông nhìn Emma. Như thường lệ, bà đang ngủ thật say. Một lần nọ, có thể ông đã tính dùng cách kích thích nào đó để đánh thức bà, nhưng không phải bây giờ; cái giường vợ chồng cùng chung chăn gối đã trở thành một tổ ấm đóng băng. Trong một thời gian ngắn, bà đã bị ánh hào quang của ông ở Phố Downing quyến rũ, nhưng bà đã dần dần không hài lòng khi thấy chồng mình sùng bái Lancaster một cách mù quáng. Bà xem Thủ tướng gần như là một tình địch và lòng căm ghét của bà với ông ta đã lên đến mức độ sôi sục một cách phi lý. “Ông là một người đàn ông bằng hai ông ta đấy chứ, Simon ạ,” bà bảo cho chồng biết đêm hôm qua trước khi ban cho ông một nụ hôn hờ hững trên gò má đang hóp lại. “Thế mà vì lý do nào đấy ông lại thấy cần phải đóng vai cô hầu gái của ông ấy. Có lẽ một ngày nào đấy ông sẽ cho tôi biết vì sao.”

Ông biết giấc ngủ sẽ không đến nữa, không phải bây giờ, vì vậy ông cứ tỉnh táo nằm trên giường mà lắng nghe những âm thanh nối tiếp nhau báo hiệu một ngày mới của ông đang bắt đầu. Tiếng rơi phịch của tờ nhật báo buổi sáng trên bậc thềm trước cửa. Tiếng ùng ục của máy pha cà phê tự động. Tiếng xe sedan của chính phủ kêu rù rù bên dưới cửa sổ. Thận trọng nhổm dậy để đừng làm vợ thức giấc, ông vội khoác lên mình cái áo khoác mỏng mặc trong nhà rồi nhè nhẹ bước xuống thang lầu vào nhà bếp. Cái máy pha cà phê đang rít lên giận dữ. Ông pha một tách cà phê đen vì vòng eo đang phình ra của mình, rồi mang ra tiền sảnh. Một luồng gió ẩm ướt đón chào khi ông mở cửa. Đống báo bọc trong bao nhựa dẻo nằm trên tấm thảm chào mừng, kế bên một cái chậu sành với những bông hoa phong lữ đã héo tàn. Cúi xuống thì thấy còn cái gì khác nữa: một phong bì bằng giấy manila [3], khổ chừng 20x25cm, chẳng có dấu hiệu gì để biết do ai gửi và được đóng dấu khằn thật kỹ. Ông biết ngay tức thì chẳng phải do Phố Downing gửi tới, chẳng một ai trong ban tham mưu của ông dám bỏ ngay cả một tài liệu tầm thường nhất bên ngoài cửa nhà ông. Bởi thế, đây là cái gì đấy không được yêu cầu. Chẳng có gì bất thường cả; các cựu đồng nghiệp của ông trong giới báo chí biết địa chỉ của ông ở Hampstead và cứ bỏ lại gói này gói nọ cho ông mãi. Những món quà nhỏ đáp lại một thông tin đã được rò rỉ đúng lúc. Những bài phát biểu huênh hoang giận dữ khi nhận thấy bị coi khinh. Những tin đồn hư đốn quá nhạy cảm không thể truyền đi bằng thư điện tử. Ông cho là cần thiết việc nắm bắt kịp thời những chuyện ngồi lê đôi mách gần đây nhất ở Whitehall. Vốn trước đây là phóng viên nên ông biết rõ những điều nói sau lưng ai đó thường quan trọng gấp bội so với những gì viết về hắn ta trên các trang báo đầu tiên.

Ông huých ngón chân vào phong bì để biết chắc trong đó không có dây điện và pin kích nổ, sau đó đặt nó lên trên xấp báo rồi trở vào nhà bếp. Sau khi bật ti vi lên và hạ âm lượng tới mức thì thầm, ông lôi mấy tờ báo ra khỏi bọc nhựa dẻo và đọc lướt thật nhanh các trang đầu tiên. Chủ đề nổi trội nhất là lời đề nghị của Lancaster về việc nâng cao tính cạnh tranh của nền công nghiệp Anh bằng cách hạ thuế suất. Có thể đoán biết các tờ Guardian và Independent đã thất kinh hoảng vía, nhưng nhờ cố gắng của ông nên hầu hết việc đưa tin đều tích cực. Những tin tức khác từ Whitehall đều khoan dung vô hại. Không có trận động đất nào. Thậm chí một chấn động nhỏ cũng không.

Sau khi xem qua những thứ gọi là báo khổ rộng có chất lượng, Hewitt đọc nhanh các báo khổ nhỏ đăng các tin vắn mà ông xem như một khí áp kế của công luận Anh, tốt hơn bất cứ cuộc thăm dò ý kiến cử tri nào. Rồi sau khi lại rót đầy tách cà phê của mình, ông mở bì thư vô danh. Bên trong có ba món: một đĩa DVD, một tờ giấy khổ A4 đơn và một tấm hình.

“Chết tiệt,” ông khẽ thốt lên. “Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt.

