← Quay lại trang sách

Chương 3 -THÀNH PHỐ JERUSALEM--

GIỮA LÒNG THÀNH PHỐ Jerusalem, cách không xa trung tâm mua sắm Ben Yehuda có một đường phố nhỏ yên tĩnh với nhiều tán lá râm mát gọi là Phố Narkiss. Tòa nhà chung cư ở số Mười sáu tương đối nhỏ, chỉ vỏn vẹn ba tầng và bị khuất một phần đằng sau bức tường đá vôi vững chắc và một cây bạch đàn cao ngất ngưởng trồng trong khu vườn phía trước. Căn hộ trên tầng cao nhất khác biệt với những căn hộ còn lại trong tòa nhà, chỉ vì một dạo nó từng thuộc quyền sở hữu của Cơ quan Tình báo Israel. Căn hộ có một phòng khách rộng rãi, một nhà bếp ngăn nắp đầy những thiết bị hiện đại, một phòng trước đây là phòng ăn, và hai phòng ngủ. Phòng ngủ nhỏ hơn dành cho em bé đã được chuyển đổi thật công phu thành xưởng vẽ của họa sĩ chuyên nghiệp. Nhưng Gabriel vẫn thích làm việc ngoài phòng khách hơn, ở đó làn gió mát rượi từ các cánh cửa kiểu Pháp rộng mở mang đi mùi hăng hắc của các dung môi.

Lúc đó, ông ấy đang dùng một dung dịch được cân đong cẩn thận gồm có acetone, cồn và nước cất, đã được bậc thầy trong làng phục chế tranh là Umberto Conti truyền dạy đầu tiên cho ông ở Venice. Hỗn hợp đó đủ mạnh để hòa tan các chất bẩn ngoài bề mặt và lớp sơn dầu cũ nhưng không hề làm tổn hại nét cọ nguyên bản của họa sĩ. Bây giờ ông nhúng miếng gạc bông được làm thủ công vào dung dịch rồi nhẹ nhàng xoa nó vòng quanh nhũ hoa bị lật ngược của Susanna. Ánh nhìn đăm đắm của nàng chếch sang một bên và dường như chỉ mơ hồ nhận biết hai gã lớn tuổi dâm đãng trong làng đang ngắm nghía cảnh nàng tắm từ bên kia tường rào vườn nhà nàng. Vốn là người hiếm khi bảo vệ phụ nữ, Gabriel ước gì mình có thể can thiệp và giúp nàng xoa dịu những tổn thương về những điều sắp xảy đến - việc cáo buộc sai, phiên xét xử và tội danh tử hình. Thay vì vậy, ông xoa miếng gạc bông trên bề mặt nhũ hoa của nàng và quan sát khi màu da vàng chuyển sang trắng sáng.

Khi miếng gạc trở nên lấm lem, Gabriel bỏ nó vào một cái bình cổ nhỏ kín khí để giữ hơi thuốc không bay ra ngoài. Khi chuẩn bị một miếng gạc khác, mắt ông từ từ di chuyển trên bề mặt của bức tranh. Hiện giờ người ta cho nó chỉ là tranh của một môn đệ Titian mà thôi. Nhưng chủ nhân hiện thời của bức tranh là nhà buôn tranh Julian Isherwood nổi tiếng ở London lại tin nó đã đến từ xưởng vẽ của Jacopo Bassano. [1] Ông tán thành với nhận định này - thật vậy, giờ đây khi đã làm lộ ra phần nào nét cọ, ông đã thấy chứng cứ của chính Bậc thầy, nhất là trong hình dáng của Susanna. Gabriel biết rõ bút pháp của Bassano; đã nghiên cứu rất nhiều bức họa của Bassano trong thời gian tập sự và đã có lần trải qua nhiều tháng ở Zurich để phục chế một tác phẩm quan trọng của Bassano cho một nhà sưu tập tư nhân. Trong đêm lưu trú cuối cùng, Gabriel đã giết một gã đàn ông tên là All Abdel Hamidi trong một lối đi ẩm ướt gần bờ sông. Hamidi là một tên trùm khủng bố người Palestine với bàn tay từng nhuốm nhiều máu của dân Israel. Hắn đang giả làm một nhà biên kịch; và Gabriel đã cho hắn một cái chết xứng với sự nghiệp văn chương giả vờ của hắn.