Điều xảy ra kế tiếp là nguồn gốc của những suy đoán quá mức về sau và đối với Simon Hewitt, một cựu ký giả chính trị chắc hẳn phải biết rõ hơn, đã có không ít vụ tố cáo lẫn nhau. Bởi thay vì liên lạc với Cảnh sát Thủ đô London theo yêu cầu của luật pháp Vương quốc Anh, ông lại đem phong bì và những món trong đó vào văn phòng của mình ở số 12 Phố Downing, xuôi theo đường phố ấy cách Phủ Thủ tướng ở số Mười chỉ có hai căn. Sau khi chủ trì cuộc họp thường lệ của ban tham mưu lúc tám giờ, suốt cả buổi chẳng hề đề cập đến các món đồ nọ, ông đưa chúng cho Jeremy Fallon là trưởng ban tham mưu và cố vấn chính trị của Thủ tướng xem. Fallon là trưởng ban tham mưu có quyền lực mạnh nhất trong lịch sử Vương quốc Anh. Trách nhiệm của chức vụ này bao gồm việc hoạch định các chiến lược và điều phối các chính sách khắp các bộ khác nhau của chính phủ, điều này cho ông có quyền chõ mũi vào bất cứ vấn đề nào mình ưa thích. Trong giới báo chí ông thường được nhắc tới như là “bộ óc của Lancaster”, điều này khiến ông khá thích thú, còn về cá nhân Lancaster thì hẳn là không được hài lòng.

Phản ứng của Fallon chỉ khác nhau tùy theo ông ấy chọn câu chửi rủa nào. Theo bản năng trước tiên ông đem tài liệu đến cho Thủ tướng ngay lập tức, nhưng vì đó là ngày Thứ Tư nên ông đợi tới lúc Thủ tướng ‘sống sót’ vượt qua trận đấu sinh tử như các đấu sĩ hàng tuần, chính là Phiên chất vấn Thủ tướng. Không có lúc nào trong cuộc họp Lancaster, Hewitt hoặc Jeremy Fallon đã đề nghị giao tài liệu cho giới chức có thẩm quyền thích hợp. Họ đồng ý rằng, bắt buộc phải giao cho một nhân vật biết suy xét thận trọng và có tài, và hơn hết là người trên tất cả mọi vấn đề khác có thể tin cậy để bảo vệ lợi ích của Thủ tướng. Fallon và Hewitt hỏi Thủ tướng tên các ứng viên tiềm năng, ông này chỉ nêu tên một người. Có quan hệ họ hàng và quan trọng hơn nữa, có một món nợ chưa trả. Sự trung thành cá nhân có giá trị rất cao vào thời buổi như thế này, Thủ tướng nói, nhưng tác dụng đòn bẩy có giá trị thiết thực hơn rất nhiều.

Và vì thế, Graham Seymour, Phó Giám đốc kỳ cựu của Cơ quan An ninh Vương quốc Anh, còn gọi là MI5 [4] đã được triệu tập thầm lặng đến Phủ Thủ tướng. Rất lâu về sau này, Seymour thường mô tả cuộc gặp mặt - được tổ chức trong Phòng Nghiên cứu bên dưới bức chân dung bà Nam tước Thatcher đang tức giận - như là một việc khó khăn nhất trong sự nghiệp của mình. Ông đồng ý giúp Thủ tướng không hề ngần ngại, vì đó là điều mà một người như Graham Seymour vẫn làm trong những hoàn cảnh như thế này. Dù vậy ông vẫn nói rõ ràng nếu như việc ông dính líu vào vấn đề này lúc nào đó bị công bố, ông sẽ tiêu diệt những kẻ có trách nhiệm.

Như thế chỉ còn lại việc xác định danh tính viên chức đặc vụ sẽ chỉ huy việc truy tìm. Cũng như Thủ tướng trong tình huống trước đó, ông chỉ có một ứng viên, ông không cho Thủ tướng biết tên người này. Thay vào đó, dùng ngân quỹ từ một trong rất nhiều tài khoản hoạt động bí mật của MI5, ông đặt một vé trên chuyến bay của hãng hàng không British Airways đi Tel Aviv vào chiều tối hôm ấy. Khi máy bay từ từ rời khỏi cổng, ông suy xét cách nào tốt nhất để tiếp cận. Sự trung thành cá nhân có giá trị rất cao vào thời buổi như thế này, ông nghĩ, nhưng tác dụng đòn bẩy có giá trị thiết thực hơn rất nhiều.

Chú thích:

[1] Nguyên bản “Number Ten” hoặc “Number Ten Downing Street”: Phủ Thủ tướng Anh ở số 10, Phố Downing, London.

[2] Đường phố ở trung tâm London, còn dùng đề hoán chỉ chính quyền trung ương của chính phủ Anh, vì hầu hết các cơ quan của chính phủ đều ở đó.

[3] Thứ giấy dày màu nâu xuất khẩu từ Manila, thủ đô của Philippines, làm từ sợi của cây chuối sợi ma ní.

[4] Sercurity Service, thường được biết với tên gọi MI5 - viết tắt “Military Intelligence Section 5”, là tên cũ sau này vẫn quen dùng.