Ông nhúng một miếng gạc mới vào hỗn hợp dung môi, nhưng chưa kịp làm tiếp công việc của mình đã nghe tiếng nổ ầm ầm quen thuộc của động cơ xe hơi hạng nặng ngoài đường, ông bước ra khoảnh sân trước căn hộ để xác định lại điều mình nghi ngờ, rồi mở hé cánh cửa ra. Một lát sau Ari Shamron đã ngồi vắt vẻo trên một cái ghế gỗ cao bên cạnh Gabriel. Ông ta mặc một cái quần kaki, một áo sơ mi trắng bằng vải oxford và một áo khoác bằng da có một chỗ rách chưa may vá lại bên vai trái. Cặp mắt kính xấu xí của ông ngời lên ánh sáng từ những chiếc đèn halogen ở chỗ Gabriel đang làm việc. Mặt ông ta có những lằn và vết hằn sâu lộ vẻ hết sức ghê tởm.

“Tôi có thể ngửi thấy mùi hóa chất ấy khi vừa mới xuống xe,” Shamron nói. “Tôi chỉ có thể hình dung ra những tai hại mà chúng đã gây ra cho cơ thể của anh sau những năm tháng như thế này.”

“Cứ yên tâm đi, chẳng có gì sánh được với tai hại mà ông đã gây ra đâu,” Gabriel đáp. “Tôi rất ngạc nhiên vì mình vẫn còn cầm cọ vẽ được.”

Gabriel đặt miếng gạc đã hút ẩm lên da thịt của Susanna rồi nhẹ nhàng xoay vòng, Shamron nhăn nhó với cái đồng hồ đeo tay bằng thép không rỉ của mình như thể nó không còn chỉ đúng giờ nữa.

“Có gì không ổn à?” Gabriel hỏi.

“Tôi chỉ đang tự hỏi phải mất thời gian bao lâu nữa anh mới mời tôi một tách cà phê.”

“Ông biết mọi thứ ở đâu rồi. Thực tế, bây giờ ông đang sinh sống ở đây mà.”

Shamron làu bàu gì đó bằng tiếng Ba Lan về sự vô ơn của con cháu. Ông ta đẩy người tụt xuống cái ghế cao rồi nặng nề chống gậy lần mò đi vào nhà bếp. Ông cố mở vòi xả nước vào đầy ấm trà, nhưng lại có vẻ rối trí vì nhiều nút bấm và mặt đồng hồ khác nhau trên bếp lò. Ari Shamron từng hai lần giữ chức Giám đốc cơ quan Tình báo Israel, và trước đó từng là một trong những sĩ quan cấp tá có nhiều huân chương nhất của cơ quan ấy. Nhưng giờ đây, khi tuổi đã già, dường như ông không có khả năng làm những việc nhà đơn giản nhất. Các máy pha cà phê, máy xay, lò nướng: những thứ này đều bí ẩn đối với ông. Bà vợ Gilah từng phải chịu đựng ông rất lâu, thường nói đùa rằng Ari Shamron vĩ đại nếu bị bỏ quên với các dụng cụ của bà sẽ lần mò tới chỗ chết đói trong nhà bếp đầy ắp thức ăn.

Gabriel bật lửa bếp lò rồi trở lại với công việc của mình, Shamron đứng ở các cánh cửa kiểu Pháp để hút thuốc. Mùi thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ hôi hám chẳng mấy chốc đã lấn át hẳn mùi dung môi hăng hắc.

“Ông phải hút thuốc sao?” Gabriel hỏi.

“Tôi phải hút,” Ông già đáp.

“Ông đang làm gì ở Jerusalem này vậy?”

“Thủ tướng đã muốn nói đôi lời.”

“Thật vậy sao?”

Shamron trừng mắt nhìn Gabriel qua một đám khói thuốc màu xanh xám. “Sao anh lại ngạc nhiên vì Thủ tướng muốn gặp tôi chứ?”

“Tại vì...”

“Tôi đã già và không thích hợp hay sao?” ông già hỏi, ngắt ngang lời Gabriel.

“Ông không biết lý luận, thiếu kiên nhẫn, đôi lúc còn vô lý nữa, nhưng chưa bao giờ không thích hợp.”

Shamron gật đầu đồng ý. Tuổi tác cho ông khả năng ít ra cũng thấy được các nhược điểm của mình, dù cần phải mất nhiều thời gian để sửa chữa.

“Ông ấy có khỏe không?” Gabriel hỏi.

“Vẫn khỏe như anh có thể hình dung.”

“Các ông đã bàn chuyện gì?

“Cuộc nói chuyện của chúng tôi có phạm vi rộng và thẳng thắn.”

“Có phải như vậy nghĩa là các ông đã lớn tiếng với nhau hay không?”

“Tôi chỉ lớn tiếng với một Thủ tướng mà thôi.”

“Ai vậy?” Gabriel hỏi, thực sự hiếu kỳ.

“Bà Golda,” Shamron đáp. “Đó là cái ngày sau vụ Munich. Tôi đã nói với bà ấy về việc chúng ta phải thay đổi sách lược của mình, chúng ta phải khủng bố lại bọn khủng bố. Tôi đưa cho bà một danh sách những kẻ phải chết. Bà ta không muốn giết ai trong đó.”

“Vì vậy ông đã lớn tiếng với bà ta?”

“Lúc đó không thể làm gì hay ho hơn vậy.”

“Bà ta đã làm gì?”

“Bà ấy đã hét trả lại, tất nhiên rồi. Nhưng cuối cùng bà đổi ý theo cách nghĩ của tôi. Sau đó tôi tập hợp một danh sách khác gồm tên các thanh niên tôi cần để tiến hành điệp vụ đó. Hết thảy đều đồng ý không hề do dự.” Ông già ngừng lại một lát rồi nói tiếp, “Hết thảy trừ một người.”

Gabriel lẳng lặng bỏ miếng gạc bẩn vào cái bình cổ nhỏ kín khí. Nó giữ cho hơi độc của dung môi không bị thoát ra ngoài, nhưng không giữ được hồi ức về cuộc gặp đầu tiên của ông với người đàn ông mà người ta gọi là Memuneh, được biết đến như là người phụ trách. Nó đã xảy ra chỉ cách nơi ông đang đứng vài trăm mét trong khu nhà và sân bãi của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Thiết kế Bezalel. Gabriel vừa rời buổi thuyết giảng về tranh của Viktor Frankel, họa sĩ thuộc trường phái Biểu hiện người Đức nổi tiếng, và cũng chính là ông ngoại của Gabriel. Khi đó Shamron đang đợi chàng trai ở ven một cái sân tắm nắng, một người đàn ông như một thanh sắt nhỏ đeo cặp kính thật gớm ghiếc, có hàm răng y hệt một cái bẫy bằng thép. Như thường lệ, ông ta đã chuẩn bị kỹ lưỡng, ông biết rằng Gabriel đã được nuôi dưỡng ở một khu định cư nông nghiệp heo hút trong thung lũng Jezreel và có một mối căm ghét nhiệt thành đối với công việc đồng áng. Ông biết mẹ Gabriel, một họa sĩ thiên tài trong lĩnh vực của bà, người đã sống sót thoát khỏi trại tử thần Birkenau nhưng lại không thể là đối thủ của căn bệnh ung thư đã hành hạ thể xác của bà. Ông cũng biết ngôn ngữ thứ nhất của Gabriel là tiếng Đức và đó vẫn là ngôn ngữ hằn sâu trong những giấc mơ của anh ta. Tất cả đều ở trong xấp tài liệu ông đang cầm trong những ngón tay dính nicotine của mình. “Điệp vụ này sẽ được gọi là Cơn Thịnh nộ của Thượng Đế (Wrath of God),” ông đã nói ngày hôm đó. “Không phải vì công lý. Vì để trả thù - thuần túy và đơn giản là để trả thù cho mười một sinh mạng vô tội đã mất đi ở Munich.” Gabriel đã bảo Shamron hãy tìm người khác. “Tôi không muốn ai khác,” ông ta đã phản ứng lại. “Tôi muốn cậu.”

Ba năm sau đó, Gabriel và các đặc vụ khác tham gia điệp vụ Cơn Thịnh nộ của Thượng Đế đã lén theo đuổi các con mồi của mình khắp châu Âu và vùng Trung Đông. Trang bị một khẩu Beretta cỡ 22 li, đây là một khẩu súng hãm thanh thích hợp để giết người ở tầm đạn gần, Gabriel đã đích thân ám sát sáu thành viên của nhóm Tháng chín Đen. Bất cứ khi nào có thể được, chàng bắn liền mười một phát súng, mỗi viên đạn trả thù cho một người dân Israel bị thảm sát ở Munich. Cuối cùng khi trở về nhà, tóc mai hai bên thái dương đã ngả màu sương và gương mặt chàng già đi thêm hai mươi năm. Không còn có khả năng sáng tác các tác phẩm nguyên bản nữa, chàng đi Venice để học nghề phục chế tranh. Sau đó khi thư thả, chàng trở lại làm cho Shamron. Những năm tiếp theo, chàng đã tiến hành một số điệp vụ có vẻ hoang đường nhất trong lịch sử ngành tình báo Israel. Giờ đây sau nhiều năm lang thang không ngừng nghỉ, cuối cùng chàng đã trở về Jerusalem, chẳng ai hài lòng vì chuyện này hơn Shamron, ông thương Gabriel như con trai của mình và xem căn hộ ở Phố Narkiss như nhà mình. Có lần Gabriel cảm thấy bức bách bởi sự hiện diện liên tục của Shamron, nhưng cũng chẳng hành động gì hơn. Ari Shamron vĩ đại sống hoài sống mãi, nhưng thân thể nơi linh hồn ông trú ngụ lại không mãi mãi tồn tại lâu dài.

Chẳng có gì làm tổn hại sức khỏe của Shamron hơn việc ông hút thuốc không ngừng, ông đã nhiễm thói quen này khi còn là một thanh niên ở miền Đông Ba Lan, và nó trở nên tệ hại hơn sau khi ông tới Palestine, nơi ông đã tham gia cuộc chiến tranh dẫn đến nền độc lập của Israel. Giờ đây, khi diễn tả lại cuộc họp với Thủ tướng, ông bật nắp hộp quẹt Zippo, mồi lửa đốt thêm một điếu thuốc bốc mùi hôi hám.

“Thủ tướng bực mình lắm, bực hơn thường lệ. Tôi nghĩ rằng ông có quyền như vậy. Cuộc Thức tỉnh Ả Rập vĩ đại đã nhấn chìm toàn khu vực này trong cảnh hỗn mang. Còn Iran thì càng lúc càng tiến tới gần việc hiện thực hóa giấc mơ hạt nhân của mình. Vào thời điểm nào đó, sớm thôi, chúng sẽ bắt đầu đưa ra một khu vực được miễn trừ khiến chúng ta không thể có hành động quân sự nếu không có sự giúp đỡ của người Mỹ.” Ông ta đóng nắp hộp quẹt kêu một tiếng tách rồi nhìn Gabriel đang tiếp tục thực hiện công việc xử lý bức tranh. “Anh đang nghe tôi nói đó chứ?”

“Tôi vẫn theo sát từng lời ông nói đây.”

“Chứng minh đi.”

Gabriel lặp lại đúng nguyên văn câu ông vừa nói. Ông ta mỉm cười, ông xem trí nhớ hoàn hảo của Gabriel như một trong những tài vặt hay ho nhất, ông xoay vòng cái hộp quẹt Zippo trong những đầu ngón tay. Xoay sang phải. Xoay sang trái.

“Vấn đề là Tổng thống Mỹ từ chối thiết lập bất cứ một đường dây nóng vững chắc và nhanh chóng nào. Ông ta nói sẽ không để cho Iran chế tạo vũ khí hạt nhân. Nhưng lời tuyên bố đó vô nghĩa nếu như Iran có khả năng chế tạo chúng trong một thời gian ngắn.”

“Cũng như Nhật Bản.”

“Nhật không bị bọn Shia mullah chuyên tàn phá và hủy diệt cai trị,” Shamron nói. “Nếu Tổng thống Mỹ không cẩn thận, hai thành tựu quan trọng nhất về chính sách ngoại giao của ông ta sẽ là một nước Iran có vũ khí hạt nhân và sự phục hồi của Vương triều Hồi giáo.”

“Chào mừng ông đến với thế giới hậu Mỹ Quốc, Ari.”

“Vì vậy tôi mới nghĩ chúng ta đã dại dột khi trao nền an ninh của mình vào tay họ. Nhưng đó không phải là vấn đề nan giải duy nhất của Thủ tướng,” Shamron nói thêm. “Các tướng lĩnh không chắc chắn họ có thể phá hủy hoàn toàn chương trình để tạo nên một đòn tấn công quân sự hữu hiệu. Và Đại lộ King Saul dưới sự giám hộ của Uzi Navot - bạn anh, đang cho Thủ tướng biết về một cuộc chiến tranh đơn phương với người Ba Tư sẽ là một trong những thảm họa khủng khiếp như trong Kinh Thánh.”

Đại lộ King Saul là địa chỉ của cơ quan Tình báo bí mật Israel. Nó có một tên dài nhằm cố tình đánh lạc hướng và đảm nhiệm những công việc không mảy may dính líu đến bản chất hoạt động. Ngay cả các điệp viên đã về hưu như Gabriel và Shamron cũng xem đó như là “Văn phòng”, không hơn không kém.

“Uzi là người mỗi ngày vẫn gặp những người làm tình báo chưa có kinh nghiệm,” Gabriel nói.

“Tôi cũng thường gặp. Không phải tất cả,” Shamron hấp tấp chêm vào, “nhưng đủ để khiến tôi tin những tính toán của Uzi về việc chúng ta có bao nhiêu thời gian có thể không hoàn toàn đúng.”

“Tính toán chưa bao giờ là sở trường của Uzi, nhưng trên chiến trường anh ta chưa bao giờ lầm lỗi.”

“Đó là vì anh ta hiếm khi... đặt mình vào vị thế có thể phạm lỗi.” Shamron chợt im lặng ngắm nhìn gió lùa vào tán lá cây bạch đàn bên ngoài lan can sân trước nhà Gabriel. “Tôi vẫn luôn nói một sự nghiệp không cần bàn cãi hoàn toàn không phải là một sự nghiệp đúng nghĩa. Tôi có phần của tôi, và anh cũng có phần của anh.”

“Còn tôi thì có một vết sẹo để chứng minh điều đó.”

“Còn có những cái ôm hôn nữa,” Shamron nói. “Thủ tướng băn khoăn lo Văn phòng quá cảnh giác khi đụng tới Iran. Đúng, chúng ta đã gài vi rút vào máy tính của chúng và trừ khử một loạt nhà khoa học của chúng, nhưng gần đây chẳng có chuyện gì nổi đình nổi đám cả. Thủ tướng muốn Uzi mở một điệp vụ tuyệt tác khác.”

Tuyệt Tác (Masterpiece) là mật danh để chỉ điệp vụ hỗn hợp của Israel với Mỹ và Vương quốc Anh, mà kết quả đã phá hủy bốn cơ sở bí mật của Iran giúp việc làm giàu nguyên liệu hạt nhân dễ dàng hơn. Nó đã diễn ra dưới sự giám sát của Uzi Navot, nhưng bên trong các hành lang của Đại lộ King Saul nó lại được xem như một trong những giờ phút tuyệt vời nhất của Gabriel.

“Các cơ hội như Tuyệt Tác không đến hằng ngày đâu, Ari à.”

“Đúng vậy,” Shamron thừa nhận. “Nhưng tôi vẫn luôn tin hầu hết cơ hội đều do mình giành lấy chứ không phải được ban phát. Và Thủ tướng cũng vậy.”

“Có phải ông ta đã mất niềm tin với Uzi hay không?”

“Chưa đâu. Nhưng ông ta muốn biết liệu rằng tôi có mất niềm tin hay không.”

“Ông đã nói gì?”

“Tôi có lựa chọn nào hay sao? Tôi là người đã khuyên ông ta làm việc ấy mà.”

“Vậy ông đã chúc phúc cho ông ta?”

“Đã có điều kiện đó.”

“Sao lại vậy?”

“Tôi đã nhắc Thủ tướng người mà tôi thực sự muốn để làm việc đó lại không hề quan tâm.” Ông già lắc đầu chầm chậm. “Anh là người duy nhất trong lịch sử của Văn phòng đã gạt bỏ cơ hội trở thành người quản lý.”

“Mọi sự đều có khởi đầu cả, Ari.”

“Vậy có nghĩa là anh có thể xem xét lại?”

“Đó là lý do ông đã tới đây?”

“Tôi tưởng anh có thể vui thích khi cùng làm việc với tôi,” ông già nói khích. “Thủ tướng và tôi đã thắc mắc không biết anh có thể sẵn lòng làm một chút việc bao đồng giúp cho đồng minh thân cận nhất của chúng ta hay không.”

“Việc gì vậy?”

“Graham Seymour vừa ghé thăm thành phố mà không báo trước. Anh ta muốn nói vài lời.”

Nhà phục chế tranh quay lại đối diện với Shamron. “Vài lời về chuyện gì?” một lát sau ông hỏi.

“Anh ta không nói, nhưng có vẻ khẩn cấp,” Shamron bước tới giá vẽ, nheo mắt nhìn khung vải cổ xưa, nơi nhà phục chế đang làm việc. “Trông nó lại có vẻ mới toanh rồi.”

“Chính là điểm này.”

“Liệu có cơ hội nào để anh cũng làm như vậy với tôi hay không?”

“Xin lỗi ông, Ari,” Gabriel sờ gò má có vết hằn sâu của Shamron, “nhưng tôi e rằng ông không còn sửa chữa gì được nữa.”

Chú thích:

[1] Tên thật Jacopo da Pon: người quan trọng nhất trong một dòng họ họa sĩ ở Venice vào thế kỷ 16 và đầu thế kỳ 17, sinh ra khoảng năm 1510; thường vẽ chân dung, các cảnh trong Kinh Thánh và thần thoại với đặc điểm các thân thể được kéo dài ra và màu sắc rực rỡ.